Đề tài Thực trạng xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta (ứng dụng trong phát triển các dịch vụ marketing cho công ty quảng cáo phước sơn)

Gạo Việt nam chưa có thương hiệu", "Bảo hộ thương hiệu, nước đến chân mới nhảy", "Thương hiệu Việt nam ra đến nước ngoài là mất", "Không có thương hiệu, trái cây Việt nam chịu nhiều thua thiệt", . là những tiêu đề nóng hổi trên các tờ báo thời gian vừa qua. Quãng đường từ quan điểm quảng cáo "chất lượng tốt" đến "nâng niu bàn chân Việt", "cảm giác rất Yo-most" hay "mang lại sự tự tin" là một khoảng cách rất lớn. Câu chuyện của cà phê Trung Nguyên, sữa Vinamilk, nước mắm Phú Quốc, thường in đậm dấu ấn vào trí nhớ của các giám đốc và làm cho họ ngày càng mong muốn có một thương hiệu mạnh hơn. PHẦN 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU CỦA CÁC DNVVN Ở NƯỚC TA PHẦN 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU PHÙ HỢP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ HIỆN NAY

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4210 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta (ứng dụng trong phát triển các dịch vụ marketing cho công ty quảng cáo phước sơn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần nhiều chi phí; có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi. Thứ ba, nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ. Thứ tư, dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh, làm vệ tinh gia công, chế tác cho các DN lớn. DNVVN có thể len lỏi, xâm nhập vào các thị trường ngách và dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền trong lãnh thổ một quốc gia. Thực trạng xây dựng thương hiệu của các DNVVN, những khó khăn mà họ thường gặp phải. Thời gian gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú ý hơn tới việc xây dựng thương hiệu. Tuy nhiên còn có nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm hơn nữa. Trước hết, một thực tế là hiện nay không ít doanh nghiệp Việt Nam đang còn nhầm lẫn giữa hai khái niệm thương hiệu và nhãn hiệu. Nhãn hiệu là những yếu tố vật thể có thể nhìn thấy bằng mắt thường về những “chào mời” (offer) của doanh nghiệp. Theo tôi, nhãn hiệu thuộc lĩnh vực quảng cáo, là những thông điệp được gửi đi bởi doanh nghiệp. Còn thương hiệu bao gồm tất cả những gì mà khách hàng thật sự cảm nhận về doanh nghiệp và về những sản phẩm dịch vụ cung ứng bởi doanh nghiệp. Nói cách khác, thương hiệu là một khái niệm xuyên suốt cả quy trình từ khi thông điệp được gửi đi bởi doanh nghiệp đến khi thông điệp nhận được bởi các đối tác của doanh nghiệp. Vì thế thương hiệu mang tính phi vật thể, là cách kết nối của mối quan hệ bền vững giữa doanh nghiệp và khách hàng. Trong kinh doanh, chính quan hệ lâu dài đó mới làm cho doanh nghiệp phát triển. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chỉ quan niệm thương hiệu là những gì giúp khách hàng nhận biết và gợi nhớ về sản phẩm của doanh nghiệp. Từ quan niệm đó mà không ít doanh nghiệp đang thực hiện một chiến lược xây dựng thương hiệu sai lầm. Xin lấy một ví dụ về việc thực hiện các chương trình khuyến mại vốn đang rất rầm rộ ở Việt Nam hiện nay. Các kiểu khuyến mại phổ biến ở Việt Nam như giảm giá hoặc quà tặng thêm thực chất chỉ giúp doanh nghiệp bán được hàng tại thời điểm đó thông qua việc tạo cho khách hàng cảm giác mua được sản phẩm với giá hời. Khuyến mại của doanh nghiệp có khả năng mang đến cho người ta lợi ích tức thì. Tuy nhiên chuyện gì sẽ xảy ra khi doanh nghiệp A khuyến mại, doanh nghiệp B trong cùng lĩnh vực đó cũng khuyến mại ở mức cao hơn và doanh nghiệp C lại khuyến mại cao hơn nữa? Bản chất của hiện tượng khuyến mại khi đó chỉ là giành giật khách hàng mà không có doanh nghiệp nào thông qua khuyến mại tạo cơ hội cho khách hàng kết nối một mối quan hệ lâu dài bền vững với mình. Những khách hàng đến với doanh nghiệp thông qua khuyến mại là những khách hàng không thường xuyên, “khách hàng quay vòng” (“spinner”), đến với doanh nghiệp do bị quyến rũ bởi những chương trình khuyến mại. Bản thân sự khuyến mại không khuyến khích sự trung thành của khách hàng, trong khi sự trung thành của khách hàng với sản phẩm mới mang lại mối lợi cho doanh nghiệp. Theo thống kê của kinh tế thị trường tư bản, với một khách hàng đến bởi hấp lực của chương trình khuyến mại phải 11 tháng sau mới mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp (trước đó, doanh số có từ khách hàng mới thu hút được bởi chương trình khuyến mại của doanh nghiệp chỉ để trang trải những chi phí của chương trình ấy!) Khi doanh nghiệp đã khuyến mại rồi thì lại phải tiếp tục khuyến mại vì nếu không hình ảnh của mình trong thâm tâm khách hàng bị phai nhạt. Do đó, khuyến mại biến thành một vòng tròn xoắn mang tính chất tiêu cực chứ không tích cực trong kinh doanh. Khi quảng bá hình ảnh của mình, các doanh nghiệp hiện nay không nói đến chất lượng “chuẩn” nữa mà nhấn mạnh vào những “giá trị vượt trội”, nghĩa là “cái mà mình có mà không hoặc chưa ai có”. Khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam giới thiệu sản phẩm của mình đạt tiêu chuẩn ISO như là một lợi thế cạnh tranh mà quên đi rằng ISO là International Standard of Organisation. Mà khi đã là Standard tức là “cái chuẩn” thì không thể coi đó là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh phải dựa vào “cái vượt chuẩn”. Muốn có thương hiệu, có quan hệ lâu dài với khách hàng doanh nghiệp phải làm cho khách hàng có được một cảm nhận, một ấn tượng tích cực về doanh nghiệp, nói cách khác đó là giá trị gia tăng (added value) phi vật thể mà thương hiệu cần phải mang đến cho khách hàng. Cơ sở của thương hiệu là ở đó, chứ không phải chỉ dựa thuần tuý trên chất lượng của sản phẩm dịch vụ vì, chất lượng sản phẩm là điều mà doanh nghiệp đương nhiên phải có. Chưa nhận thức đầy đủ về thương hiệu: Theo khảo sát mới đây của Bộ Công Thương, có tới 95% trong số hơn 100 DN được hỏi trả lời rằng cần thiết phải xây dựng và phát triển thương hiệu. Hầu hết các DN đều cho rằng, thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh doanh, là tài sản vô hình có giá trị lớn nhất của DN… Tuy nhiên, mới chỉ có 20% DN hiểu được rằng xây dựng thương hiệu cần bắt đầu từ đâu, số còn lại đều rất lúng túng khi đưa ra một kế hoạch phát triển thương hiệu. Do vậy, thương hiệu của hầu hết các DN hiện nay mới chỉ dừng ở mức độ để phân biệt chứ chưa được thương mại hoá. Thực trạng này xuất phát từ nhận thức của chính các DN, cho rằng việc có một cái tên, một logo đẹp, được đăng ký bảo hộ, là hoàn thành việc xây dựng thương hiệu… nhưng thực chất việc xây dựng, phát triển thương