Đề tài Tìm hiểu mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội

UBND thành phố giao cho trung tâm khuyến nông Hà Nội thành lập quỹ khuyến nông với ngân sách cấp 25 tỷ đồng, quỹ này dành cho các hộ vay không tính lãi để xây dựng các mô hình sản xuất, trong đó nhiều trang trại được vay hàng chục triệu đồng để phát triển nuôi gà công nghiệp siêu thịt, siêu trứng, gà thả vườn. UBND thành phố đã dùng một khoản ngân sách đầu tư hỗ trợ công ty cổ phần Phúc Thịnh đổi mới trang thiết bị chăn nuôi gà giống như: trang bị máy ấp chất lượng cao, xây dựng nhà chăn nuôi gà bố mẹ theo công nghệ chuồng kín, thiết bị tự động, hỗ trợ 30% kinh phí xây dựng và lắp đặt thiết bị cho dây chuyền giết mổ gà thịt bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong các đợt phòng chống dịch cúm gia cầm, UBND thành phố đã đầu tư nhiều tỷ đồng cho việc tiêu hủy gia cầm, phun thuốc khử trùng chuồng trại, làm vệ sinh môi trường, hỗ trợ tiền mua gia cầm giống để phục hồi chăn nuôi gà sau khi hết dịch. Những nội dung trên cho thấy trong thời gian qua chính quyền các cấp đã và đang có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện hỗ trợ phát triển chăn nuôi gà. Đây là điều kiện thuận lợi trong quá trình đưa chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư của xã.

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3840 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quy mô sản xuất kinh doanh hay không? Còn việc có thể mở rộng và mở rộng bằng cách nào còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố cần trả lời được câu hỏi “khách hàng cần gì?” quyết định sản xuất kinh doanh của hộ phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Để đạt được sự phát triển bền vững trong nuôi gia cầm thì yếu tố chuyên môn hóa và quy mô hợp lý là cơ sở cần thiết tạo điều kiện cho đàn gà phát triển cả về số lượng và chất lượng. Qua bảng 4.13 ta thấy trong 40 hộ điểu tra thì tổng số hộ nuôi gà lấy trứng là 21 hộ chiếm 52,5 %, hộ nuôi gà thịt là 13 hộ chiếm 32,5%, 6 hộ chăn nuôi kết hợp chiếm 15%. 100% các hộ được phỏng vấn đều cho rằng mặc dù nuôi gà trứng đòi hỏi sự hiểu biết kỹ về kỹ thuật và cách chăm sóc cũng như chọn con giống kỹ hơn, có thể gặp rủi ro cao hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây trên địa bàn xã Uy Nỗ công tác phòng trừ dịch bệnh và hỗ trợ cho người dân học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi diễn ra tốt. Do vậy nuôi gà trứng vẫn chiếm tỷ lệ cao trên địa bàn xã. Ngoài ra, hướng sản xuất kinh doanh của hộ cũng quyết định tới nhu cầu về vốn, đất đai, quy mô diện tích chuồng trại. Những hộ chăn nuôi lấy trứng thường có vốn đầu tư ban đầu cao và thời gian quay vòng dài hơn. Diện tích, yêu cầu kỹ thuật nuôi gà trứng cũng cao hơn nuôi gà thịt. Từ đặc điểm này mà trong quá trình tách nuôi gà ra khỏi khu dân cư phải chú ý để lựa chọn hướng chăn nuôi phù hợp với điều kiện của từng loại hộ. Bảng 4.13 Hướng chăn nuôi của các hộ điều tra Diễn giải Tổng Trong khu dân cư Ngoài khu dân cư < 500 con Từ 500-1000 con > 1000 con < 500 con Từ 500-1000 con > 1000 con Số hộ chăn nuôi ở các quy mô Hộ SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) 1. Chăn nuôi gia cầm lấy trứng 21 4 19.05 3 14.29 0 0 0 0.00 5 23.81 9 42.86 2. Chăn nuôi gia cầm lấy thịt 13 2 15.38 1 7.69 0 0 2 15.38 3 23.08 5 38.46 3. Chăn nuôi tổng hợp 6 0 0.00 0 0.00 0 0 0 0.00 2 33.33 4 66.67 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra 4.2.3.4.2 Quy mô diện tích đất đai của các hộ Nghiên cứu quỹ đất của hộ giúp chúng ta đưa các giải pháp về quy mô chăn nuôi của hộ và quy hoạch khu chăn nuôi tập trung. Muốn đưa chăn nuôi gà ra khỏi khu dân cư thì điều kiện có tính quyết định là đất để xây dựng hệ thống chuồng trại, công trình phụ trợ và hệ thống xử lý chất thải. Bảng 4.14 Quỹ đất bình quân của các hộ điều tra Diễn giải Trong khu dân cư Ngoài khu dân cư SL (m2) CC (%) SL (m2) CC (%) Tổng diện tích BQ/Hộ 2986,20 100 9070,42 100 I. Đất Thổ cư, đất vườn 918,43 30,76 872,33 9,62 II. Đất nông nghiệp 2067,77 69,24 8198,09 90,38 Đất hoa màu 360,41 17,43 312,43 3,81 Đất cấy lúa 1495,41 72,32 1345,36 16,41 Đất thủy sản 162,11 7,84 182,60 2,23 Đất khác (mua lại, đấu thầu…) 446,64 21,60 6357,70 77,55 III. Số thửa BQ/hộ 7,35 6,78 IV. Diện tích đất NN BQ/ thửa 218,33 1209,16 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra hộ Nhìn vào bảng số liệu trên ta nhận thấy ngay sự chênh lệch lớn về quy mô diện tích của các hộ chăn nuôi xa khu dân cư và trong khu dân cư. Tổng diện tích bình quân của nhóm hộ điều tra chăn nuôi xa khu dân cư là 9070,421 m2 trong đó diện tích đất thổ cư, đất vườn chiếm khoảng 9,62% còn diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 90,38% bình quân mỗi hộ có 8198,089 m2 đất sản xuất nông nghiệp. Một điều đáng nói trong tổng diện tích đất của các hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư là diện tích đất đấu thầu, mua lại chiếm tới 78%. Trong 30 hộ chăn nuôi gà xa khu dân cư điều tra có nhiều hộ gia đình như hộ ông Đỗ Văn Sơn, Nguyễn Thị Thơ ở thôn Đản Mỗ phần diện tích này có tới 1-1,2 ha. Điển hình có hộ ông Dương Văn Phong thôn Ấp Tó, Nguyễn Văn Đinh thôn Đản Dị mỗi hộ có tới gần 1,5 ha đất đấu thầu và đây chính là nguồn hình thành chính tạo nên quỹ đất để các hộ tiến hành quy hoạch