Đề tài Tiền lương và giá cả thị trường

Trong cơ chế thị trường hiện nay, tiền lương và giá cả đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng XHCN. Tuy nhiên, các vấn đề xung quanh lương và giá cả thị trường ngày càng phức tạp, lương và giá có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi khi lương tăng thì giá lại biến động khó lường, lương và giá như có một cuộc “rượt đuổi” nhưng lương không thể biến động theo giá. Chính vì vậy việc xây dựng các đề án về tiền lương và giá đòi hởi phải có một lộ trình nhất định. Mỗi đề án phải hoàn thiện, không để khi mới đặt vấn đề về tưng lương thì giá cả đã đẩy lên. Để làm được điều này thì các tổ chức, bộ nghành phải phối hợp chặt chẽ với nhau. Kết hợp xử lý nghiêm, siết chặt các mặt hàng có tính biến động giá cao, không để các doanh nghiệp, thương lái tự ý tăng giá.

doc47 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4649 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiền lương và giá cả thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mức tăng lương ở Việt Nam vượt xa giới hạn lý thuyết thông thường của kinh tế học. Về mặt thực tiễn, đây quả thực là một cố gắng phi thường của Nhà nước. Nó chứng tỏ sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước đến đời sống của người lao động. Nhưng mặt khác, bằng tất cả kinh nghiệm sống, mọi người đều dễ nhận thấy rằng dù liên tục tăng lương và mức tăng lương là đáng kể, với mức lương tối thiểu 450.000 đồng, số tiền lương trung bình mà đa số người làm công ăn lương trong khu vực nhà nước được nhận vẫn còn xa mới đạt tới trình độ lương tối thiểu. Tại sao lại có nghịch lý như vậy? Một là lương của ta không phải là lương với đầy đủ nội dung và bản chất kinh tế (thị trường) của nó. Hai là việc tăng lương ở nước ta cho đến nay về cơ bản vẫn chỉ là một thứ phản ứng tình thế, đối phó một cách bị động với lạm phát. Cuộc chạy đua theo lạm phát của lương diễn ra quyết liệt nhưng kết cục là lương ngày càng tụt hậu xa hơn so với mức giá. Mức tụt hậu này còn xa hơn nếu kể đến đòi hỏi của một mức sống ngày càng cao hơn đối với lương. Chính sách tiền lương. Đối với tất cả các quốc gia, chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng, nếu không nói là quan trọng bậc nhất trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của đất nước, có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, khai thác và phát huy tiềm năng vô hạn từ người lao động. Tiền lương vừa là động lực, đòn bẩy kích thích, khuyến khích người lao động làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, vừa là phương tiện bảo đảm cuộc sống ngày một nâng cao của họ. Tác động qua lại giữa chính sách tiền lương phù hợp với năng suất, chất lượng, hiệu quả sẽ là yếu tố để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2003 đến năm 2011, Nhà nước tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Tuy nhiên, các cuộc cải cách sau này chủ yếu nâng mức lương tối thiểu do áp lực của giá cả, mở rộng quan hệ tiền lương trung bình, tối đa so với lương tối thiểu, bỏ bớt một số bậc lương và bổ sung thêm các chế độ phụ cấp, so với chế độ tiền lương năm 1993, không có thay đổi gì lớn. Sau nhiều năm thực hiện, chế độ tiền lương hiện hành đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: tốc độ điều chỉnh bù trượt giá, bảo đảm  tiền lương thực tế chậm dần; tiền lương hầu như không có tác động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương từ ngân sách; không gắn bao nhiêu với cải cách hành chính. Nhiều năm qua, mỗi năm, ngân sách nhà nước đều bố trí hàng chục ngàn tỷ đồng để thực hiện cải cách tiền lương nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không được nâng cao, thậm chí giảm sút; bộ máy vẫn trì trệ, phiền hà. Đây là sự lãng phí lớn của ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, tiền lương và các chế độ đãi ngộ quá thấp đối với 1/3 đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đang ngày đêm làm việc tận tâm, có trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả, nhưng lại quá cao với 1/3 số cán bộ, công chức, viên chức còn lại. Tiền lương thực hiện (thực nhận) ngày càng bình quân, chắp vá, phá vỡ quan hệ tiền lương chung. Điều đáng nói là, càng xã hội hóa quỹ tiền lương chi từ ngân sách càng tăng cao mà không mấy hiệu quả. Thu nhập ngoài tiền lương ở nhiều ngành, nghề, vị trí công tác, chức vụ ngày một tăng cao, phức tạp, đa dạng. Thu nhập từ nhà, đất được mua, cấp theo giá rẻ ngày càng tăng; nhiều hình thức bao cấp trá hình phát triển. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trở nên giàu có và chênh lệch thu nhập ngày càng lớn, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước. Chính sách bảo hiểm xã hội ngày một bất cập và bản chất vẫn gắn chặt với điều chỉnh tiền lương. Chính sách người có công gần như do ngân sách nhà nước bảo đảm, chưa thực hiện đúng nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng, đó là, bảo đảm mức sống bản thân và gia đình người có công bằng mức sống dân cư tại địa bàn trên cơ sở bảo đảm cơ bản của nhà nước, sự hỗ trợ của xã hội và bản thân người có công. Mức trợ cấp ưu đãi xác định có tính cào bằng, thiếu sự chia sẻ giữa các đối tượng được hưởng đã tạo ra sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các đối tượng người có công, mức trợ cấp ưu đãi cơ bản vẫn gắn chặt với việc điều chỉnh tiền lương. Về mức lương tối thiểu: hiện nay, mức tiền lương tối thiểu mới chỉ bảo đảm bù trượt giá là chính, mức tăng để bảo đảm tiền lương đủ sống tốt, phù hợp với giá trị lao động là không đáng kể và ngày một giảm dần. Nếu lấy gốc so sánh là năm 2002, từ năm 2003 đến 2007, tiền lương thực tế  sau 5 năm tăng 46% (theo chỉ số giá chung) hoặc 