hiệu là phải làm cho cái tên đó trở lên có ý nghĩa, có tác động mạnh tới tâm lý và hành vi của người tiêu dùng và quan trọng hơn, phải có giá trị thương mại. Đây là công việc lâu dài, mang tính chiến lược của DN, bao gồm việc định hướng chiến lược cho hệ thống thương hiệu, việc quảng bá và định vị thương hiệu và các hệ thống quản lý nhằm bảo vệ và phát triển thương hiệu. Ở Việt Nam đang diễn ra tình trạng rất nhiều sản phẩm của các DN có chất lượng tốt, giá rẻ nhưng do chưa có thương hiệu nên rất khó cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trên thị trường cả trong nước và nước ngoài. Nhiều sản phẩm hàng Việt Nam hiện nay đang được bán trên thị trường thế giới dưới tên thương hiệu mạnh của nước ngoài, bản chất là chúng ta làm gia công cho họ. Cái lợi của việc này là chúng ta tranh thủ được sức mạnh của một thương hiệu khác, từ đó phát triển thương hiệu cho riêng mình. Tuy nhiên, hiệu quả của cách này không cao và mất nhiều thời gian, phụ thuộc vào việc các nhà thu mua, phân phối có cho phép thương hiệu nhà sản xuất của chúng ta xuất hiện hay không. Hoặc một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường nhưng chưa thực sự nổi bật do các DN chưa có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu của mình, kinh phí dành cho việc xây dựng và quảng bá thương hiệu chưa được đầu tư đúng mức. Trong khi đó, một số sản phẩm được coi là có chỗ đứng lại gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì và bảo vệ thương hiệu. Theo một điều tra mới đây do Báo Sài Gòn Tiếp thị thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Sài Gòn về hiện trạng xây dựng thương hiệu của DNVVN Việt Nam trên 498 DN cho thấy: Trong đó 66% là DN tư nhân và 34% DN nhà nước cho thấy các DN chưa đầu tư đầy đủ nhân lực cho xây dựng và phát triển thương hiệu. Chỉ có 16% số DN có bộ phận chuyên trách/phòng tiếp thị chịu trách nhiệm chính về hoạt động tiếp thị, 80% DN không có chức danh quản lý thương hiệu (brand manager) trong công ty.(() (Nguồn TBKTSG số 47 ngày 14/11/2002 trang 13, tác giả Lan Anh). ) Trên thực tế, các lãnh đạo DN đều biết rõ tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, dịch vụ hay công ty mình nhưng nhiều khi do điều kiện tài chính eo hẹp không đủ thể trả cả ngàn USD / tháng để thuê các giám đốc thương hiệu nhiều kinh nghiệm từ các công ty nước ngoài về xây dựng và thực hiện chiến lược cho mình. Còn thuê những người ít kinh nghiệm thì lại không tin tưởng để giao cho họ hoạch định và thực hiện các kế hoạch phát triển thương hiệu vì chi phí của các hoạt động này thường là rất lớn. Mặt khác, các giám đốc thương hiệu đã từng làm cho các công ty nước ngoài nhiều khi cũng ngần ngại khi làm với các công ty Việt Nam vì mối lo phải làm việc trong môi trường không chuyên nghiệp. Theo số liệu thống kê của Sở Thương Mại TPHCM, phối hợp với các câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao tiến hành gần đây đối với 500 doanh nghiệp, chỉ có 30% doanh nghiệp nghĩ rằng thương hiệu giúp họ bán được hàng, 50% doanh nghiệp không có bộ phận tiếp thị thương hiệu, 70% doanh nghiệp chỉ đầu tư từ 2,5%-5% doanh thu cho việc quảng bá thương hiệu. Có thể nói rằng, các doanh nghiệp thực sự chưa chú trọng nhiều về vấn đề này. Thiếu đầu tư xây dựng, bảo hộ thương hiệu Thế nhưng, việc xây dựng thương hiệu của các DN ở nước ta hiện nay còn mang tính tự phát, một số có tính tổ chức nhưng còn mang tính manh mún, rời rạc. Nhiều DN còn ngần ngại cho việc đầu tư xây dựng, đăng ký bảo hộ thương hiệu. Đây là điểm yếu của của các DN hiện nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết do hạn chế về tiềm lực tài chính vì đa số các DN Việt Nam là DNVVN hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay. Vì vậy, họ rất ngại tốn kém chi phí khi phải bỏ ra số tiền không phải là nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ thương hiệu, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài. Hơn nữa, các DN Việt Nam còn yếu về nhận thức luật pháp, phong cách kinh doanh mang đậm nét của một quốc gia nông nghiệp như tâm lý làm ăn nhỏ, sợ rủi ro trong kinh doanh, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà chưa thấy lợi ích lâu dài… Chỉ khi nào thương hiệu bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại từ phía thứ ba thì DN mới tính đến việc làm thủ tục đăng ký bảo hộ. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu phải được tiến hành đồng thời với việc quảng bá và đưa sản phẩm thâm nhập thị trường, thậm chí việc đăng ký thương hiệu phải đi trước một bước. Thực tế thời gian qua ở nước ta cho thấy, nhiều mặt hàng của Việt Nam chất lượng không thua kém hàng hóa của nước ngoài nhưng giá cả thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác do DN chưa chú trọng trong công tác thương hiệu, chưa có hành động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu. Thực trạng công tác xây dựng, phát triển thương hiệu thời gian qua cho thấy, hầu hết trong các DN chưa có bộ phận chuyên trách về thương hiệu, nhiều DN chưa có chức danh quản lý nhãn hiệu độc lập. Đối với DN tư nhân nhỏ hầu như chưa có khái niệm thương hiệu trong chiến lược kinh doanh, còn đối với DN tư nhân quy mô lớn hơn thì vấn đề xây dựng, phát triển thương hiệu chủ yếu thuộc về ban giám đốc, các bộ phận khác như phòng kinh doanh, bộ phận bán hàng, phòng tiếp thị mang tính chất phụ trợ, giúp việc. Ở các DN nhà nước, do ràng buộc về cơ chế, chính sách, sự bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước dẫn đến vấn đề thương hiệu chưa được quan tâm thỏa đáng. Những số liệu thực tiễn Điều đáng mừng là, theo kết quả điều tra gần đây của báo Sài Gòn tiếp thị và Câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao cho thấy: trong các tiêu chí về cải tiến công nghệ, giảm giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm… thì DN nhà nước quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu đạt 56%, DN tư nhân 57%. Nếu phân theo lãnh thổ thì khu vực miền Trung đạt tỷ lệ cao nhất 62%, kế đến là miền Đông Nam Bộ 60%, miền Bắc 54%, đồng bằng sông Cửu Long 41% (() Tạp chí Thương mại số 18.2003 ) . Tuy nhiên, những con số trên chỉ mang tính chất thăm dò, tương đối. Số lượng thương hiệu hàng hóa được các DN Việt Nam đăng ký bảo hộ trong 2 năm qua đã tăng hơn 2 lần, năm 2001 có 3.095 thương hiệu trong tổng số 6.345 thương hiệu đăng ký, chiếm 48,7%; năm 2002 lên đến 6.564 thương hiệu trong tổng số 8.818 thương hiệu đăng ký bảo hộ, chiếm 74% (() Tạp chí Hoạt động khoa học số 4.2003. Tác giả:Giảng viên đại học kinh tế tp.hcm Đoàn ngọc phúc ). Số lượng thương hiệu Việt