khu vực chăn nuôi của hộ, còn đất mà các trang trại, gia trại chăn nuôi gà xa khu dân cư có được do thực hiện việc dồn điền đổi thửa là rất ít. So với các hộ chăn nuôi gà xa khu dân cư thì tổng diện tích BQ các hộ chăn nuôi trong khu dân cư chỉ bằng 0,33 lần tổng diện tích BQ của 1 hộ có chăn nuôi gà trong khu dân cư là 2986,196 m2. Trong đó diện tích có thể chuyển đổi sang chăn nuôi gà ngoài khu dân cư bằng biện pháp dồn điền đổi thửa cho nhau là 2104,160 m2 đó là những diện tích đang cấy lúa, nuôi trồng thủy sản và các loại đất do mua lại hoặc đấu thầu từ đất công ích… còn diện tích đất hoa màu của hộ có độ phì cao nên tiếp tục phát triển các sản phẩm rau sạch, rau an toàn, hoa cây cảnh…do diện tích đất có hạn nên các hộ chăn nuôi trong khu dân cư thường chỉ xây dựng 1 đến 2 chuồng nuôi với diện tích khoảng 20 – 25 m2 trên diện tích đất vườn và đất thổ cư, nên không gian riêng cho chăn nuôi hầu như không có. Hỏi: Tại sao gia đình bác không đưa chăn nuôi gà xa khu dân cư? Đáp: Chúng tôi không đưa chăn nuôi gà ra khu dân cư không phải vì không có vốn và sợ rủi ro, căn bản là không có đất để đưa chăn nuôi của mình ra đó. (Phỏng vấn bác Sơn, thôn Đản Nỗ - Uy Nỗ) 4.2.3.4.3 Vốn cho sản xuất kinh doanh Trong chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói riêng đặc biệt là ở quy mô gia trại, trang trại vấn đề vốn luôn được đặt lên hàng đầu, có vốn mới có thể đầu tư xây dựng và cải tạo được chuồng trại, mua sắm đầu tư các đầu vào để tiến hành sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất có hiệu quả. Qua thời gian về tìm hiểu trên địa bàn xã Uy Nỗ - Đông Anh – Hà Nội chúng tôi đã thu thập được vốn và nhu cầu về vốn cho chăn nuôi gà của các hộ trong và ngoài khu dân cư như sau. Bảng 4.15 Vốn cho chăn nuôi gà bình quân của nhóm hộ điều tra Diễn giải Trong khu dân cư Xa khu dân cư Số lượng (Tr.đ) Cơ cấu (%) Số lượng (Tr.đ) Cơ cấu (%) I. Vốn hiện có 97 100 262,27 100 1.1 Theo hình thức luân chuyển 97 100 262,27 100 Vốn cố định 45,3 47 120 45,75 Vốn lưu động 51,7 53 142,27 54,25 1.2 Theo hình thức sở hữu 97 100 262,27 100 Vốn vay 31,53 32,51 152,54 41,84 Vốn tự có 65,47 67,49 109,73 58,16 II. Thời gian vay Dài hạn (trên 3 năm) 8,93 28,32 93,77 61,47 Trung hạn (từ 1- 2 năm) 17,88 56,72 49,27 32,3 Ngắn hạn (dưới 1 năm) 4,72 14,96 9,5 6,23 III. Nhu cầu vay vốn 40,32 157,45 Vay để mua săm TS lưu động 22,07 54,73 78,35 49,76 Vay để mua sắm TS cố định 18,25 45,27 79,10 50,24 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy tổng vốn đầu tư bình quân các hộ chăn nuôi gà ngoài khu dân cư cao gần 3 lần vốn trung bình của các hộ đang chăn nuôi trong khu dân cư. Đại đa số các hộ chăn nuôi gà trong khu dân cư do có thời gian chăn nuôi khá lâu chỉ có một số ít chuồng trại của một số hộ ở thôn Ấp Tó mới được tu sửa lại nên giá trị hệ thống chuồng trại, trang thiết bị phục vụ cho chăn nuôi còn lại không đáng kể chỉ chiếm 47% nguồn vốn hiện có của hộ. Nguồn vốn cố định bình quân mỗi hộ chỉ 45,3 triệu đồng trong khi đó các hộ chăn nuôi gà ngoài khu dân cư là 120 triệu đồng. Qua bảng trên ta cũng có thể nhận thấy sự mạnh dạn đầu tư của các hộ chăn nuôi gà xa khu dân cư, trong tổng số vốn bình quân hiện có của mình, số vốn tự có của các hộ chỉ chiếm hơn 41%, còn lại chủ yếu là vốn đi vay dài hạn từ các ngân hàng như ngân hàng NN và PTNT, ngân hàng Công Thương, nguồn vốn người nghèo, nguồn vốn các tổ hội như hội phụ nữ, hội Cựu chiến binh, hội nông dân tập thể… với mức vay tối đa là từ 5 đến 10 triệu lãi thấp 0,32% đến 0,5%/tháng thời gian vay từ 1 đến 2 năm nhưng cho tới nay thì các hộ tiếp cận được nguồn vốn này còn rất ít. Khi được hỏi nhu cầu về vay vốn tất cả các hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư đều trả lời là có nhu cầu mong muốn được hỗ trợ tạo điều kiện giúp đỡ để họ tiếp cận được với các nguồn vốn chính thống với thời gian vay dài hơn để đầu tư xây dựng mới và cải tạo chuồng trại, hệ thống công trình phụ, mua thêm gà, thức ăn để mở rộng quy mô sản xuất. Bình quân mỗi hộ chăn nuôi xa khu dân cư có nhu cầu về vốn 157,45 triệu đồng. Trong khi đó nhu cầu về vốn các hộ chăn nuôi gà trong khu dân cư chỉ là 40,32 triệu đồng cá biệt có hộ Bác Tý ở thôn Ấp Tó, hộ anh Minh ở thôn Đản Dị… khi được hỏi về nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất thì các hộ này trả lời “hiện nay chúng tôi chỉ vay khi đó là nguồn vốn hỗ trợ với lãi xuất thấp”. Và mục đích vay của các hộ này chủ yếu là để cải tạo lại số chuồng trại đã cũ còn để xây dựng mới mở rộng quy mô sản xuất là rất ít, trong 10 hộ chỉ có 1 hộ là vay nhằm xây dựng mới và mua thêm gà mở rộng quy mô sản xuất. Để xây dựng được một trang trại tách khỏi khu dân cư các hộ cần lượng vốn lớn để đầu tư rất nhiều khoản mục như đường xá, hệ thống điện, chi phí san lấp mặt bằng, xây dựng hệ thống chuồng trại, công trình phụ trợ khác… Vì vậy vốn là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của hộ trong việc có nên hay không nên mở rộng quy mô sản xuất, đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư. 4.2.3.4.4 Cơ sở vật chất chăn nuôi gà Bảng 4.16 Cơ sở vật chất của các hộ điều tra Diễn giải Trong khu dân cư Ngoài dân cư Số hộ Cơ cấu (%) Số hộ Cơ cấu (%) Tổng số 10 25 30 75 I Quy trình kỹ thuật 1.1 Hệ thống xử lý chất thải Có 0 0 0 0 Không có 10 