23,7% (nếu tính riêng theo giá lương thực, thực phẩm). Từ năm 2008 đến năm 2011, tiền lương thực tế sau 4 năm tăng 9,5% (theo chỉ số giá chung) hoặc -10,2% (nếu tính riêng theo giá lương thực, thực phẩm). Tính chung từ năm 2003 đến năm 2011, nếu lấy gốc so sánh là năm 2002 (mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/tháng) tiền lương danh nghĩa tăng 295,2%; chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng chung tăng 147,2%, riêng chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng 255,8%. Như vậy, tiền lương thực tế sau 9 năm tăng  là 59,9% (theo chỉ số giá chung), bình quân mỗi năm tăng 5,4% hoặc tăng 11,1% (nếu tính riêng theo giá lương thực, thực phẩm), bình quân mỗi năm tăng 1,2%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 năm bình quân đạt 7,3%/năm. Mức điều chỉnh tăng tiền lương thực tế bình quân hàng năm từ 2003 đến 2011 chỉ bằng 1/2 đến 1/4 mức điều chỉnh bình quân hàng năm từ 1993 đến 2002, trong khi tổng quỹ tiền lương và trợ cấp tăng mỗi năm bình quân gần 2 lần. Tiền lương tối thiểu (bằng mức lương tối thiểu chung cộng phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút) hết sức mâu thuẫn, vô lý: khu vực chi từ ngân sách, tiền lương tối thiểu ở thành phố, khu đô thị là thấp nhất, trong khi khu vực sản xuất, kinh doanh lại cao nhất. Quan hệ giữa mức lương tối thiểu chung với sàn mức lương thiểu vùng là gì; cơ cấu lương tối thiểu bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu ra sao? không có cơ quan nào giải thích. Xác định mức lương tối thiểu cho ai, làm việc gì, ở đâu, đều rất mù mờ, cơ quan chịu trách nhiệm tính toán, xác định giải thích không rõ ràng, không phù hợp với thực tế và thiếu tính thuyết phục. Đối với cán bộ, công chức, viên chức, mức lương tối thiểu áp dụng cho chức danh nào và vì sao cán bộ, công chức, viên chức lại áp dụng mức lương tối thiểu chung trong xã hội là những vấn đề còn bất cập. Về quan hệ mức lương tối thiểu-trung bình-tối đa: mối quan hệ này vừa hình thức vừa bình quân trên thực tế. Mức lương tối thiểu chung là lưới an toàn xã hội, chống bóc lột, đói nghèo, làm chuẩn cho chính sách xã hội và việc làm bền vững, trong khi lại sử dụng để so sánh quan hệ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức là không phù hợp và quá lỗi thời. Quan hệ tiền lương không thật, vừa bình quân trong khu vực lại vừa chênh lệch giữa các khu vực: hành chính-sự nghiệp-lực lượng vũ trang-doanh nghiệp nhà nước. Quan hệ tiền lương đang bị phá vỡ bởi việc bổ sung tiền lương (gồm cả chế độ phụ cấp lương) cho các ngành; bằng việc quy định cơ chế tính đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước. Về hệ thống thang lương, bảng lương: bất nhất về cơ sở lý luận xác định tiền lương chức vụ. Bộ trưởng và tương đương trở lên, một số cán bộ xã, lương viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước thì xác định mức lương chức vụ; các chức vụ còn lại, kể cả Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bí thư Tỉnh ủy, thì lại xác định và xếp lương theo chuyên môn, ngạch, bậc, quân hàm cộng phụ cấp chức vụ. Mức lương xác định vẫn nặng về bằng cấp, chưa theo trình độ, chất lượng công việc yêu cầu hoặc chức vụ đảm nhận. Quy định mức lương bằng hệ số, tiền lương chức vụ bằng xếp lương theo  chuyên môn, nghiệp vụ cộng phụ cấp chức vụ chỉ là biện pháp tình thế, bất đắc dĩ nhưng kéo quá dài thời gian thực hiện làm cho người hưởng lương không biết được tiền lương của mình thực sự là bao nhiêu và gây khó khăn cho công tác quản lý. Tiền lương của lực lượng vũ trang không còn giữ được quan hệ tiền lương ban đầu với cán bộ, công chức, viên chức, bởi việc quy định mở rộng một chức vụ 3 bậc quân hàm, lấy việc phong quân hàm thay cho việc nâng lương, từ đó dẫn đến quân hàm không còn phản ánh đúng trình độ chỉ huy, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ trong lực lượng vũ trang. Ngoài ra, việc áp dụng nhiều chế độ phụ cấp mà mức lương quân hàm đã tính đã phá vỡ quan hệ tiền lương nói chung (1,8/1). Về các chế độ phụ cấp lương và chế độ nâng ngạch, bậc: các chế độ phụ cấp lương chắp vá, ngày càng vô lý, góp phần phá vỡ quan hệ tiền lương chung. Chế độ nâng ngạch, bậc, xếp lương quá bất cập, không gắn với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công việc, chức vụ đòi hỏi. Chức danh, tiêu chuẩn viên chức quá nhiều hạn chế, vô lý không được  quan tâm, đầu tư sửa đổi, chỉnh lý. Đào tạo, bồi dưỡng thi nâng ngạch công chức, viên chức không gắn với nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo công việc đảm nhận, vừa hình thức vừa gây lãng phí lớn. Về cơ chế tạo nguồn thực hiện cải cách và quản lý tiền lương:  cơ chế tạo nguồn để thực hiện Đề án cải cách tiền lương và quản lý tiền lương đã đề ra cách đây 20 năm cơ bản không thay đổi và không tạo chuyển biến lớn. Cơ chế đặt ra chung chung, thiếu căn cứ và dữ liệu cần thiết, không có phương thức thực hiện cụ thể, không giải quyết được vấn đề từ gốc, nặng về khẩu hiệu, quyết tâm mà thiếu những hành động cụ thể, thiết thực. Ví dụ, đẩy mạnh cải cách hành chính là gì? Cụ thể từng bước gắn với tiền lương ra sao? Thực tế là “hợp trên, phình dưới”, càng tinh giản biên chế càng tăng, nhiều cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương cán bộ lãnh đạo nhiều hơn chuyên viên; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng giảm. Khoán biên chế và kinh phí hành chính mà thông số đầu vào không rõ ràng, thực hiện đầu voi, đuôi chuột. Hay Tiếp tục sử dụng 50% số tăng thu ngân sách so với dự toán là không có cơ sở vì không kiểm soát được thực chất việc lập số thu dự toán ngân sách hàng năm của các cơ quan, đơn vị trung ương và địa phương. Sau 20 năm thực hiện 10% tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính thì còn đâu kinh phí để hoạt động, nên thực chất là điều chỉnh định mức kinh phí rồi mới tiết kiệm thì còn có ý nghĩa gì. Đơn vị sự nghiệp giáo dục, y tế dành 35% đến 40% nguồn thu để lại đơn vị theo chế độ quy định (nếu có) để bổ sung nguồn điều chỉnh tiền lương tăng thêm là thiếu căn cứ, không thể quản lý được và tạo điều kiện mạnh ai nấy làm. Tạo nguồn bằng cơ chế xã hội hóatheo hướng tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ chi phí vào giá dịch vụ vẫn chỉ là khẩu hiệu, không có đề án cụ thể, khoa học, khả thi. Về tổng thể, càng xã hội hóa, càng khoán, quỹ tiền lương và biên chế càng tăng, tỷ trọng tăng chi ngân sách nhà nước ngày một cao hơn. Những vấn đề làm được của đề án cải cách tiền lương. Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đặc biệt, Luật Cán bộ, Công chức đã quy định công chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho thôi việc. Thực hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Người nào không đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm sẽ bị đưa ra khỏi công vụ. Chính phủ đã xác định lộ trình thực hiện việc xây dựng hệ thống vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị, phấn đấu đến năm 2015, 50% cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Thứ hai, tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều kiện mới theo định hướng thị trường. Thứ ba, chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức (CNVC) với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực HCNN, phát triển khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo nhu cầu phát triển của xã hội. Tuy phải tiến hành dần từng bước nhưng là hướng đi đúng đắn. Một số ý kiến cho rằng cần tiếp tục cắt giảm 40% cán bộ công chức hiện nay để có nguồn bổ sung cho cải cách tiền lương, nếu không cải cách tiền lương khó thành công. Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương CNVC. Thứ năm, tiền lương danh nghĩa của CNVC có xu hướng tăng do nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của CNVC. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, có điều chỉnh linh hoạt theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của NSNN. Theo Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ), sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, mặc dù đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần. Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%. Những tồn tại và bất cập về chính sách lương: Thứ nhất, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối với CNVC. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của NSNN, nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với CNVC và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động). Hơn nữa, chính sách tiền lương thấp này đã lại ngày càng thấp xa so với khu vực sản xuất kinh doanh, chưa bảo đảm cho CNVC sống chủ yếu bằng tiền lương.Đó là một bất cập, nghịch lý và mâu thuẫn lớn. Theo kết quả điều tra của Công đoàn Viên chức Việt Nam, tiền lương cứng của CNVC khá thấp, phần lớn là hưởng lương ở mức cán sự và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên viên 41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao cấp là 3%. Thứ hai, quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa cũng chưa hợp lý, nhất là hệ số trung bình quá thấp trong quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa nên không cải thiện được đời sống và khuyến khích được CNVC có hệ số lương thấp; tiền lương trả cho CNVC được quy định bằng hệ số được tính trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn 2016 - 2020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ mức 1 - 2,34 - 10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15. Thứ ba, trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao (phụ thuộc vào vị trí, chức danh công việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và không có giới hạn, không minh bạch, cũng không kiểm soát được. Trong phần thu nhập ngoài lương cho đến nay không ai có thể thống kê, đánh giá định lượng được, có thể có phần chính đáng, song chủ yếu là không chính đáng do lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực trong thi hành công vụ (từ biếu xén, cơ chế xin - cho, cơ chế ăn chia…). Mức lương tối thiểu của công chức năm nay được nâng lên 1.050.000 đồng, song vẫn là mức quá thấp, không đủ cho chi phí trong cuộc sống vốn ngày càng đắt đỏ do lạm phát. Chính điều này đã tạo “đất sống” cho tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhức nhối… Thứ tư, tiền lương Nhà nước quy định trả cho CNVC mặc dù còn rất thấp, nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do NSNN bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi NSNN, cho nên buộc phải “gọt chân cho vừa giày”. Đó là một trong những nút thắt khó gỡ nhất trong cải cách chính sách tiền lương đối với CNVC vừa qua. Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), hiện nay mức độ đảm bảo từ NSNN cho trả lương và các khoản có tính chất lương là khá cao và liên tục tăng nhanh. Cụ thể, năm 2011, lương, phụ cấp ước chiếm 51% chi thường xuyên của NSNN, đạt gần 9,6% GDP. Trong khi năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP. Ngoài ra, 21 ngành được hưởng ở 16 loại phụ cấp ưu đãi khác nhau đang có xu hướng mở rộng hơn, khiến NSNN dành cho lương tối thiểu ngày càng bị mỏng đi. Thứ năm, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho CNVC. Đối với các tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh… dễ dàng kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện, nhưng đối với cấp huyện, nhất là đối với huyện thuộc vùng núi cao, trung du, hải đảo, việc triển khai thực hiện xã hội hóa rất khó khăn. Đây cũng là một trong những cản trở lớn nhất của cải cách tiến lương, do chưa tách bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với công chức khu vực HCNN và viên chức khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. Có thể nói rằng, cải cách chính sách tiền lương đối với CNVC từ năm 2003 đến nay chưa thành công và vẫn không thoát ra được vòng luẩn quẩn: Đó là chính sách tiền lương thấp không đủ sống, nhưng thu nhập ngoài lương lại rất cao, mỗi lần tăng lương tối thiểu làm cho gánh nặng của NSNN càng tăng. Chính sách tiền lương dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được CNVC gắn bó với Nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm việc giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài nhà nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có xu hướng tăng. Mặt khác, lương thấp cũng là nguyên nhân quan trọng của tiêu cực, tham nhũng. Quyết định chính sách tiền lương còn mang tính chủ quan Nguyên nhân của các nhược điểm, bất cập sau 20 năm thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và chính sách người có công rất nhiều, cả chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản. Tiền lương là vấn đề phức tạp, chuyển qua nhiều giai đoạn càng thêm phức tạp, khó hiểu, nhưng hiểu biết, nhận thức từ cơ quan soạn thảo đến cấp quyết định còn quá nhiều hạn chế, không đầy đủ. Không ít cơ quan nghiên cứu, chuyên gia, các nhà khoa học, lãnh đạo, quản lý đóng góp, xây dựng Đề án tiền lương thiếu hiểu biết sâu sắc, toàn diện; trao đổi, bàn luận không đầy đủ, tường tận, ý kiến đóng góp chủ yếu bằng cảm tính, kinh nghiệm, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xây dựng Đề án. Cấp quyết định chính sách tiền lương và chính sách có liên quan chưa tập trung đầu tư công sức, thời gian, vật chất để nghiên cứu, lắng nghe, hiểu biết sâu sắc tiền lương, quyết định vẫn mang tính chủ quan, kinh nghiệm và nặng về chính trị. Trong khi đó, việc tổ chức triển khai thực hiện cũng chưa nghiêm, chưa đầy đủ. Mặt khác, chính sách tiền lương chưa đủ tầm dài hạn, ngại đụng chạm, không dám làm cơ bản, mạnh mẽ. Quá trình xem xét sửa đổi, bổ sung chính sách tiền lương thiếu đồng bộ, toàn diện, mạnh ngành nào ngành đó làm khiến quan hệ tiền lương chung bị phá vỡ và chính sách tiền lương càng thêm bất hợp lý, chắp vá. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG. Hoàn thiện chính sách tiền lương. Một là, hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị trường. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Thực hiện tốt, phấn đấu rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008- 2012 đi đôi với kiểm soát lạm phát để đảm bảo thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương. Hai là, cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường. Các khoản lương, thưởng, phụ cấp của người lao động phải được đảm bảo trở thành những công cụ hữu hiệu để điều tiết quan hệ lao động, phản ánh đúng giá trị sức lao động. Đó là những nguồn thu nhập để nuôi sống người lao động và gia đình họ, từ đó mới tạo động lực khuyến khích họ làm việc có hiệu quả. Mức lương tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động và sự vận động của thị trường sức lao động. Ba là, tăng cường phối hợp cơ chế 3 bên trong ban hành chính sách tiền lương, hình thành cơ chế thỏa thuận tiền lương. Tăng cường sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển thị trường sức lao động. Cải thiện các điều kiện liên quan đến sự phát triển của thị trường sức lao động như các thông lệ và luật pháp quốc tế, môi trường hợp tác giữa đại diện của người lao động (tổ chức công đoàn) và đại diện người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) trong cơ chế 3 bên. Sự tham gia của các đối tác xã hội khác như các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội… Bốn là, cần quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người lao động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi của người lao động. Năm là, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách kinh tế, tạo sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển lành mạnh.Đẩy mạnh hoạt động tư pháp, củng cố cơ quan bảo vệ luật pháp, thực hiện nghiêm túc công tác điều tra, thanh tra và xét xử nghiêm minh, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tê – xã hội. Sáu là, tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường sức lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường này. Xử lý tốt các trường hợp tranh chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Bảy là, tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tăng cầu lao động thông qua phát triển kinh doanh sản xuất dịch vụ trong các thành phần kinh tế. Hướng cải cách tiền lương. a. Chế độ tiền lương phải phù hợp với thực tế khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm cho người công nhân duy trì được sức lao động ở điều kiện bình thường. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên chế độ tiền lương trong nền kinh tế này vừa mang tính chất thị trường, vừa mang tính chất định hướng XHCN. Nghĩa là chế độ tiền lương vừa chịu sự chi phối bởi thị trường lao động, vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc phân phối theo lao động. Điều này cho thấy, không nên cực đoan cho rằng, tiền lương chỉ là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, hoặc ngược lai, tiền lương chỉ là kết quả của việc phân phối theo lao động. Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay, năng suất lao động xã hội rất thấp, sự cạnh tranh gay gắt, bộ máy quản lý cồng kềnh, các khoản khấu trừ quá lớn nên quỹ tiền lương sẽ thấp. Trong điều kiện đó, nếu tiền lương chỉ là kết quả của phân phối theo lao động thì tiền lương sẽ thấp, thậm chí không đủ để duy trì cuộc sống cho bản thân người lao động.. Nhưng, nếu tiền lương là giá cả của hàng hoá sức lao động, thì vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp luôn luôn muốn trả lương thấp. Thêm vào đó, do sức ép của cạnh tranh, của thất nghiệp, làm cho người công nhân phải chấp nhận lương thấp tới mức chỉ tạm đủ cho bản thân sống, miễn là có được việc làm. Vì vậy, yêu cầu của cải cách chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay là tiền lương phải bảo đảm cho người lao động duy trì được năng lực lao động, nuôi con cái và chi phí đào tạo cho bản thân người lao động ở điều kiện bình thường. Điều đó đòi hỏi, trong các doanh nghiệp nhà nước, việc trả lương vừa tuân theo cơ chế thị trường là thuận mua vừa bán sức lao động (tức phải được thoả thuận giữa người lao động với doanh nghiệp về mức lương), vừa đảm bảo tính chất XHCN là phân phối theo lao động, nhưng mức lương không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiền lương công nhân cũng không được thấp hơn lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, việc xác định lương tối thiểu là vấn đề quan trọng và cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà cả cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. b. Xác định mức lương tối thiểu,khắc phục tình trạng bình quân. Mức lương tối thiểu ở nước ta hiện nay có hai loại: - Mức lương tối thiểu đối với công nhân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, được Nhà nước quy định năm 1995 là 35 USD/tháng; quy định năm 1999 là 626.000 đồng/ tháng). - Mức lương tối thiểu đối với những người hưởng lương và phụ cấp từ nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước và người lao động trong các doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) được Nhà nước quy định năm 1993 là 120.000 đ/tháng (60 kg gạo), năm 2000 là 180.000 đ/tháng, năm 2001 là 210.000 đ/tháng, năm 2003 là 290.000 đ/tháng. Mức lương tối thiểu này không đủ để duy trì cuộc sống người lao động, nên phải xác định lại mức lương tối thiểu. Nhưng có người giải thích rằng, sở dĩ lương tối thiểu thấp là do khả năng của nền kinh tế không cho phép. Nếu chỉ nâng lương tối thiểu lên một chút cũng đã làm cho nền kinh tế không chịu đựng nổi, vì hiện nay, năng suất lao động thấp, giá trị tổng sản phẩm xã hội thấp, mà tiền lương là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, nên sau khi khấu trừ các khoản như tư liệu sản xuất đã sử dụng, quỹ mở rộng sản xuất, quỹ bảo hiểm, chi phí quản lý, chi phí an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục, cứu tế xã hội …các khoản khấu trừ này lại rất lớn, thì quỹ tiền lương sẽ nhỏ. Với quỹ lương nhỏ bé này lại chia cho số lượng người hưởng lương lên tới 7 triệu người, với hệ thống thang bảng lương chia nhỏ thành nhiều ngạch, nhiều bậc như hiện nay, thì lương cho mỗi người sẽ thấp, và lương tối thiểu cũng sẽ rất thấp. Như vậy, theo cách giải thích này, thì việc xác định lương tối thiểu là căn cứ vào quỹ lương, nếu quỹ lương thấp thì phải chấp nhận lương tối thiểu thấp, không thể khác được. Thực ra, lương tối thiểu được xác định không căn cứ vào quỹ lương mà căn cứ vào sự trao đổi ngang giá của hao phí sức lao động về cơ bắp, thần kinh, trí não … của con người trong quá trình lao động , sự hao phí này phải được bù đắp lại bằng những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống con người ở mức thấp nhất nhằm duy trì được năng lực lao động và tiếp tục nòi giống của mình. Hao phí sức lao động càng nhiều, thì việc bù đắp lại càng lớn. Bản thân những nhu cầu tự nhiên về tư liệu sinh hoạt như thức ăn, nhà ở …cũng khác nhau tuỳ theo khí hậu và những đặc điểm tự nhiên, trình độ văn minh của mỗi nước. Mặt khác, người công nhân có thể bị chết đi, nên phải được thay thế bằng sức lao động mới. Để có sức lao động thay thế, mỗi cá nhân người lao động phải sinh con đẻ cái. Vì vậy, tổng số tư liệu cần thiết cho sức lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó, tức là cho con cái những người công nhân. Đồng thời, để cho người công nhân có được nghững kiến thức cần thiết cho lao động thì cần phải được học hành, muốn thế phải tốn một số chi phí đào tạo. Do đó, những chi phí đào tạo ấy được gia nhập vào tổng số những chi phí cho sức lao động của người công nhân. Như vậy để duy trì sức lao động của người công nhân phải có một tổng số những tư liệu sinh hoạt cấn thiết nhất đinh. Trong những tư liệu sinh hoạt ấy, có thứ như thức ăn, chất đốt…hằng ngày được tiêu dùng đi, vì vậy cũng phải hoàn lại hàng ngày.Những tư liệu sinh hoạt khác như áo quần, đồ gỗ…được tiêu dùng trong một khoảng thời gian dài hơn, thì phải hoàn lại sau những khoảng thời gian dài hơn. Gọi một số lượng hàng hoá được mua hay trả tiền hàng ngày = A, số khác thì trả hàng tuần = B, còn hàng hoá trả hàng quý = C,… thì số lượng trung bình hàng ngày của những hàng hoá ấy = ( 365 A + 52 B + 4 C + v.v.) : 365. Số lượng này là cơ sở để xác định tiền lương tối thiểu, nếu tiền lương thấp hơn nó, thì sẽ không duy trì được cuộc sống của người công nhân. Như vậy, lương tối thiểu là giá trị những tư liệu sinh hoạt mà thiếu nó, người công nhân sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, nó sẽ rơi xuống thấp hơn giá trị của nó, khi đó sự sống của người công nhân chỉ được duy trì và phát triển dưới một trạng thái lay lắt mà thôi. Sự phân tích trên đây cho thấy, mức lương tối thiểu được xác định không dựa vào khả năng sản xuất, mà dựa vào yêu cầu phải bảo đảm cho việc duy trì cuộc sống cho người lao động ở mức thấp nhất. Căn cứ vào lương tối thiểu này để tính ra các