Nam đăng ký bảo hộ ở nước ngoài theo thỏa ước Madrid cũng tăng lên từ 7 năm 2001 lên 31 năm 2002. Hai tên gọi xuất xứ hàng hóa của Việt Nam là nước mắm Phú Quốc và chè Mộc Châu đã được công nhận bảo hộ ở thị trường nước ngoài. Ngoài ra, nước ta đang bảo hộ gần 6.000 nhãn hiệu hàng hóa theo thoả ước Madrid. Đến nay, trong tổng số 90.000 thương hiệu hàng hóa đã đăng ký bảo hộ trong nước mới chỉ có 15% là của DN Việt Nam. Theo khảo sát tại 500 DN, chỉ có 80% số DN đầu tư dưới 5% chi phí cho thương hiệu. Năm 2002, 10 thương hiệu quảng bá nhiều nhất ở Việt Nam đều là thương hiệu của DN nước ngoài. Từ khi luật DN có hiệu lực 1.1.2000, đã có hơn 42.000 DN thành lập, rất nhiều DN trong số này chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu ngay từ đầu do hạn chế về vốn, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh hiện đại như đã đề cập ở trên, nhưng một phần còn do nhận thức của đội ngũ chủ DN cho rằng cứ sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao là được người tiêu dùng biết đến là có thương hiệu. Đành rằng là vậy, nhưng thử hỏi ở nước ta bao nhiêu DN có đủ khả năng về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để tạo ra những sản phẩm chất lượng từ khi DN mới hình thành. Vì vậy, DN cần phải ý thức được rằng đi đôi với quan tâm nâng cao chất lượng sản phẩm là xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài và rất khó đánh giá, tính toán hết giá trị của nó, vì thương hiệu là thứ tài sản vô hình. Khi DN tạo được một thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình và đăng ký bảo hộ thương hiệu thì DN có thể độc quyền khai thác nó, tạo ra ưu thế trong kinh doanh, để bảo vệ uy tín DN, tạo điều kiện để thực hiện hiệu quả việc quảng cáo, hướng dẫn tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ từ đó làm tăng doanh thu, lợi nhuận cho DN và cũng có thể chuyển nhượng cho đối tượng khác hoặc tính gộp giá trị thương hiệu vào tài sản DN khi liên doanh, liên kết căn cứ vào thị phần, sự ổn định, tính quốc tế, xu hướng phát triển và sự bảo hộ thương hiệu của DN. Như vậy, trong những năm vừa qua hầu như các DNVVN của chúng ta đã chú ý nhiều đến các vấn đề về thương hiệu, nhưng do nhiều lý do khác nhau mà họ vẫn gặp những khó khăn khi tiến hành công việc đó của mình. Do thiếu kinh nghiệm và kiến thức trong vấn đề xây dựng thương hiệu nên các DN không biết bắt đầu từ đâu và lúng túng khi đưa ra một kế hoạch phát triển thương hiệu. Một lý do khác của sự việc này là do nhận thức của các DN chưa đúng về thương hiệu. Còn quá ít các DNVVN nước ta hiện nay có bộ phận chuyên trách / phòng tiếp thị chịu trách nhiệm chính về hoạt động tiếp thị và hầu hết các DNVVN của chúng ta không có chức danh pháp lý thương hiệu. Theo tôi, nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do điều kiện tài chính eo hẹp của các DN. Thực trạng cung ứng các dịch vụ marketing của công ty Quảng Cáo Phước Sơn cho các DNVVN hiện nay. Công ty Quảng Cáo Phước Sơn. Lịch sử hình thành của công ty: Ngành quảng cáo Việt Nam là một trong những ngành còn non trẻ. So với những nước tiên tiến trên thế giới thì quảng cáo Việt Na chỉ mới chính thức ra đời vào năm 1989 và thực sự bùng nổ vào những năm gần đây. Vào năm 1999, ngành công nghiệp quảng cáo Việt Nam có nhiều biến chuyển thuận lợi như: Chi phí quảng cáo cho năm 1999 tăng 6% so với năm 1998, các dịch vụ hỗ trợ quảng cáo như nghiên cứu thị trường xuất hiện. Đặc biệt lĩnh vực quảng cáo ngoài trời, thị trường còn rất lớn. Đứng trước tình hình trên nhằm đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của quảng cáo một số anh chị đã trưởng thành trong chuyên môn, có lòng yêu nghề đã quyết định thành lập công ty TNHH Phước Sơn. Công ty Phước Sơn đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Với đội ngũ trẻ, đầy tâm huyết, quyết tâm phấn đấu nên công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể và có được cho mình một vị thế nhất định góp phần vào sự phát triển của ngành quảng cáo nói riêng và kinh tế nước nhà nói chung. Đôi nét sơ lược: Tên doanh nghiệp: Cty TNHH Quảng cáo Phước Sơn Tên giao dịch: Phuocson Advertising Co., Ltd Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 4 10200 1788 Do sở kế hoạch và đầu tư cấp ngày: 31/07/2000 Người đại diện pháp luật Ông Đặng Văn Sơn là GD và là người đại diện theo pháp luật của cty Bà Nguyễn Thị phước Nhân là phó giám đốc. Vốn điều lệ: Vốn điều lệ của công ty được ấn định khi thành lập công ty là: 500.000.000 đồng, qua 8 năm hoạt động hiện nay vốn điều lệ công ty đã được tăng lên đến 5 tỷ đồng. Ngành nghề kinh doanh: Dịch vụ quảng cáo, tổ chức hội chợ, triển lãm, trang trí nội thất, sản xuất pano, hộp đèn, băng rôn, bàn ghế, tủ kệ. Xây dựng dân dụng, công nghiệp. Tư vấn xây dựng công trình giao thông thuỷ lợi. Sản phẩm vàdịch vụ chủ lực: Bảng hiệu, hộp đèn, pano, xây dựng dân dụng, dịch vụ cấp phép quảng cáo. Với yêu cầu mở rộng ngành nghề kinh doanh và địa bàn hoạt động đáp ứng sự tin cậy của khách hàng, công ty Phước Sơn thành lập thêm nhiều chi nhánh công ty tại các vùng kinh trọng điểm trên toàn quốc như Tây Nguyên, Hà Nội và Đà Nẵng. Nhưng do thị trường ít khách hàng, cạnh tranh khốc liệt cộng với chi phí cao nên công ty đã tạm thời ngừng hoạt động các chi nhánh một thời gian. Trong quá trình hoạt động, sự kiện việc thành lập xưởng sản xuất tại 449/30A Nơ Trang Long P13. Q. Bình Thạnh trên diện tích mặt bằng hơn 1000m2 với trang thiết bị phừ hợp với yêu cầu sản xuất là sự kiện đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của công ty. Hiện nay với văn phòng chính tại 338G Bùi Đình Tuý, P.24, Q.Bình Thạnh, Tp Hồ Chí Minh và xưởng sản xuất hoạt động của công ty Phước Sơn ngày càng được mở rộng và phát triển ổn định, bền vững nhằm đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu quảng bá, xây dựng thương hiệu trên khắp đất nước cũng như sự tin cậy, quý mến của khách hàng. Hiện nay Công ty Quảng Cáo Phước Sơn đang là một trong những DN có vị thế trong ngành quảng cáo ở TP Hồ Chí Minh, được người tiêu dùng cũng như các DN chứng nhận. Cơ cấu tổ chức: BAN GIÁM ĐỐC PHÒNG NHÂN SỰ PHÒNG KINH DOANH PHÒNG THIẾT KẾ PHÒNG KẾ TOÁN XƯỞNG SẢN XUẤT QMR Nhiệm vụ của từng phòng ban: Ban giám đốc: Giám đốc là người đứng đầu- đại diện cho công ty- có chức năng điều hành và quản lý các bộ phận thông qua tưởng phòng và phó phòng. Giám đốc có nhiều kinh nghiệm trong ngành quảng cáo. Phòng thiết kế: Có trách nhiệm về chất lượng và tiến độ trong thiết kế. Công việc cụ thể là: Thiết kế mẫu quảng cáo theo yêu cầu của khách hàng. Sáng tạo mẫu đính kèm để tư vấn thêm cho