100 30 100 1.2 Công trình phụ trợ Đảm bảo 2 20 18 60 Không đảm bảo 8 80 12 40 1.3 Chế phẩm sinh học Sử dụng 0 0 2 6,67 Không sử dụng 10 100 28 93,33 II Phương thức chăn nuôi Công nghiệp 4 40 24 80 Bán công nghiệp 6 60 6 20 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Về chuồng nuôi Một là, hệ thống xử lý chất thải: đây là hệ thống quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, nuôi dưỡng vật nuôi. Nó ảnh hưởng tới môi trường sống của cư dân xung quanh. Nếu không có hệ thống xử lý chất thải sẽ là nguyên nhân gây ra các dịch bệnh. Qua điều tra cho thấy 100% các hộ không có hệ thống xử lý chất thải. Hầu như những hộ được điều tra đều chăn nuôi kết hợp với cá và cây trồng khác. Phân gà được dùng làm thức ăn cho cá và bón cho cây. Khi có hỏi tới vấn đề môi trường chất thải chăn nuôi bác Đỗ Văn Sơn cho biết: “Chúng tôi chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư, toàn bộ chất thải từ chăn nuôi gà tận dụng làm thức ăn cho cá, từ trước tới giờ chưa thấy hiện tượng gì đáng lo ngại”. Tuy nhiên,có những hộ không nuôi kết hợp, không trồng lúa chỉ có nuôi gà thì khoảng 1 tuần phân gà được gom lại cho vào bao tải và bán cho nông dân chuyên trồng lúa 25 nghìn đồng/tạ - 30 nghìn đồng/tạ. Một thực tế đáng nói tới đây là khi phân gà được gom lại không có kho chứa mà đưa ra một khu vực nào đó trong khu chăn nuôi, những gà thả vườn lại bới làm cho mùi hôi thối rất khó chịu làm cho môi trường bị ô nhiễm… Anh Trần Văn Thắng trong khu dân cư nuôi quy mô khoảng 1500 con/lứa gây ảnh hưởng tới môi trường sống của cư dân nông thôn nên bị phản ánh và ủy ban nhân dân xã Uy Nỗ đã buộc anh phải giải thể năm 2008. Khi chúng tôi có hỏi anh về kết quả chăn nuôi của gia đình anh trước đây, anh cho biết: “gia đình tôi nuôi gà cũng rất lâu, hiệu quả kinh tế mang lại cho gia đình tương đối lớn mỗi năm lãi khoảng 40 – 50 triệu. Ngoài nuôi gà gia đình chỉ làm thêm vài sào ruộng để cung cấp lương thực”. Theo anh Thắng: Lý do không xây dựng được hệ thống xử lý chất thải một phần do không có vốn. Mặt khác, khi xây dựng chuồng trại kiên cố khó lường trước được sự ô nhiễm nên không xây dựng được đồng thời hệ thống xử lý chất thải. Để đến khi ô nhiễm nghiêm trọng xảy ra thì khó có thể xây dựng được hệ thống Biogas dưới lòng đất vì diện tích có hạn mà hệ thống chuồng nuôi lại kiến cố, không thể đào bới. Hai là, công trình phụ trợ như hố sát trùng, kho đựng thức ăn, phòng thú y, chuồng cách ly…So sánh hai nhóm hộ trong và ngoài khu dân cư ta thấy công trình phụ trợ đảm bảo của nhóm hộ ngoài khu dân cư (60%) cao hơn nhiều so với nhóm hộ trong khu dân cư (20%). Điều này được giải thích khi các hộ tách ra khỏi khu dân cư chăn nuôi hàng hóa họ sẽ dễ dàng xây dựng công trình phụ để chứa thức ăn, sản phẩm… so với các nhóm hộ trong khu dân cư. Bác Sơn thôn Ấp Tó cho biết “gia đình tôi có tất cả ba chuồng nuôi gà, thức ăn, thuốc… còn những kho chứa phân lại được tách riêng ra xa cách chuồng nuôi khoảng 100m. Khi có dịch bệnh xảy ra thì những con gà bị bệnh và chưa bị bệnh được tách riêng ra để có cách chăm sóc và điều trị khác nhau. Mặt khác, các chuồng nuôi này được thay phiên nhau trong quá trình kết thúc chu kỳ chăn nuôi để có thời gian xử lý và sát trùng hợp lý, nhằm hạn chế dịch bệnh cho đợt nuôi tiếp theo”. Ba là, chế phẩm sinh học được sử dụng nhằm khử mùi hôi thối của chất thải trực tiếp từ vật nuôi, phân hủy chất thải của gia cầm thành dạng an toàn không gây hại, không gây ô nhiễm. Qua điều tra cho thấy số hộ sử dụng chế phẩm sinh học là rất ít. Trong khu dân cư (0%) và ngoài khu dân cư (6,67%). Nguyên nhân của việc không sử dụng chế phẩm sinh học được giải thích là do các hộ nuôi gà tách khỏi khu dân cư là tự phát, họ không nhận thức đầy đủ về việc ô nhiễm môi trường do chăn nuôi mang lại nếu không có một quy trình hướng dẫn chăn nuôi cụ thể. Họ lấy chất thải từ nuôi gà bổ trợ cho nuôi cá, trồng cây hoặc bán để tăng thêm thu nhập. Thậm chí tại Ấp Tó những hộ nuôi gà rất gần nhau (cô Thơ, bác Thắng, bác Sơn, bác Minh…) nhưng họ chăn nuôi riêng rẽ “mạnh ai người ấy làm”, không có sự liên kết gì trong chăn nuôi để mang lại hiệu qủa tốt hơn về môi trường, kinh tế… Về phương thức chăn nuôi Phần lớn những hộ nuôi gà tách khỏi khu dân cư đều chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp, điều này cũng dễ giải thích do khi chuyển chăn nuôi tách ra khu dân cư thường là sản xuất hàng hóa, nuôi gà với quy mô lớn do vậy thức ăn cho gà chủ yếu là thức ăn công nghiệp. Tức là cho gia cầm sử dụng cám viên qua các giai đoạn tuổi, một số hộ còn lại sử dụng thức ăn tự chế hóặc ngô trộn với cám đậm đặc, hoặc mua nguyên liệu về tự chế. Những hộ nuôi theo hình thức bán công nghiệp thường là nuôi gà thả vườn. Như vậy nhìn chung các công trình phụ trợ phục vụ cho chăn nuôi tương đối tốt. Tuy nhiên, chăn nuôi gà của các hộ trong và ngoài khu dân cư trên địa bàn xã chưa có hệ thống xử lý chất thải. Các chất thải từ chăn nuôi gà hầu hết được sử dụng cho trồng trọt hoặc gom lại để bán. 4.2.3.4.5 Chính sách của Đảng và Nhà nước về chăn nuôi gia cầm Trong thời gian qua Đảng, Nhà nước cũng như UBND huyện Đông Anh, UBND xã Uy Nỗ đã ban hành một số chính sách như chính sách dồn điền đổi thửa, chính sách về kinh tế trang trại, chính sách hỗ trợ xây dựng các mô hình trình