mức lương khác, có thể làm cho nền kinh tế không chịu nổi, thì phải tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động, giảm bớt các khoản khấu trừ bằng các biện pháp như : đổi mới kỹ thuật công nghệ; tiết kiệm lao động sống, lao động quá khứ ; triệt để xoá bỏ bao cấp ; đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm biên chế bộ máy ; khoán quỹ lương ; thực hiện xã hội hoá y tế, giáo dục, cứu tế xã hội… Thực tế cho thấy, ở thời điểm 1993, mức lương tối thiểu 60 kg gạo, (120.000 đ/tháng) là có thể phù hợp với giá cả và mức sống lúc đó. Nhưng trong điều kiện hiện nay, lương tối thiểu 290.000 đ/ tháng là thấp. Bởi vì, mức sống , thói quen, tập quán đã thay đổi, tư liệu sinh hoạt cẩn thiết cho cuộc sống đã mở rộng và nâng cao hơn, giá cả hàng hoá thiết yếu và giá cả các mặt hàng khác đã thay đổi quá lớn, nên 290.000 đ/tháng là không đủ để duy trì quá trình sống của người lao động. Nên việc xác định lại lương tối thiểu là cần thiết. Việc xác định lương tối thiểu cần lưu ý một số yêu cầu sau đây: Thực hiện sự trao đổi ngang giá sức lao động đã hao phí để người công nhân duy trì được năng lực lao động, nuôi con cái và chi phí đào tạo cho người lao động; Tính đúng, tính đủ những tư liệu sinh hoạt thiết yếu đáp ứng cho nhu cầu tự nhiên của lao động giản đơn trong từng nghành, từng vùng nói riêng và trong cả nước nói chung; Bảo đảm công bằng: ở đâu có hao phí sức lao động nhiều hơn, thì ở đó có mức lương tối thiểu cao hơn; Thường xuyên điều chỉnh mức lương tối thiểu theo mức tăng của chỉ số giá để bảo đảm lương thực tế không bị giảm sút. Căn cứ vào lương tối thiểu để tính các mức lương cho các loại lao đông khác trên cơ sở một hệ thống thang, bảng lương hợp lý. Để khắc phục tình trạng bình quân trong hệ thống thang bảng lương hiện nay, cần giảm bớt số ngạch, số bậc. Thí dụ: Lương hành chính giảm 50% số bậc, tăng 2 lần mức chênh lệch giữa bậc thấp nhất và cao nhất. Như vậy có thể nâng mức chênh lệch giữa bậc thấp nhất và cao nhất của lương này từ 2 lần lên 8 lần … c. Thực hiện trả lương theo lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Trả lương theo lao động là việc phân phối tiền lương gắn với kết quả cuối cùng của từng người, từng bộ phận lao động. Có hai trường hợp: Trả theo thời gian : là tính mức lương cho người i (Li) phụ thuộc vào: quỹ tiền lương của bộ phận(V); tổng số ngày công của bộ phận (N); số ngày công thực tế người công nhân i đã làm (ni). Công thức tính lương cho người(i): Trả theo sản phẩm hoặc lương khoán của cá nhân trực tiếp là tính mức lương cho lao động, phụ thuộc vào đơn giá tiền lương sản phẩm hoặc lương khoán (Vđg) ; số lượng sản phẩm hoặc tiền khoán đã hoàn thành (q). Công thức tính lương cho một lao động nào đó (T): T = Vđg x q Trên đây là những công thức tượng trưng nói lên bản chất của phân phối tiền lương theo lao động. Trong thực tế, khi tính tiền lương, phải lập công thức cụ thể hơn nữa.Nếu tính toán trên đây có kết quả lớn hơn mức lương tối thiểu thì lấy kết quả đó, nếu nhỏ hơn mức lương tối thiểu thì lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho công nhân. Giải pháp tạo nguồn cải tiến tiền lương Cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương CNVC về nguyên tắc phải dựa trên cơ sở mục tiêu, định hướng cải cách tiền lương CNVC. Các lần cải cách vừa qua chúng ta đã làm một bài toán ngược là từ miếng bánh NSNN dành cho cải cách tiền lương để từ đó có định hướng cải cách cho phù hợp. Tuy nhiên, cách làm này đã dẫn đến thất bại và nhiều hệ lụy. Bởi vậy, đổi mới cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương CNVC giai đoạn 2011 - 2020 phải bắt đầu từ quyết tâm chính trị rất cao của cấp có thẩm quyền và tư duy chiến lược của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải có những đột phá. Dưới đây xin nêu một số vấn đề quan trọng nhất: Thứ nhất, quản lý chặt và giảm đến mức tối đa đối tượng hưởng lương từ NSNN. Theo đó, cần xây dựng một nền hành chính và công vụ chuyên nghiệp, hiện đại trên cơ sở đó xác định rõ từng vị trí làm việc với chức danh tiêu chuẩn rõ ràng để xác định ai là công chức và phải quản lý công chức theo chức danh của vị trí làm việc. Đồng thời, rà soát và đánh giá lại cán bộ, công chức, thực hiện tinh giảm bộ máy, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong đó, chọn lọc, kiểm định chất lượng cán bộ, công chức và áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, nối mạng trong toàn bộ hệ thống hành chính (Chính phủ điện tử) là khâu đột then chốt. Thứ hai,đột phá vào mở cơ chế để đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công nhằm giảm dần tỷ trọng chi từ NSNN cho đầu tư cơ sở vật chất, giảm tối đa viên chức hưởng lương từ NSNN. Khu vực này chia ra làm 3 loại cơ sở cung cấp dịch vụ công với 3 cơ chế khác nhau: Các cơ sở cung cấp dịch vụ công không có nguồn thu thì NSNN trả lương và áp dụng chính sách tiền lương như cán bộ, công chức; Các cơ sở cung cấp dịch vụ công có nguồn thu nhưng chưa tự trang trải được toàn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được Nhà nước hỗ trợ phần thiếu hụt (Có lộ trình, bước đi thích hợp để giảm dần hỗ trợ từ NSNN cho trả lương viên chức thuộc loại này); Các cơ sở cung cấp dịch vụ công có nguồn thu tự trang trải được toàn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được áp dụng chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường. Nhà nước quy định các khoản thu phí, lệ phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ sát với thị trường, phù hợp với từng loại dịch vụ và loại hình đơn vị cung cấp dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật…); quy định cơ chế uỷ quyền, đặt hàng cho các đơn vị cung cấp dịch vụ nhằm thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp công phát triển lành mạnh, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công và tạo nguồn trả lương cho người lao động. Đồng thời, Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, đối tượng chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số khi sử dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, cho phép khu vực ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ theo quy định và hướng dẫn của Nhà nước, khuyến khích khu vực này cung cấp dịch vụ công không vì mục tiêu lợi nhuận. Đồng thời, cần phải có kế hoạch và chương trình rà soát tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công hiện nay để xếp vào 3 loại trên; xây dựng lộ trình thực hiện cơ chế tiền lương mới cho các đơn vị này. Nghiên cứu chuyển các cơ sở sự nghiệp công lập sang khu vực ngoài công lập (cổ phần hóa các trường học, bệnh viện đủ điều kiện). Thứ ba, thực hiện nghiêm chủ trương đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển, từ đó, điều chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ cấu lại chi NSNN; trong đó, tăng huy động các nguồn ngoài NSNN (của doanh nghiệp, trong dân, ODA...) cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giảm tỷ trọng NSNN trong tổng mức đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả lương CNVC đảm bảo CNVC có mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường (doanh nghiệp). Thứ tư, tách dần tổng quỹ lương từ NSNN và Quỹ BHXH, nguồn chi trả chính sách ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội theo một cơ chế tạo nguồn và chi trả tương đối độc lập với NSNN, giảm dần áp lực tăng kinh phí từ NSNN khi thực hiện cải cách tiền lương CNVC. Trong đó, cần tách chính sách BHXH của CNVC hưởng lương từ NSNN và BHXH cho lao động khu vực thị trường. Thứ năm, thiết kế lộ trình cải cách tiền lương CNVC phù hợp với khả năng tạo nguồn, theo hướng tăng dần, tránh những đột biến gây sốc về nguồn và tác động mạnh tiêu cực đến các quan hệ kinh tế - xã hội vĩ mô. Giai đoạn 2011 - 2015, tập trung vào nâng tiền lương thấp nhất lên để đảm bảo mức sống của CNVC (tương đương với mức bình quân tiền lương tối thiểu thực trả của khu vực thị trường); tinh giảm biên chế hành chính và đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp công lập. Giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục thực hiện các giải pháp trên, đồng thời tập trung vào mở rộng quan hệ tiền lương; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển; tách nguồn chi trả BHXH, ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội... BÌNH ỔN GIÁ Các chính sách về giá. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tránh các hiện tượng “neo giá” để giá cả của những hàng hóa ở mức cao bất hợp lý bất chấp sự giảm giá trên thị trường thế giới hoặc “đông giá” ở thị trường trong nước quá thấp bất hợp lý trong khi giá thị trường thế giới đã tăng và các yếu tố hình thành giá đã thay đổi. Điều hành giá phù hợp tín hiệu của thị trường thế giới "có lên, có xuống" nhưng không thụ động; không thả nổi giá trong nước để thị trường trong nước chịu sự tác động tự do, tự phát của giá thị trường thế giới mà cần có những biện pháp điều hành kinh tế vĩ mô thích hợp với từng giai đoạn. Trong điều hành giá cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn việc kiểm soát giá hàng hóa, dịch vụ độc quyền; khuyến khích cạnh tranh về giá theo pháp luật mà hiện nay đang áp dụng đối với đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế. Áp dụng có hiệu quả các biện pháp bình ổn giá khi thị trường có những biến động bất thường. Kiểm soát chặt chẽ các phương án giá, mức giá của các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá, bình ổn giá, đăng ký giá, kê khai giá; những hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước sử dụng ngân sách để đặt hàng phục vụ các chương trình, mục tiêu quốc gia; hàng hóa, dịch vụ công ích, hàng hóa còn được trợ cước, trợ giá phục vụ đồng bào dân tộc, miền núi, hải đảo, hàng hóa thực hiện chính sách xã hội. Tiếp tục mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá đối với hàng hóa, dịch vụ mua sắm từ nguồn ngân sách. Nghiên cứu để từng bước chuyển từ hình thức trợ giá, trợ cước sang đầu tư trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát  thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận về thuế, kiểm tra việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá, đấu tranh chống mọi hiện tượng đầu cơ nâng giá bất hợp lý… 2. Kiểm soát chặt chẻ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư để cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. Các Bộ liên quan, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản về đầu tư xây dựng, kịp thời ban hành hướng dẫn xử lý các vướng mắc phát sinh để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các công trình sớm đưa vào khai thác phát huy hiệu quả. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc nghiên cứu để chuyển một số công trình đầu tư từ nguồn vốn ngân sách sang hình thức đầu tư BOT từ nguồn vốn trong và ngoài nước hoặc bán, chuyển nhượng công trình có khả năng thu hồi vốn cho doanh nghiệp, tư nhân khai thác hoặc đầu tư tiếp để nâng cao hiệu quả đầu tư. Bộ Tài chính chủ trì rà soát, đề xuất các biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn. Sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính chuẩn bị để thực hiện trong quý IV năm 2008. Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những năm tiếp theo. Năm 2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính (trừ tiền lương, phụ cấp lương, các khoản chi cho con người theo chế độ quy định) của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm chưa thật cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi lại bằng máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước ngoài bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi đua,... gây tốn kém, lãng phí. Bộ Tài chính chủ trì giao chỉ tiêu và hướng dẫn nội dung và tổ chức triển khai các đơn vị thực hiện. 3. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đảm bảo cân đối cung – cầu về hàng hóa. Phối hợp với các địa phương khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai và dịch bệnh để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung chỉ đạo phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, tăng nguồn cung thực phẩm nhằm sớm ổn định giá cả lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ mùa, hè thu; Phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp để phát hiện sớm, chủ động thực hiện và hướng dẫn kịp thời các biện pháp phòng, chống, ngăn chặn và dập tắt một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu quả dịch cúm gia cầm, lơn tai xanh, lở mồm long móng ở trâu, bò và cúm A (H5N1) ở người; Chỉ đạo triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ sắp tới để đảm bảo an toàn lao động cho sản xuất và đời sống. Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài Nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính để giải quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn, đất đai, mở rộng thị trường nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, chủ động thực hiện các biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn do biến động giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết là giá dự toán các công trình đang triển khai có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để sớm hoàn thành, đưa vào hoạt động. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc tiếp tục rà soát, xóa bỏ các quy định không phù hợp gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Bộ Công Thương chủ trì làm việc với các Bộ liên quan, hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh về việc bảo đảm nguồn hàng; đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón,... Chủ động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất. 4. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, trong dân cư, tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng rất lớn. Trước hết, Chính phủ chỉ đạo việc triệt để thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để thực hiện các nhiệm vụ, kể cả trong trường hợp giá cả tăng. Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. 5. Kiềm chế lạm phát Thứ nhất, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng hiệu quả sử dụng vốn nhằm giải quyết tận gốc nguyên nhân tăng giá. Thứ hai, kiên định thực hiện những biện pháp nhằm khống chế tổng cầu của nền kinh tế theo Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ. Thứ ba, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá, đồng thời có các giải pháp hỗ trợ vốn, lãi suất, thuế… cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhằm giảm sức ép đẩy giá tăng. Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi thao túng giá. Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, tiến tới xóa bao cấp về giá với điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện… đi đôi với các giải pháp hỗ trợ hợp lý cho người nghèo. Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo sự đồng thuận trong xã hội. KẾT LUẬN Trong cơ chế thị trường hiện nay, tiền lương và giá cả đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng XHCN. Tuy nhiên, các vấn đề xung quanh lương và giá cả thị trường ngày càng phức tạp, lương và giá có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi khi lương tăng thì giá lại biến động khó lường, lương và giá như có một cuộc “rượt đuổi” nhưng lương không thể biến động theo giá. Chính vì vậy việc xây dựng các đề án về tiền lương và giá đòi hởi phải có một lộ trình nhất định. Mỗi đề án phải hoàn thiện, không để khi mới đặt vấn đề về tưng lương thì giá cả đã đẩy lên. Để làm được điều này thì các tổ chức, bộ nghành phải phối hợp chặt chẽ với nhau. Kết hợp xử lý nghiêm, siết chặt các mặt hàng có tính biến động giá cao, không để các doanh nghiệp, thương lái…tự ý tăng giá. Qua quá trình đánh giá, tham khảo các ý kiến, nhóm chúng tôi đã đưa ra các giải pháp nhằm cải cách tiền lương và giá. Hy vọng rằng các giải pháp đưa ra trong thời gian tới có thể góp phần ổn định giá cả thị trường, cách trả lương và xây dựng các đề án cải cách lương theo lộ trình nhất định. Với kiến thức của những sinh viên năm 3 đang ngồi trên giảng đường, chúng tôi hy vọng rằng đây là đề tài nghiên cứu hữu hiệu góp phần xây dựng Nhà nước XHCN ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi các sai sót trong quá trình làm bài, có nhứng ý kiến chứ thực sự sâu sắc và xác đáng. Chúng tôi mong rắng sẽ nhận được sự góp ý từ các giảng viên và các bạn đồng nghiệp. Một lần nữa chúng tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Trịnh Sơn Hoan đã đinh hướng cho chúng tôi hoàn thành đề tài này. Cảm ơn tất cả các bạn đồng nghiệp đã đóng góp ý kiến cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Đà Nẵng, 10/2012. TÀI LIỆU THAM KHẢO ThS. Trịnh Sơn Hoan, Phương pháp nghiên cứu khoa học, Tập bài giảng, 2012. PTS. Bùi Tiến Quý và PTS. Vũ Quang Thọ, Giáo trình chi phí tiền lương các Doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế thị trường. Tạp chí Thương Mại – Kinh tế phát triển – Giá cả thị trường. Web, VIBOnline, Web, Bộ lao động thương binh và xã hội, Web, Bộ tài chính, Web, Chính phủ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnckh_bc_4311.doc
Luận văn liên quan