khách hàng lựa chọn Hỗ trợ cho công việc báo giá với phòng kinh doanh để báo giá chính xác, thích hợp và kịp lúc cho khách hàng. Trao đổi trực tiếp cho khách hàng về bản vẽ kỹ thuật, maquette mẫu. Phòng kế toán: Công việc cụ thể là: Chịu trách nhiệm về công tác thu chi, công nợ, lập bảng biểu, phân tích diễn biến và báo cáo số liệu kinh doanh trong công ty. Thực hiện tất cả các nghĩa vụ đối với nhà nước về thuế và tài chính. Quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Lập kế hoạch tài chính, ngân sách hoạt động cho công ty. Riêng kế toán vật tư: Chịu trách nhiệm mảng vật tư cho xưởng sản xuất. Xưởng sản xuất: Công việc cụ thể là: Sản xuất bảng hiệu tại xưởng. Lắp đặt bảng hiệu, pano,… cho khách hàng Bảo hành bảng hiệu, pano,… co khách hàng Tất cả các bộ phận trong công ty có mối quan hệ chặt chẽ, hổ trợ nhau từ khâu đầu tiên là tìm khách hàng cho đến khâu cuối cùng là lắp đặt xong bảng hiệu, pano… và bảo hành cho khách hàng. Mối quan hệ này vừa mang tính hỗ trợ vừa mang tính phụ thuộc vào nhau. Chính mối quan hệ này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công ty, nhưng đây cũng là điểm gây ra không ít khó khăn trong những trường hợp có sự xáo trộn về cơ cấu ở bất kỳ phòng ban nào đó, hoặc có sự cố xây ra trong quy trình làm việc theo dây chuyền. Mục tiêu, phương hướng phát triển. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ hống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng như xây dựng văn hoá văn nghiệp đạt một tầm cao mới, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và nguồn nhân lực trẻ- khẻo- năng động, đầy nhiệt huyết làm hành trang đưa công ty Phước Sơn tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh hơn. Tái cấu trúc công ty theo tình hình mới, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường cũng như sự cạnh tranh của hàng loạt công ty trong ngành, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, mức dộ cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt hơn. Thực hiện chính sách liên kết, hợp tác với một số công ty trong ngành nghề để chuyên nghiệp hoá sản xuất, giảm thiểu chi phí tăng khả năng cạnh tranh vàquan trong hơn nữa là hợp tác đẻ cùng phát triển. Thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp tiến tới gia nhập sàn giao dịch chứng khoán để thu hút vốn đầu tư, tăng quy mô của doanh nghiệp, tăng cường hoạt động đầu tư trang thiết bị, máy móc chuyên dụng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển. Phát triển thêm mảng quảng cáo trên truyền hình, tư vấn, xây dựng thương hiệu và tổ chúc sự kiện. Thực trạng cung cấp dịch vụ marketing của công ty Quảng Cáo Phước Sơn. Môi trường ngành nghề hoạt động: Hiện tại thì lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty vẫn là quảng cáo ngoài trời đặc biệt là in các bảng quảng cáo, pano…Trong lĩnh này công ty đã có khả năng cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính sáng tạo, chất lượng cao và dịch vụ mạng hỗ trợ quảng cáo cho các đối tác ngày càng hoàn thiện hơn, chính thức gia nhập đội ngũ các doanh nghiệp quảng cáo hàng đầu tại Việt Nam. Công ty đã trở thành đối tác quan trọng trong việc cung ứng các dịch vụ marketing cho nhiều tập đoàn kinh tế quan trọng của đất nước như tập đoàn Bưu Chính- Viễn Thông (VNPT), Tổng Công Ty Xăng Dầu Việt Nam (PETROLIMEX), Công ty SAMSUNG VINA, Công ty Cổ Phần Thực Phẩm Kinh Đô, Công ty LG ELECTRONICS Việt Nam, Công ty ACCECOOK Việt Nam, Công ty Bảo Hiểm ACE LIFE Việt Nam, Công ty Cổ Phần Sữa Việt Nam (VINAMILK), Công ty Bia Sài Gòn, Công ty thông tin di động Việt Nam Mobile Telecom Services Company (VMS)… Nhưng trong một vài năm trở lại đây, với sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thị trường, công nghệ phát triển mạnh mẽ nhất là công nghệ truyền thông đã sản sinh ra nhiều loại hình truyền thông mới tiên tiến và hiệu quả hơn nhiều. Ví dụ như việc quảng cáo qua blog, tin nhắn SMS ngày càng được sử dụng rộng rãi với sự hỗ trợ của internet và điện thoại di động. “Quảng cáo thoái vị, PR lên ngôi” cũng là một tất yếu khi đời sống con người ngày càng được nâng cao cả về giáo dục, nhận thức và nhất là nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao. Việc nước ta mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cũng mang lại những lợi thế cho ngành quảng cáo ngoài trời, những cũng chứa đựng những khó khăn không lường trước được. Khi các tập đoàn lớn đầu tư vào nước ta thì đây là những khách hàng tiềm năng các công ty Quảng cáo muốn khai thác, vì họ đang muốn đánh bóng hình ảnh của mình trên thị trường nước ta. Nhưng họ cũng là những khách hàng khó tính và có năng lực thương lượng cao hơn các công ty khác. Ngoài ra cũng có những tập đoàn hoạt động trong ngành thâm nhập vào Việt Nam làm cho thị trường càng cạnh tranh gay gắt hơn. Bên cạnh đó, việc xuất hiện ngày càng nhiều các công ty quảng cáo trong nước đã làm cho thị trường ngày càng khó tính, khách hàng đòi hỏi nhiều hơn do họ có nhiều lựa chọn và nhu cầu cao hơn. Không những thế, ngày nay đi đâu chúng ta cũng nhìn thấy các biển quảng cáo được gắn khắp nơi, có những biển được gắn bừa bãi sai quy định nên làm mất cảnh quan đô thị, ảnh hưởng đến giao thông đi lại…đã buộc các cấp chính quyền phải can thiệp vào. Do đó việc thực hiện quảng cáo ngoài trời ngày càng được kiểm soát kỹ càng hơn và gặp không ít khó khăn trong công việc xin giấy phép. Khách hàng: Khu vực hoạt động chủ yếu của công ty hiện nay là Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Đây là khu vực công ty đã và đang chiếm lợi thế với các đối thủ của mình. Khách hàng chính của công ty ở khu vực là các công ty, tổ chức thường có thị trường phân phối rộng khắp cả nước với nhiều chi nhánh, cữa hàng khác nhau. Các công ty này luôn có những bộ phận chuyên phụ trách về lĩnh vực quảng cáo, truyền thông do đó đây chính là những đối tác mà công ty cần phải tiếp xúc và quan tâm. Các công ty, tập đoàn lớn luôn đề cao tính chính xác, chuyên nghiệp và nhanh chóng trong công việc tiếp xúc, ký hợp đồng cũng như việc triển khai các dự án. Đây là loại khách hàng tổ chức nên việc tìm hiểu khách hàng là rất khó khăn, do đó việc tiếp xúc khách hàng chủ yếu là dựa trên các mối quan hệ có trước. Hiện nay công ty đang là nhà cung cấp bảng quảng cao, bảng hiệu chính cho Công ty thông tin di động Việt Nam Mobile Telecom Services Company (VMS), Công ty Bia Sài Gòn, Công ty SAMSUNG VINA…Đây là những hợp đồng sản xuất với số lượng lớn và được kéo dài trong tương lai. Đối thủ cạnh tranh. Hoạt động trong ngành quảng cáo với số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều, công