diễn, chính sách hỗ trợ người chăn nuôi trong công tác phòng dịch. Việc chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư đã được UBND huyện phê duyệt, cho phép làm chuồng trại, nhà kho theo kỹ thuật, đồng thời phải sử dụng đất đúng mục đích theo quy định của luật đất đai. UBND thành phố giao cho trung tâm khuyến nông Hà Nội thành lập quỹ khuyến nông với ngân sách cấp 25 tỷ đồng, quỹ này dành cho các hộ vay không tính lãi để xây dựng các mô hình sản xuất, trong đó nhiều trang trại được vay hàng chục triệu đồng để phát triển nuôi gà công nghiệp siêu thịt, siêu trứng, gà thả vườn. UBND thành phố đã dùng một khoản ngân sách đầu tư hỗ trợ công ty cổ phần Phúc Thịnh đổi mới trang thiết bị chăn nuôi gà giống như: trang bị máy ấp chất lượng cao, xây dựng nhà chăn nuôi gà bố mẹ theo công nghệ chuồng kín, thiết bị tự động, hỗ trợ 30% kinh phí xây dựng và lắp đặt thiết bị cho dây chuyền giết mổ gà thịt bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong các đợt phòng chống dịch cúm gia cầm, UBND thành phố đã đầu tư nhiều tỷ đồng cho việc tiêu hủy gia cầm, phun thuốc khử trùng chuồng trại, làm vệ sinh môi trường, hỗ trợ tiền mua gia cầm giống để phục hồi chăn nuôi gà sau khi hết dịch. Những nội dung trên cho thấy trong thời gian qua chính quyền các cấp đã và đang có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện hỗ trợ phát triển chăn nuôi gà. Đây là điều kiện thuận lợi trong quá trình đưa chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư của xã. 4.2.3.4.6 Các yếu tố ảnh hưởng khác Tâm lý của người chăn nuôi Sợ rủi ro, lo ngại không muốn phát triển do dịch bệnh. Mặt khác, trước đây quen chăn nuôi trong khu dân cư ngại phải xây dựng chuồng trại, bắt đầu lại từ đầu khi chuyển chăn nuôi ra xa khu dân cư, các hộ sản xuất gần như chưa có định hướng, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều hộ chưa có tâm huyết thực hiện các công tác chuẩn bị các điều kiện về đất đai, vốn… để tiến hành đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư. Tư duy của cán bộ, chính quyền địa phương Nhiều cán bộ đảng viên không tán đồng và gây cản trở quá trình xây dựng các khu CN gà tập trung với lý do lo sợ mất đất sản xuất nông nghiệp. Đa số cán bộ các thôn, xã là những người nắm bắt rõ nhất điều kiện đất đai, vốn... của địa phương mình nhưng lại thiếu trình độ quản lý, quy hoạch. Vì vậy, địa phương chưa xây dựng được kế hoạch cụ thể trong việc phát triển đưa chăn nuôi gà nói riêng, chăn nuôi nói chung tách khỏi khu dân cư. Thủ tục hành chính khi xét duyệt đồng ý cho xây dựng một trang trại CN gà ngoài khu dân cư còn phức tạp, rườm rà cũng gây cản trở không nhỏ tới quá trình đưa chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư. 4.2.3.5 Thuận lợi, khó khăn chăn nuôi gà xa khu dân cư 4.2.3.5.1 Thuận lợi Thứ nhất, Uy Nỗ có nhiều vùng đất canh tác kém hiệu quả, nhiều vùng đất thuộc đất công nên xã có thể cho dân đấu thầu. Đây là điều kiện tiên quyết có thể tập trung tích tụ đất đai để xây dựng mô hình nuôi gà xa khu dân cư. Thứ hai, Đông Anh là huyện ngoại thành Hà Nội - thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là sản phẩm từ chăn nuôi gia cầm. Đây là điều kiện tốt cho Đông Anh nói chung và Uy Nỗ nói riêng phát triển chăn nuôi gia cầm hàng hóa. Mặt khác, có nhiều công ty cung cấp nhiều loại con giống có uy tín cho nông dân: Công ty Phúc Thịnh, công ty CP. Thứ ba, cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống giao thông khá thuận lợi. Giao thông là vấn đề sống còn trong phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Có giao thông thuận lợi thì những sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm từ nuôi gà mới trở thành hàng hóa tương xứng với giá trị sức lao động bỏ ra, có giao thông thuận tiện mới có thể nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thu hút đầu tư. Những con đường, lối xóm ở Uy Nỗ đều được bê tông hóa và nhựa hóa tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa phát triển, đời sống của nông dân ngày càng được nâng lên. Thứ tư, Uy Nỗ là một trong những xã nằm ngay trung tâm huyện Đông Anh – nơi có nhiều ngân hàng như: Ngân hàng Công thương, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam… Nhờ vậy mà người dân có điều kiện tiếp cận với vốn khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật dùng cho nuôi gà. Thứ năm, khi chuyển mô hình nuôi gà xa khu dân cư, người nông dân có điều kiện mở rộng quy mô chăn nuôi kết hợp tạo thành các trang trại, gia trại mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, xây dựng nông thôn mới, nhiều phong trào thi đua sản xuất giỏi được bà con trong xã hưởng ứng sôi nổi. Điều đó nâng cao tinh thần, ý thức tự giác của người dân giúp họ tự chủ và năng động hơn, đây là sự “đồng sức đồng lòng” tạo thành sức mạnh, là tiền đề cơ bản cho những thành công lớn trong phát triển kinh tế của địa phương. Uy Nỗ trong những năm gần đây, phong trào sản xuất giỏi được nhân dân hưởng ứng và thực hiện rất có hiệu quả. Chính vì vậy mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư càng hiệu quả, nhiều mô hình chăn nuôi trang trại, gia trại đã, đang hình thành và đạt được những kết quả tốt. 4.2.3.5.2 Khó khăn Thứ nhất, khó khăn lớn nhất đối với việc đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư là mặt bằng và