ty Phước Sơn ngày phải đối đầu với nhiều đối thủ mạnh yếu khác nhau. Nhưng những đối thủ cạnh tranh chính là các doanh nghiệp cũng tập trung nguồn lực của họ vào lĩnh vực quảng cáo ngoài trời. Đa số các doanh nghiệp này cũng có những nguồn lực giống công ty như: Công ty Quảng Cáo Đất Việt, Công ty Quảng Cáo Trẻ, Công ty Quảng Cáo Lập Phương, Công ty Quảng Cáo Thành Vinh… Bên cạnh các doanh nghiệp trong ngành công ty Phước Sơn còn phải đối diện với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sắp thâm nhập vào ngành như Công ty TNHH Quảng cáo Mai Nguyễn. Đối thủ của công ty được xác định dựa trên việc cạnh tranh khách hàng khi thực hiện đấu thầu các bản hợp đồng và vị trí của các công ty trên thị trường. Sản Phẩm: Sản phẩm hiện tại chủ yếu của công ty là các bảng quảng cáo, Pano, thiết kế, trang trí nội thất…Đây là những sản phẩm mang tính chất thẩm mỹ cao và phải đúng với quy định của nhà nước. Khi một hợp đồng được ký, việc thiết kế có thể do khách hàng cung cấp mẫu hoặc do công ty thực hiện. Nhưng sản phẩm sẽ do công ty vẽ, sau đó đem cho khách hàng duyệt, nếu đạt nó sẽ được chuyển xuống xưởng sản xuất và đem đi gắn, trang trí tại các địa điểm có trong hợp đồng. Với việc phát triển mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, nhu cầu mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang các lĩnh vực khác là một tất yếu. Theo chiến lược phát triển sắp tới của công ty thì công ty sẽ mở rộng phát triển thêm các dịch vụ về tổ chức sự kiện, thiết kế trang trí nội thất, quảng cáo trên truyền hình và đặc biệt là tư vấn xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp. Vì đây là khó khăn đang gặp phải của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta hiện nay. Vơi tám năm hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo hiện nay công ty đã có một bề dày kinh nghiệm cộng với một nguồn lực tài chính dồi dao. Nhưng điều quan trong là hiện nay công ty đang sở hữu một đội ngũ nhân viên hùng hậu với nhân viên kinh doanh năng động, sáng tạo, nhanh nhẹn được đào tạo chính quy tại các trường danh tiếng trong và ngoài nước; nhân viên phòng thiết kế với trình độ chuyên môn cao, sáng tạo luôn thiết kế những sản phẩm độc đáo và biết cách làm hài lòng nhiều khách hàng khó tính. Bên cạnh đó công ty đang có một đội ngũ công nhân ở xưởng làng nghề và có kinh nghiệm trong việc sản xuất xây dựng các biển quảng cáo đủ các loại khác nhau. PHẦN 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU PHÙ HỢP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ HIỆN NAY. Giải Pháp xây Dựng Thương Hiệu Cho Các DNVVN Hiện Nay Ở Nước Ta. Quan niệm “thương hiệu mạnh nhất và giá trị nhất là các thương hiệu toàn cầu” thường dẫn người ta đi đến kết luận rằng chỉ những tập đoàn khổng lồ mới có thể xây dựng được thương hiệu mạnh, lý do là hoạt động xây dựng thương hiệu thường chỉ được thực hiện thông qua chương trình quảng cáo trên các phương tiện truyền thông. Chi phí tốn kém là không thể phủ nhận, song có phải đó là cách duy nhất? Các DN nhỏ thật sai lầm khi nghĩ rằng họ chỉ có thể chú tâm vào chất lượng và giá thành sản phẩm, chứ không thể đủ ngân sách cho việc quảng bá thương hiệu nhằm cạnh tranh với những “gã khổng lồ”. Thật ra, các công ty lớn buộc phải đầu tư tốn kém vào các phương tiện truyền thông là do họ thiếu khả năng tiếp cận thị trường một cách trực tiếp như các công ty quy mô nhỏ. Nguyên nhân là bởi thị trường cũng như đối tượng khách hàng mà các thương hiệu lớn nhắm đến quá rộng lớn nên cách làm này sẽ rất tốn kém và không khả thi. Vì thế, họ thường sử dụng hình thức quảng cáo trên truyền hình, đài hoặc các trên Internet thông qua các website để mang thương hiệu của họ đến tận nhà khách hàng. Do thương hiệu lớn xuất hiện mọi lúc mọi nơi, nên khách hàng có cảm giác gần gũi với các thương hiệu lớn hơn, trong khi khoảng cách địa lý thực sự giữa họ và các thương hiệu nhỏ lại ngắn hơn rất nhiều. Thương hiệu nhỏ với thị trường hạn hẹp ở địa phương hoặc từng vùng lãnh thổ dường như đã chịu lép vế trước sự lấn át của các thương hiệu toàn cầu. Họ chấp nhận điều đó và tồn tại với một lý do muôn thuở là thiếu nguồn lực tài chính dành cho việc xây dựng thương hiệu vô cùng tốn kém này. Điều đó giải thích tại sao hiếm khi thấy những thương hiệu nhỏ dám đối đầu trực diện với các “đại gia” trong các chiến dịch quảng bá hình ảnh thương hiệu, mà chỉ dồn lực vào sản phẩm và giá cả với hy vọng “hữu xạ tự nhiên hương”. Vậy các thương hiệu nhỏ phải làm gì để gia tăng lợi nhuận hay thậm chí để tồn tại trước cuộc chiến đầy cam go hiện nay? Câu trả lời là đừng vì ngân sách khiêm tốn của bạn mà thiếu tập trung vào hoạt động xây dựng thương hiệu, bởi đó là công việc cốt yếu của bất kỳ công ty nào muốn tạo ra uy tín đối với khách hàng. Bạn cần tìm hiểu cả những điểm mạnh và điểm yếu của các thương hiệu lớn hơn. Trước đây, Apple chỉ biết dựa vào uy tín của thương hiệu máy tính Macintosh. Công ty đầu tư cho hoạt động chiêu thị của Macintosh khá tốn kém, song danh tiếng của nó tại thời điểm đó cũng chỉ giới hạn trong thị trường Bắc Mỹ. Một thời gian sau, Apple đã có thêm một kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng thương hiệu, nhờ thành công của việc mở hàng loạt các cửa hàng máy tính mang tên Apple. Đây là ví dụ điển hình về xây dựng thương hiệu không dựa vào các phương tiện truyền thông tốn kém. McDonald’s đã từng cố gắng đưa thương hiệu của họ đến các nhà hàng địa phương và trường hợp của McDonald’s cũng cho thấy việc kiểm soát, duy trì cảm nhận về thương hiệu không hề đơn giản. Khách hàng phải chờ đợi quá lâu mới có thể mua được bánh mì kẹp của McDonald’s. Không ít người than phiền rằng họ thường xuyên cảm thấy không được phục vụ chu đáo do nhân viên quá bận rộn. Tất nhiên, những vấn đề như thế cuối cùng cũng được giải quyết rốt ráo. Nhưng dù sao, ví dụ về McDonald’s cũng cho thấy rằng một công ty lớn rất khó giữ được sự nhất quán trong chất lượng sản phẩm, dịch vụ, mặc dù bề ngoài có vẻ như nó vẫn kiểm soát được các kênh phân phối và áp dụng chương trình huấn luyện nhân viên khá nghiêm túc. Quảng cáo và các phương tiện truyền thông không phải là phương tiện duy nhất để xây dựng thương hiệu, mà đó còn có thể là hành vi của nhân viên kinh doanh, thái độ của nhân viên, chất lượng dịch vụ, bao bì, quan hệ công chúng, các đóng góp cho cộng đồng ... Chúng thậm chí là cách thức bạn tác động đến các khách hàng tiềm năng. Mục đích cuối cùng là làm khách hàng hài lòng như bạn đã cam kết khi quảng bá thương hiệu. Một trong những vấn đề mà các thương hiệu lớn phải đối mặt là làm thế nào để thực hiện được những gì mà quảng cáo của họ đã hứa hẹn. Tuy nhiên, họ rất khó khăn trong việc giám sát toàn bộ những hoạt động này, bởi nó được thực hiện thông qua hệ thống kênh phân phối. Các thương hiệu nhỏ có cơ hội lợi dụng điểm yếu nêu trên để tạo thuận lợi cho mình. Cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ của công ty nhỏ cho phép quá trình đưa ra quyết định được tiến hành dễ dàng hơn. Hơn nữa, họ gần gũi với thị trường hơn là các công ty lớn. Đúng là có thể những công ty nhỏ không đủ ngân sách để nghĩ đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông, nhưng nó có thể tạo ra cảm nhận thân thiết gần gũi hơn nơi khách hàng. Ngoài ra, việc kiểm soát và duy trì sự nhất quán trong hoạt động xây dựng hình ảnh của thương hiệu nhỏ cũng thuận lợi hơn nhờ không phải thông qua nhiều tầng lớp của các kênh phân phối. Sức mạnh đôi khi không nằm ở những điều quá to tát. Một công ty nhỏ có thể dừng ngay điệp khúc “nếu có tiền, chúng tôi sẽ tiếp cận với thị trường qua các phương tiện truyền thông”, đồng thời tận dụng thế mạnh của mình để tạo ra cảm nhận thương hiệu có giá trị đối với người tiêu dùng. Các giải pháp khi nguồn vốn chi cho xây dựng thương hiệu hạn chế . Khi nói đến chuyện làm thương hiệu, nhiều DN nhỏ và vừa thường trăn trở với câu hỏi: “Ít tiền làm sao xây dựng thương hiệu?”. Câu trả lời: “Phải xây dựng thương hiệu qua từng giai đoạn” và các giai đoạn đó là: Xác định rõ hướng đi Hãy suy tính cho kỹ trước khi bạn quyết định có nên đối đầu trực diện với thương hiệu lớn hay không. Nếu bạn cảm thấy không đủ “nội lực” thì nên chọn hướng đi khác. Hãy nhìn cách làm của thương hiệu dầu gội X-men. X-men đâu cần đấu tranh trực diện với hàng tá thương hiệu dầu gội nổi tiếng dành cho mọi người. X-men chỉ là dầu gội cho đàn ông. Xác định thời gian đi Khi đã xác định được hướng đi, và nếu không hề phạm một chút sai lầm nào về kế hoạch tiếp thị, cộng với một chút may mắn bạn sẽ giữ được một mảng thị phần cho mình. Hãy cảnh giác! Chính những lúc bạn đang say sưa trong thành công sau khi đã dốc hết lực cho những chiến lược quảng bá với tham vọng rút ngắn khoảng cách với đối thủ, đối thủ sẽ bừng tỉnh và đẩy bạn vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn. Vì thế chiến lược “tốc chiến” cần được cân nhắc, xác định một khoảng thời gian đủ để thực hiện kế hoạch phát triển của công ty. Phạm vi triển khai Chúng ta nên lựa chọn phương án triển khai trên phạm vi toàn quốc hay bắt đầu ở một số thành phố quan trọng nhất? Đánh tổng lực hay tiến hành theo chiến lược “Vết dầu loang”? Theo tôi, nên chọn phương án triển khai ở từng khu vực nhỏ và mở rộng ra từng vùng rộng lớn sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho việc truyền thông xây dựng thương hiệu, cũng như chi phí duy trì tổ chức phân phối bán hàng. Triển khai chiến lược marketing ở địa bàn nào thì bám chắc địa bàn ấy, sau đó mở sang địa bàn mới. Hiểu người tiêu dùng Tiến hành nghiên cứu thị trường để am hiểu sâu sắc người tiêu dùng, để thiết kế sản phẩm phù hợp với họ, và khác biệt so với đối thủ. Chỉ những sản phẩm (không nhất thiết phải tốt hơn) chứa đựng sự khác biệt thì mới có người tiêu dùng - vì sự khác biệt này mà người tiêu dùng nảy ý định dùng thử sản phẩm của chúng ta. Hệ thống phân phối mạnh Ông bà ta có câu: “Cần cù bù thông minh”. Nếu ít tiền làm quảng cáo thì phải chăm bán hàng. Phải huấn luyện nhân viên bán hàng thật kỹ lưỡng, thật chuyên nghiệp sao cho ngoài tài năng bán hàng, họ còn hiểu rõ tính năng chất lượng sản phẩm để tới từng cửa hiệu mà “ca” cho thật giỏi. Điều này không chỉ làm các chủ cửa hiệu xiêu lòng mua hàng mà còn để huấn luyện cho chính các chủ cửa hiệu biết cách nói tốt cho sản phẩm với những khách hàng tiếp theo. Nếu chúng ta không có nhiều tiền để quảng cáo trên truyền hình thì phải biết cách biến hàng trăm nhân viên bán hàng thành hàng trăm đài truyền hình phát sóng trực tiếp đến hàng ngàn cửa hiệu mỗi ngày và biến các cửa hiệu thành ti vi cho DN mình. Bao bì bắt mắt và hoàn hảo DN Việt Nam thường không mấy rộng tay đầu tư cho việc làm bao bì sản phẩm. Một bao bì đẹp, sang trọng, khi để trên quầy kệ nhìn sẽ bắt mắt hơn bao bì của đối thủ. Vì thế, đừng nên tiết kiệm vài chục triệu đồng cho công đoạn này để rồi mất cả bạc tỉ trong tương lai. Chất lượng sản phẩm hoàn hảo Mọi chương trình marketing đều thất bại trên nền một sản phẩm tồi! Nếu có được sản phẩm chất lượng, bạn sẽ an tâm để toàn tâm toàn ý xây dựng thương hiệu. Bằng không, vấn đề này sẽ quấy rối bạn với vô vàn khiếu nại từ người tiêu dùng, nhà phân phối trả hàng về, rồi nội bộ nản lòng (vì kém tự tin vào chất lượng)... Can đảm và kiên trì Giờ đây, khi bạn đã có một thông điệp tốt, một hệ thống phân phối mạnh, sản phẩm đạt chất lượng hoàn hảo, bạn hãy vững tin rằng mình có đủ lợi thế cạnh tranh để kiên trì bước đi trên con đường đã chọn. Đôi khi bạn sẽ gặp một số khó khăn trước mắt, nhưng bạn sẽ sớm vượt qua vì thương hiệu của mình. Điều đó ví như một đứa trẻ được chăm sóc đầy đủ có sức đề kháng mạnh mẽ, đứa bé sẽ bước đi với tất cả can đảm, và với thời gian, đứa bé sẽ lớn lúc nào không biết. Dưới đây là một số chương trình mà các DN có thể tham khảo để xây dựng thương hiệu cho mình: Xây dựng một chương trình liên kết. Một chương trình liên kết tốt sẽ giúp DN phát triển hiệu quả hơn là khả năng tài chính hạn hẹp của mình. Việc xây dựng chương trình liên kết đặc biệt có tác dụng đối với các DN chuyên về thương mại điện tử. Thông qua các liên kết với các trang web quảng cáo có chi phí thấp (như quảng cáo dạng “pay-per-click” -tức là người quảng cáo chỉ phải trả tiền cho công ty quảng cáo khi có khách hàng nhấp vào các đường dẫn đến trang web của mình), DN có thể tăng lượng khách hàng ghé thăm trang web của mình trong một thời gian ngắn. Khởi xướng hay tham gia đóng góp nội dung cho một nhật ký Internet (blog). Nên tìm một blog trong ngành kinh doanh của DN có nhiều người truy cập, và tải lên blog đó những bài viết về DN. Những bài viết này phải có tính liên quan và có thể tạo ra sự chú ý của khách hàng. Hãy tận dụng cơ hội này để thể hiện đặc điểm riêng của DN. In logo lên các tờ nhãn hay miếng dán (sticker) và đính chúng lên các văn bản giao tiếp với khách hàng. Những thông tin trên các miếng dán thường gây sự chú ý rất cao. Nội dung của các miếng dán này không cần phải quá cầu kỳ, nhưng chúng phải có logo và màu sắc của DN. Đính kèm câu khẩu hiệu vào phần chữ ký của thư điện tử. Nếu DN chưa có sẵn một câu khẩu hiệu để giúp phân biệt mình với các đối thủ cạnh tranh khác thì nên nghĩ ra