khả năng tích tụ ruộng đất. Hiện nay, việc đưa chăn nuôi xa khu dân cư đối với nhiều huyện ngoại thành Hà Nội là bài toán chưa có lời giải thỏa đáng. Nhiều nơi đất bỏ hoang hoặc thâm canh kém hiệu quả nhưng các hộ làm ăn lớn muốn thầu khoán để tổ chức sản xuất theo hướng quy mô, hiện đại lại hết sức khó khăn. Bởi thực tế ở Uy Nỗ có nhiều hộ không sản xuất nông nghiệp nhưng không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác vì họ sợ mất đất nông nghiệp. Bác Thành cho biết “Mặc dù, chúng tôi không sản xuất nông nghiệp nhưng cũng không dám cho người khác thuê mướn, bởi vì khi cho họ thuê mướn họ xây dựng kiên cố nên sau này lấy lại khó khăn nên đành để ruộng hoang” Mặt khác, quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa, các hộ muốn quy hoạch khu chăn nuôi xa khu dân cư nhưng không có quỹ đất, các hộ tự tổ chức dồn đổi cho nhau thì cũng khó vì không có một đơn vị đứng ra làm trung gian, bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên. Những lý do trên đây đã khiến tình trạng chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư vẫn phổ biến ở Uy Nỗ. Thứ hai, khó khăn không thể không nhắc đến là khi chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư ngoài việc xây dựng cơ sở, trang thiết bị kỹ thuật cho việc chăn nuôi gà thì còn phải xây nhà và có người trông nom thường xuyên. Theo Bác Tý thôn Ấp Tó cho biết: “Như nhà bác bây giờ chỉ có hai người, cho dù có điều kiện tách ra khu dân cư thì cũng khó có thể làm được”. Thứ ba, chăn nuôi trang trại hình thành và phát triển thiếu sự quy hoạch tổng thể và lâu dài của địa phương. Hầu hết, các hộ chưa có quy hoạch, kế hoạch trung hạn và dài hạn để phát triển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư dẫn đến tình trạng các trang trại, gia trại xây dựng manh mún, thiếu sự đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, chưa hình thành liên vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Thứ tư, thời gian, thủ tục giao đất và cho thuê đất còn nhiều khó khăn, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rất chậm làm ảnh hưởng tới quá trình đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển chăn nuôi rất lớn, trong khi đó khả năng tiếp cận nguồn vốn không phải hộ nào cũng dễ dàng, nguyên nhân do tài sản thế chấp của các hộ là đất đai, giá trị đất đai ở những nơi đầu tư chăn nuôi thường có giá trị thấp, những tài sản khác như thiết bị, con giống thường không được ngân hàng chấp nhận nên khả năng vay bằng tài sản thế chấp bị hạn chế rất nhiều. Thời gian vay vốn ngắn chưa phù hợp với chu kỳ chăn nuôi, gây khó khăn cho chủ hộ khi định hướng phát triển lâu dài. Thứ năm, tình hình dịch bệnh trong những năm vừa qua dù đã có những biến đổi theo chiều hướng tích cực nhưng cũng đã làm cho không ít hộ lâm vào tình trạng phá sản dẫn tới tâm lý của người chăn nuôi hoang mang, lo lắng. 4.3 Khả năng nhân rộng mô hình chăn nuôi xa khu dân cư 4.3.1 Điều kiện áp dụng mô hình Qua quá trình phân tích trên, nhận thấy mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư đã và đang mang lợi ích thiết thực cho người dân nơi đây. Nhưng để hộ có thể xây dựng được một mô hình chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư và hoạt động có hiệu quả thì không phải là vấn đề đơn giản. Các hộ cần đạt được những điều kiện nhất định về đất đai, nhân lực, trình độ, vốn… Trên thực tế hầu hết các mô hình mang tính chất tự phát ,vì vậy một số tiêu chuẩn chưa đạt được như đề án đặt ra. 4.3.1.1 Quy mô chăn nuôi Những hộ chăn nuôi gà thịt thương phẩm, gà đẻ trứng thương phẩm theo như đề án chăn nuôi gà tập trung tách khỏi khu dân cư giai đoạn 2006 – 2010, phải có quy mô chăn nuôi thường xuyên trên 2000 con/hộ. Nhìn bảng 4.5 ta thấy hộ có quy mô từ 500 -1000 con chiếm tỷ lệ cao (> 50%). Hộ có quy mô chăn nuôi trên 1000 con tăng qua các năm, năm 2007 là 13 hộ, năm 2008 là 16 hộ, năm 2009 là 17 hộ. Nhưng chỉ có một số ít hộ đảm bảo được số lượng đầu con theo như đề án của huyện đặt ra như: hộ chị Thơ, hộ ông Đinh… Như vậy do mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở Uy Nỗ mang tính tự phát nên nhiều mô hình chưa đạt được những điều kiện của dự án đặt ra. Khi được hỏi về hướng chăn nuôi trong các năm tiếp theo, hầu hết các hộ đều muốn duy trì và mở rộng thêm quy mô chăn nuôi theo mô hình này. Mặc dù chưa đạt như mong đợi của đề án song nó thực sự mang lại hiệu quả thiết thực cho hộ nông dân. Vì vậy, các cấp chính quyền và bản thân hộ nông dân cần có những kế hoạch cụ thể để mô hình có thể nhân rộng và đạt hiệu quả hơn. 4.3.1.2 Quỹ đất cho chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại Đề án đề xuất diện tích tối thiểu của một trang trại chăn nuôi gia cầm là 1000m2/hộ, được xây dựng tập trung tại một khu đất được quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng. Qua điều tra tình hình thực tiễn, hầu hết các hộ đều đảm bảo yêu cầu của đề án đặt ra. Đây là điều kiện tốt để áp dụng mô hình. 4.3.1.3 Khoảng cách các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư Khoảng cách tối thiểu của các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư là 500m trở lên. Các trang trại điều tra đều đảm bảo khoảng cách xa khu dân cư từ 500m trở lên. Hơn nữa, theo như ý kiến của cán bộ địa phương và người dân thì sau khi chuyển chăn