một câu và sử dụng nó cho mục đích xây dựng nhãn hiệu. Có thể quảng bá câu khẩu hiện này một cách đơn giản như nói trên. In logo lên các vật dụng không quá đắt tiền như nón, túi xách. Nên chọn những vật dụng thiết thực và mua với số lượng lớn để tiết kiệm chi phí. Có thể phát những vật dụng này cho các khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng và cả các nhà cung cấp mỗi lần ghé thăm họ. Gửi bản tin bằng thư điện tử cho các khách hàng. Trong những bản tin như vậy, ngoài bài viết của DN, có thể chỉ ra các đường dẫn đến các bài viết khác có liên quan đến ngành nghề mà DN theo đuổi. Đây là một cách làm khá hiệu quả để củng cố hình ảnh của DN một cách thường xuyên. Chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn với báo chí chuyên ngành hay của địa phương mà khách hàng mục tiêu thường đọc nhất. Nên thể hiện tính tiên phong của mình trong việc đưa ra những nhận định, dự báo về triển vọng, các xu hướng liên quan đến ngành kinh doanh của DN. Thăm khách hàng vào những dịp lễ và tặng họ những món quà nhỏ. Có thể gắn logo của DN lên những món quà này. Những món quà như vậy thường sẽ gây ngạc nhiên cho khách hàng và củng cố hình ảnh của DN. Cảm ơn khách hàng đã giao dịch, đã đưa ra những phản hồi, ý kiến đóng góp về sản phẩm hay dịch vụ. Nên gọi điện thoại, gửi thư điện tử cho khách hàng để cảm ơn hoặc ghé thăm họ trực tiếp nếu thời gian cho phép. Bảo đảm tất cả các tài liệu quảng bá, tiếp thị phải nhất quán, tương đồng về hình ảnh. Các tài liệu, vật dụng như danh thiếp, đồ dùng văn phòng, bảng hiệu, bao bì, brochure và trang web của DN phải thể hiện tên, logo và câu khẩu hiệu một cách nhất quán. Về bản chất, xây dựng thương hiệu hiệu chính là xây dựng lòng tin từ khách hàng. Điều này đòi hỏi phải có thời gian và sự nhất quán chứ không cứ phải nhờ cậy đến một ngân sách tiếp thị khổng lồ. Tóm lại khi xây dựng thương hiệu với một nguồn lực hạn hẹp các công ty phải: Tập trung vào những gì DN bạn đạt được nhằm phục vụ khách hàng. Thương hiệu công ty bạn sẽ không có nghĩa lý gì nếu nó không chuyển tải mong muốn của khách hàng. Khẳng định quyền sở hữu đối với thương hiệu. Chú ý tới các nhu cầu khách hàng nhưng bạn cũng nên kiểm soát những điều bạn muốn thương hiệu của mình truyền tải tới khán giả. Hãy tỏ ra thành thực. Nếu bạn không tin vào thương hiệu của mình, không ai khác có thể tin. Sáng tạo thương hiệu một cách đơn giản. Tập trung vào những giá trị thương hiệu cơ bản. Luôn kiên định. Mỗi khía cạnh trong việc kinh doanh của bạn nên giúp khách hàng cảm nhận giống nhau về sản phẩm và dịch vụ công ty bạn. Hãy cẩn trọng và tỉ mỉ. Xem xét tất cả hệ thống của bạn và đảm bảo rằng chúng có thể hỗ trợ cho thương hiệu công ty. Liên kết các nhân viên. Hãy chắc chắn rằng họ hiểu và tin tưởng vào thương hiệu của chính công ty mình. Phổ biến thương hiệu của bạn. Trong mỗi quảng cáo, tờ rơi và thư gửi khách hàng, bạn phải thể hiện được sự nổi bật của thương hiệu công ty. Nếu bạn có cả logo, hãy sử dụng nó ở mọi nơi. Đáp ứng trên cả những gì thương hiệu của bạn hứa hẹn. Sự thất bại chỉ một lần thôi cũng có thể phá hủy thương hiệu bạn cố công gây dựng. Quản lý thương hiệu của bạn. Liên tục xem xét và tìm kiếm các cơ hội để cải thiện thương hiệu công ty. Không ngại khó khăn và sẵn sàng thay đổi để phù hợp với những xu hướng mới trên thị trường. Nhưng để thực hiện được điều đó trước hết các DN phải có những kiến thức, kỹ năng về thương hiệu, chiến lược xây dựng thương hiệu và điều quan trọng là phải biết được tầm quan trọng của thương hiệu với công ty mình. Do đó DN phải tìm cho mình những chuyên viên thương hiệu, hoặc liên kết với các công ty cung ứng các dịch vụ thương hiệu để được tư vấn. Khi đã có được những yếu tố trên thì các DN có thể tiến hành việc xây dựng cho mình một thương hiệu mà không cần phải có nguồn lực tài chính lớn. Phát triển một số dịch vụ marketing cho công ty Quảng Cáo Phước Sơn. Với việc nhận ra những khó khăn mà các DNVVN hiện nay đang gặp phải khi xây dựng thương hiệu, các giải pháp xây dựng thương hiệu mà những DN đó nên thực hiện. Cộng với sự hiểu biết về công ty Quảng Cáo Phước Sơn tôi xin đưa ra một số để nghị sau đây để đóng góp vào sự phát triển của công ty. Cũng là một DNVVN nên công ty Quảng Cáo Phước Sơn cũng nên chọn những đối tác này là khách hàng mục tiêu của mình. Đây đang là một thị trường lớn có tiềm năng phát triển mạnh mà nhiều công ty truyền thông khác cũng đang nhắm tới. Nên để có thể cạnh tranh được với các công ty khác thì Phước Sơn phải có một đội ngũ nhân viên có kiến thức chuyên môn về thương hiệu, theo tôi đây đang là mặt còn chưa mạnh lắm của công ty. Khi đã có những nhân viên có kiến thức và kinh nghiệm trong xây dựng thương hiệu thì công ty nên tiếp xúc với từng khách hàng để có thể hiểu được từng khó khăn riêng của họ, vì mỗi DN có những khó khăn khác nhau. Khi đó công ty sẽ giúp các công ty này giải quyết những khó khăn đó. Qua những khó khăn mà đề tài đã đề ra thì theo tôi công ty Phước Sơn nên phát triển một số dịch vụ marketing sau: Dịch vụ tư vấn kiến thức, kinh nghiệm về xây dựng thương hiệu cho nhân viên của các công ty đang có nhu cầu. Hiện nay, đa số các DN ở nước ta chưa có các chuyên viên về thương hiệu và tại các trường đại học thì ngành này mới được phát triển một vài năm gần đây. Do đó trên thị trường không có tài nguyên này và các công ty phải cho nhân viên của mình theo học các khóa đạo tạo chuyên sâu về thương hiệu. Với việc hiểu biết về vấn đề này công ty Phươc Sơn sẽ liên hệ với các công ty, tập hợp các học viên vào những khoảng thời gian thích hợp sau đó liên hệ với các chuyên gia về thương hiệu để gảng bài. Tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu cho các DNVVN. Việc hiện nay đang thiếu thốn nguồn nhân lực về xây dựng thương hiệu trên thị trường, các DNVVN có thể sẽ không tuyển được các nhân viên đáp ừng với nhu cầu của mình. Do đó họ sẽ thuê công ty tư vấn và xây dựng chiến lược cho họ. Cung cấp các dịch vụ truyền thông hiện đang là thế mạnh của công ty Phước Sơn để quảng bá thương hiệu phù hợp cho các DNVVN như: Thiết kế bảng hiệu, Pano….Với chi phí phù hợp nhưng vẫn thể hiện được hình ảnh, cá tính của thương hiệu muốn quảng bá. Với một đội ngũ nhân viên thiết kế sáng tạo thì thiết kế bao bì sản phẩm, trang trí các Show room sẽ là một dịch sẽ mang lại nhiều lợi thế cho công ty Phước Sơn để cạnh tranh với các DN khác nhưng vẫn đáp ứng được cho các DN có nguồn lực hạn chế. Thực hiện liên kết với một số DN để trở thành công ty chuyên thiết kế, xây dựng và quảng bá thương hiệu độc quyền cho các công ty