nuôi gà xa khu dân cư tình hình dịch bệnh và môi trường đã được cải thiện rõ rệt. Dịch bệnh giảm nên thu nhập của người dân cũng được nâng lên. Để đạt được những kết quả đó những hộ chăn nuôi gà trong và ngoài khu dân cư đã có sự phấn đấu cố gắng không ngừng, thêm vào đó là sự hỗ trợ và quan tâm của chính quyền địa phương, của người dân. Tuy nhiên, những mô hình chăn nuôi gà ngoài khu dân cư trên địa bàn xã đang mang tính chất tự phát, chưa nằm trong khu quy hoạch. Nếu nhìn tổng thể trên một vùng, một xã thì những hộ này chăn nuôi đang phân tán, nhỏ lẻ. Đây cũng là một trong những vấn đề ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của chăn nuôi gà cả xã Uy Nỗ. Nếu các hộ chăn nuôi tập trung thành một vùng, hỗ trợ cho nhau trong việc phát triển chung, có sự phối hợp trong việc giải quyết đầu vào và đầu ra thì chúng tôi tin rằng hiệu quả của mô hình sẽ cao hơn hiện nay. Thế nhưng trên thực tế để có một ngành chăn nuôi vừa xa khu dân cư vừa tập trung thành vùng theo đề án đưa ra ở Uy Nỗ thì không dễ dàng,vì bên cạnh những thuận lợi có được thì có không ít những khó khăn phải đối mặt. 4.3.2 Đánh giá của người dân về việc đưa chăn nuôi ra khu dân cư Những năm qua, mô hình chăn nuôi tập trung xa khu dân cư đi vào hoạt động đã làm cho diện mạo nông nghiệp thành phố Hà Nội ngày một thay đổi. Tỷ trọng chăn nuôi đã chiếm trên 50% giá trị sản xuất nông nghiệp, trở thành hướng đi giúp nông dân làm giàu. Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư ở Uy Nỗ nói riêng mặc dù đã được hình thành và phát triển, thế nhưng đang còn mang hình thức tự phát, chưa có một quy hoạch nào để có thể tập trung các trang trại, gia trại thành một khu nhất định. Bởi chăn nuôi tập trung theo đề án của tổng cục thống kê 2002 không chỉ là việc đưa chăn nuôi của các hộ riêng lẻ tách ra khỏi khu dân cư và tập trung vào khu mà các hộ cần có sự phối hợp trong việc phát triển một nền chăn nuôi bền vững, tránh ô nhiễm môi trường, có cơ chế quản lý rõ ràng từ chăn nuôi, buôn bán, chế biến, giết mổ tập trung mới có thể đảm bảo các mục tiêu xây dựng ngành chăn nuôi bền vững. Vậy câu hỏi đặt ra là những hộ chăn nuôi gà có những đánh giá như thế nào về việc đưa chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói riêng tách khỏi khu dân cư ở Uy Nỗ hiện nay. Và những lý do gì khiến một số hộ chưa chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư. Bảng 4.17 Lý do đưa chăn nuôi gà ra xa khu dân cư của các hộ điều tra Diễn giải Ý kiến của hộ Nhu cầu của hộ Lý do chưa đưa Đồng ý Không đồng ý Có nhu cầu Không có nhu cầu CN gà ra KDC Số hộ CC (%) Số hộ CC (%) Số hộ CC (%) Số hộ CC (%) Số hộ CC (%) Tổng số hộ 37 92,50 3 7,50 6 60,00 4 40,00 10 100,00 1. Thấy tốt hơn ( KT - MT và ít bệnh tật) 32 86,49 0 0,00 2 33,33 2. Không thấy tốt hơn 3 100,00 2 20,00 3. Muốn mở rộng CNGC 5 13,51 3 50,00 4. Không có nhân lực 1 25,00 1 10,00 5. Không có đất 2 50,00 1 10,00 6. Không có vốn 3 30,00 7. Do chính sách hiện hành 1 16,67 1 25,00 2 20,00 8. Lý do khác 1 10,00 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Nhìn vào bảng 4.17 chúng ta nhận thấy rằng trong 40 hộ điều tra có tới 92,5% hộ đồng ý với chủ trương tách chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, đa số hộ đều nhận thức được khi tách chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói riêng ra khỏi khu dân cư sẽ đảm bảo về môi trường cho chăn nuôi cũng như môi trường sống cho cư dân xung quanh. Mặt khác, hạn chế được dịch bệnh và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của hộ. Điều đáng nói ở đây là 100% hộ được hỏi thì không hộ nào nghĩ tới việc khi chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư sẽ là điều kiện tốt để áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chúng ta có thể thấy việc nhận thức của người dân về việc tập trung chăn nuôi thành một khu riêng biệt để có sự hợp tác trong việc xây dựng một nền chăn nuôi khép kín từ khâu chăn nuôi cho tới giết mổ và tiêu thụ là chưa có. Trong những hộ đồng ý với việc chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư thì có 5 hộ muốn đưa chăn nuôi tách dân cư để có điều kiện mở rộng quy mô chăn nuôi một cách hợp lý. Trong 40 hộ điều tra có 3 hộ không đồng ý đưa chăn nuôi tách khỏi khu dân cư bởi vì họ sợ mất đất nông nghiệp. Bác Long Xóm Trong cho biết. “nếu chăn nuôi theo kiểu ngẫu hứng, thấy giá thịt thương phẩm cao, người chăn nuôi đổ xô làm theo phong trào mà chưa tính đến việc đầu ra sẽ bán ở đâu, bán giá như thế nào? Đến khi ai ai cũng làm, ai ai cũng chăn nuôi, ai ai cũng xây dựng kiên cố chuồng trại để nuôi gà thì Nhà Nước và chính quyền có đảm bảo vấn đề đầu ra cho người nông dân hay không? Mặt khác, khi đã xây dựng chuồng trại kiên cố rồi thì nguy cơ mất đất trồng trọt là điều không thể tránh vì khi xây dựng chuồng trại rồi người nông dân không thể gỡ bỏ, hơn nữa tiền đâu ra mà xây rồi phá”. Như vậy, người nông dân rất không yên tâm về cơ chế chính sách, không ai đảm bảo đầu ra cho họ nếu như sản lượng thịt và trứng gia cầm ngày một tăng lên. Ý kiến này chúng tôi cũng được cô Yến thôn Ấp Tó tâm sự: “Trong thời buổi này người nông dân thấy một số hộ làm ăn có hiệu quả nên đổ xô làm theo”, dẫn tới giá thức ăn, thuốc thú y cứ ngày càng tăng nhanh trong khi đó đầu ra của người nông dân luôn bị chèn