đó. Khi các DNVVN không sở hữu một năng lực cốt lõi về xây dựng thương hiệu, thì công việc này đối với họ thuê ngoài sẽ ít tốn kém hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Và khi thực hiện liên kết giữa hai bên, chi phí phát sinh trong hợp đồng sẽ ít hơn. Hiệu quả trong công việc xây dựng thương hiệu cũng sẽ tốt hơn. Công ty Phước Sơn có thể mở các cuộc hội thảo để tư vấn cho các DNVVN hiểu biết thêm về thương hiệu, tầm quan trọng của thương hiệu đối với DN trong thời đại mới. Để các DNVVN có thể tự tin hơn trong việc xây dựng thương hiệu. Tóm lại, thông qua các dịch vụ marketing của mình công ty Phươc Sơn có thể gia tăng thêm được lợi nhuận, mở rộng thêm quy mô sản xuất, số lượng khách hàng tăng lên. Và điều quan trọng nhất là làm tăng thêm hình ảnh, uy tín của công ty đối với các DN, khẳng định được vị thế của mình trong ngành quảng cáo và trong toàn quốc. Bên cạnh sự giúp đỡ của các công ty quảng cáo, truyền thông sự phát triển thương hiệu của các DNVVN còn cần sự giúp đỡ về phía nhà nước như: - Cần có chiến lược cũng như biện pháp cụ thể để tuyên truyền, giác ngộ cho các DNVVN hiểu rõ tầm quan trọng cũng như lợi ích của việc đăng ký thương hiệu. - Phổ biến các vấn đề chung về sở hữu công nghiệp cho DNVVN như cách thức thủ tục để đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp, vấn đề quản trị sở hữu công nghiệp và đối với từng loại hình DNVVN cụ thể có những chỉ dẫn riêng cho từng đối tượng. - Phát động chương trình xây dựng, quảng bá, bảo vệ thương hiệu trong cộng đồng DNVVN, tổ chức triển lãm thương hiệu trên Internet, phối hợp với các ngành và địa phương để xây dựng danh mục sản phẩm cần có chỉ dẫn xuất xứ và địa lý. - Hỗ trợ các DNVVN đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn cho DNVVN về xây dựng, bảo vệ và quảng bá thương hiệu. - Hỗ trợ DNVVN đăng ký, quản lý và bảo vệ thương hiệu ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, trước hết là đối với những thương hiệu đã có vị trí trên thị trường. - Nới lỏng biện pháp tài chính cho DNVVN bằng cách không nên khống chế giới hạn về chi phí cho quảng cáo sản phẩm ở mức 5% so với tổng chi phí như hiện nay. -Bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp về sở hữu công nghiệp nói chung và thương hiệu nói riêng, cần xử phạt nghiêm minh đối với trường hợp ăn cắp, sử dụng trái phép thương hiệu, tiến tới thành lập những lực lượng “cảnh sát thương hiệu”, “công an thương hiệu” chuyên xử lý về hành vi vi phạm quyền sở hữu về thương hiệu hàng hóa KẾT LUẬN Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh trên thương trường không thể không nhanh chóng xây dựng cho sản phẩm, doanh nghiệp của mình một thương hiệu mạnh. Thương hiệu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, xúc tiến thương mại, tạo cơ hội cho doanh nghiệp thâm nhập, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường. Thương hiệu giúp hàng hoá có thể bán giá cao hơn so với các sản phẩm cùng loại chưa có thương hiệu, tạo được lòng tin cho khách hàng và bán được nhiều hàng hoá hơn. Đồng thời, thương hiệu còn giúp cho doanh nghiệp thu hút đầu tư và gia tăng quan hệ bạn hàng. Nhưng không phải công ty nào cũng có thể xây dựng cho mình một thương hiệu thành công, nhất là trong điều kiện còn nhiều khó khăn gặp phải. Đa số các DN ở nước ta hiện nay là các DNVVN, nhưng họ cũng đã thấy được tầm quan trong mà thương hiệu mang lại cho sự phát triển của công ty. Điều khó khăn mà họ thương gặp phải đó là do thiếu về chi phí, kinh nghiệm, kỹ năng, kiến thức trong xây dựng thương hiệu. Và để khắc phục được những nhược điểm, khó khăn đó cần phải có những công ty, tổ chức am hiểu về lĩnh vực này tìm ra những hướng đi riêng trên con đường xây dựng cho mình một thương hiệu thành công. Việc xây dựng và phát triển của một thương hiệu luôn gắn với các chương trình marketing mà công ty cần phải thực hiện, và đặc biệt là xây dựng một chiến lược thưong hiệu riêng cho mình. Đây là lĩnh vực mà công ty Quảng Cáo Phươc Sơn đang hoạt động và muốn phát triển rộng thêm khi đã có nguồn lực mạnh. Có nguồn lực, đặc biệt là sự hiểu biết về thương hiệu, hiểu biết những khó khăn mà cá DN đang gặp phải công ty sẽ cung cấp những dịch vụ marketing phù hợp với nhu cầu của từng công ty khi xây dựng thương hiệu. Đồng thời tư vấn thêm kiến thức về xây dựng thương hiệu cho các DN. Trên đây là toàn bộ nội dung mà đề tài của em muốn đề cập đến, nhưng do còn hạn chế về khả năng nhận thức, nghiên cứu cũng như những yếu kém về chuyên môn học tập mà đề tài còn nhiều sai sót phải sửa. Do đó em rất mong đước sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo chân thành của quý thầy cô, các anh chị và bạn đọc để đề tài càng hoàn thiện, có thể đóng góp vào sự phát triển của công ty và của toàn xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Thị Lan Hương (2007), Quản trị thương hiệu, Khoa Quản Trị Kinh Doanh- Trường Đại Học Kinh Tế- Đại Học Đà Nẵng. Dương Đăng Khoa, Đoàn Ngọc Phúc, tạp chí Lý luận chính trị, tháng 10/2004 Thuật ngữ thương hiệu, Thương hiệu Việt, Địa chỉ webs: [Cập nhật: 05/04/2008] Kiến thức thương hiệu, Thương hiệu và hội nhập, . "Kinh doanh bằng việc Xây dựngthương hiệu",Trung tâm xây dựng, phát triển thương hiệu Bạch Thái Bưởi. Xây dựng thương hiệu, Sức mạnh lớn của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tài chính - Trang tin điện tử, , [Cập nhật: 31/01/2008] Doanh nghiệp nhỏ khó xây dựng thương hiệu lơn, . [Cập nhật 13/02/2008]. Ari Kokko Fredrik Sjöholm (2004) Sự quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Trường Kinh tế Stockholm. Vai trò của PR trong việc xây dựng - quảng bá thương hiệu, CRMVietnam.com, [ Cập nhật:16/06/2007]. Vai trò của bao bì trong xây dựng thương hiệu, Lantabrand, [Cập nhật 3-12-2004]. Tạp chí Thương mại số 18.2003 Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vấn đề cổ phần hóa DNNN loại nhỏ và vừa ở nước ta - Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.- Hà Nội: Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, 2002, Số 3+4 .- tr.22-23,76. Dương Đăng Khoa, Đoàn Ngọc Phúc, tạp chí Lý luận chính trị, tháng 10/2004 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhở ở nước ta: Thực trạng và giải pháp, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, [Cập nhật 23/11/2004] Doanh nghiệp Hà Nội với việc xây dựng và phát triển thương hiệu, > [Cập nhật 13/11/2007]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng xây dựng thương hiệu của các dnvvn ở nước ta (ứng dụng trong phát triển các dịch vụ marketing cho công ty quảng cáo phước sơn ).doc
Luận văn liên quan