ép, cái khó cái khổ luôn là người chăn nuôi. Chỉ cần một thông tin gì đó về thịt hay trứng mà làm cho người tiêu dùng không tin tưởng hoặc dịch bệnh là làm cho người nông dân bán đổ bán tháo,ít lâu sau thông tin được đính chính lại thì như vậy chăn nuôi 3 – 4 tháng chẳng bằng người buôn bán thu gom 4-5 ngày”. Cô còn cho biết “giờ chuồng trại xây và chăn nuôi được vài năm mất bao nhiêu tiền chẳng nhé lại nghỉ, nên lại đành nuôi tiếp hy vọng đến khi thu hoạch may thì gặp đợt được giá, không thì lãi chẳng được bao nhiêu. Hơn nữa đôi lúc gà bị bệnh đi lên đại lý mua thuốc nói bao nhiêu thì trả tiền bấy nhiêu, mua thuốc dùng cho ba ngày đã mất mấy trăm liền mà không biết có hy vọng gì không” 4.4 Giải pháp và định hướng phát triển mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư 4.4.1 Định hướng phát triển mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư Mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư đã và đang đem lại những mặt tích cực trong cải thiện thu nhập cho một bộ phận không nhỏ người dân cũng như giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường đang khá nổi cộm trong thời gian qua ở trong các khu dân cư. Chính vì vậy việc nhân rộng mô hình là hệ quả tất yếu trong tiến trình sản xuất nông nghiệp hiện đại. Vấn đề này đòi hỏi phải có những định hướng rõ ràng, cụ thể và thiết thực. Để làm được những điều đó cần tập trung vào một số vấn đề sau đây. Hiện nay hầu như các hộ chăn nuôi xa khu dân cư trên địa bàn xã chủ yếu vẫn là tự phát, chưa có hộ nào nằm trong khu quy hoạch của xã nên hầu như các hộ đã đưa được chăn nuôi ra xa khu dân cư nhưng vẫn còn phân tán chưa tập trung nên hiệu quả môi trường, hiệu quả kinh tế chưa đạt được như mong đợi của đề án. Vì vậy trong thời gian tới nhiệm vụ xác định quy hoạch khu chăn nuôi tập trung xa dân cư có sự kiểm soát, chặt chẽ của chính quyền địa phương là yếu tố then chốt cho phát triển chăn nuôi bền vững; lãnh đạo các cơ sở phải thực sự vào cuộc, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cho phát triển kinh tế ở địa phương Vấn đề môi trường phải được đặt lên hàng đầu đối với cơ sở chăn nuôi, việc tập trung các hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư là điều cần thiết làm cơ sở cho nền chăn nuôi phát triển bền vững. Vì vậy các cấp chính quyền và UBNN xã Uy Nỗ cần kiểm tra chặt chẽ quá trình đưa chăn nuôi tách khỏi khu dân cư của các hộ. Các hộ muốn chuyển chăn nuôi tách khỏi khu dân cư phải nằm trong quy hoạch của xã, không để các hộ chuyển một cách tự phát như hiện nay. Vì như vậy khả năng gây và lây lan dịch sẽ rất lớn nếu quy mô gia cầm ngày càng tăng. Trên địa bàn xã tình trạng mạnh ai nấy làm không có sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Bên cạnh đó giữa các hộ chăn nuôi và các cơ sở chế biến và tiêu thụ chưa có một mối liên kết nào, cho nên trong thời gian qua các hộ chăn nuôi cũng đã không gặp ít khó khăn trong vấn đề mua đầu vào, tiêu thụ đầu ra, giá cả lên xuống thất thường gây ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả chăn nuôi của các hộ. Vì vậy, trong thời gian tới cần xây dựng và tăng cường mối liên kết giữa các tác nhân này nhằm tiến tới xây dựng chăn nuôi gà công nghiệp khép kín tất cả các khâu từ con giống cho đên chế biến và tiêu thụ sản phẩm bằng việc thành lập các hiệp hội chăn nuôi, các HTX chăn nuôi các tổ chức này sẽ làm nhiệm vụ liên kết các tác nhận trên. Cần phải có các cơ chế nhằm điều chỉnh để giải quyết các vấn đề tồn tại về sức khỏe và môi trường phát sinh trong quá trình chăn nuôi. Phải có các qui định bắt buộc đối với các cơ sở chăn nuôi trong việc áp dụng các công nghệ để bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Các hộ chăn nuôi cần có một tầm nhìn xa hơn đó là sản xuất những sản phẩm dành cho xuất khẩu muốn làm được điều trước hết các hộ chăn nuôi phải hướng chăn nuôi của mình theo hình thức chăn nuôi sạch đảm bảo các tiêu chuẩn như HCCP, GAP, ISO 9001- 2000 đáp ứng được các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật của của các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng như Mỹ, Nhật, EU... 4.4.2 Giải pháp Một là, chính quyền địa phương cần đứng ra làm đơn vị trung gian để bảo đảm tính pháp lý cho hộ. Chuyển đổi đất dựa trên hợp đồng giữa các hộ để đảm bảo tính trách nhiệm cho cả hai bên. Tuyên truyền cho người dân hiểu được mục đích của việc tích tụ đất đồng thời bảo đảm một số quyền lợi cho họ như: đền bù… Hai là, hầu hết các hộ được điều tra đều sử dụng toàn bộ lao động gia đình là chính, tuy nhiên một số hộ muốn chuyển chăn nuôi gà ra xa khu dân cư nhưng thiếu nguồn lực. Chính vì vậy, hộ cần thuê thêm lao động hoặc tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi từ họ hàng. Nếu thiếu vốn, các tổ chức đoàn thể như: hội nông dân, hội phụ nữ…cần cho hộ vay vốn với lãi suất thấp giúp họ yên tâm sản xuất. Ba là, chính quyền xã kết hợp với các địa phương xây dựng khu quy hoạch mang tính tổng thể cho chăn nuôi gà để đảm bảo các trang trại chăn nuôi tập trung tạo nên liên vùng sản xuất hàng hóa. Hơn nữa, cần có biện pháp cứng rắn, bắt buộc những hộ nào muốn chuyển chăn nuôi gà ra xa khu dân cư thì phải chuyển vào khu quy hoạch để đảm bảo vệ sinh môi trường, thuận tiện cho việc cung cấp đầu vào, tiêu thụ đầu ra và xử lý rác thải, dịch bệnh. Bốn là, Nhà nước cần có những biện pháp cấp sổ đỏ cho người dân hợp lý và đúng quy định. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi về vốn cho các hộ chăn nuôi với quy mô lớn để họ có điều kiện phát triển mô hình chăn nuôi của mình thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Năm là, các hộ chăn nuôi cần xây dựng hệ thống xử lý chất thải hợp lý, đúng kỹ thuật, thường xuyên vệ sinh, khử trùng chuồng trại sau mỗi lứa để tiêu diệt mầm bệnh trong chuồng, đồng thời kết hợp với cán bộ thú y xã thường xuyên kiểm tra tình hình dịch bệnh và tiêm phòng cho đàn gà để sớm phát hiện mầm dịch bệnh và giải quyết kịp thời có hiệu quả tạo thế chủ động cho người chăn nuôi và họ sẽ an tâm hơn. PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Chăn nuôi gà có vai trò khá quan trọng nó cung cấp thực phẩm cho con người, tạo điều kiện phát triển các ngành liên quan như: trồng trọt, chăn nuôi, các ngành công nghiệp chế biến… Ngoài ra, chăn nuôi gà xa khu dân cư góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân, đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH. Phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. So với nhiều quốc gia trên thế giới thì Việt Nam chủ yếu là chăn nuôi tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa có hệ thống giết mổ tập trung, còn hạn chế trong việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, chưa thực hiện tốt công tác vệ sinh an toàn sinh học, tiêm vắcxin phòng bệnh… Chăn nuôi gia súc, gia cầm Việt Nam đang có hướng chuyển dịch mới theo hướng tập trung sản xuất hàng hóa. Một số nơi trong cả nước đã đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư như: Xã Thanh Bình – huyện Chương Mỹ, xã Tân Ước- huyện Thanh Oai, huyện Thống Nhất - tỉnh Đồng Nai đã đạt được hiệu quả về kinh tế, môi trường và xã hội. Đây là cơ hội tốt cho Đông Anh học hỏi kinh nghiệm và phát triển chăn nuôi gà xa khu dân cư. Đề tài đã dần trả lời những câu hỏi đưa ra ở tính cấp thiết. Thực trạng mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở xã Uy nỗ hiện nay đang hoạt động mang tính tự phát, chưa có quy hoạch tổng thể nào để các hộ tập trung thành vùng hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau, chưa có sự liên kết với các doanh nghiệp về đầu vào cũng như đầu ra để phát triển theo xu hướng mà đề án chăn nuôi tập trung xa khu dân cư của UBND thành phố Hà Nội đưa ra. Mặc dù tự phát nhưng nó đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho hộ nông dân, góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội địa phương, đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Đề tài chỉ ra được những nhân tố ảnh hưởng đến mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư. Ngoài phương hướng sản xuất kinh doanh của hộ thì còn rất nhiều yếu tố khác như đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, yếu tố tâm lý cũng như tư duy của cán bộ chính quyền địa phương, tất cả những yếu tố đó đã tác động tới kết quả và hiệu quả của mô hình chăn nuôi gà trên địa bàn xã. Đồng thời đề tài đã làm sáng tỏ những thuận lợi khó khăn chăn nuôi gà xa khu dân cư, từ đó đề xuất những định hướng cho việc phát triển mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư trên địa bàn xã. UBND xã cùng các hộ nông dân cần có sự phối hợp chặt chẽ trong sự phát triển chung của kinh tế địa phương. Cần nắm bắt những cơ hội và những thuận lợi cũng như có chính sách cụ thể khắc phục những khó khăn để tìm ra hướng đi chung trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó, đề tài so sánh thực tế mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư tự phát ở Uy Nỗ với những điều kiện mà đề án đặt ra. Những mô hình tự phát này hầu hết mới chỉ đáp ứng được về diện tích, còn các điều kiện về quy mô đầu con, hệ thống chuồng trại và xử lý chất thải, đặc biệt sự hình thành vùng chăn nuôi với quy mô tập trung thì chưa đáp ứng điều kiện mà đề án đưa ra. Đây chính là những nguyên nhân làm cho hiệu quả mô hình không đạt được như mong đợi, tình trạng manh mún tự phát này kéo dài thì nền nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng khó có thể phát triển bền vững. Do vậy, trong thời gian tới các cấp chính quyền cần có những chính sách cụ thể, thiết thực hơn nữa để phối hợp cùng các hộ nông dân tìm ra hướng đi phù hợp trong việc phát triển và nhân rộng mô hình, đảm bảo sự phát triển bền vững của kinh tế địa phương. 5.2 Đề xuất Đối với nhà nước và chính quyền các cấp cần: Có một chính sách quy hoạch tổng thể cho những hộ có nhu cầu chuyển chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư. Các cơ quan cấp trên cần có những định hướng, chính sách đúng đắn, phù hợp trong việc thủ tục cấp giấy sử dụng đất, dồn điền đổi thửa, quy hoạch hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ trong việc chuyển đổi ruộng đất nhằm xây dựng khu chăn nuôi tập trung ra xa khu dân cư. Có nhiều hỗ trợ về vốn bằng việc hỗ trợ lãi suất tiền vay, quỹ khuyến nông... Tăng cường liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm bằn, trong mua thức ăn, chế biến, thuốc thú y, phòng trừ dịch bệnh... Tăng cường hơn nữa những lớp tập huấn cho nông dân về kỹ thuật chăn nuôi và phòng trừ dịch bệnh... Thường xuyên tổ chức các hội thảo, diễn đàn giữa nhà khoa học với người sản xuất và người chế biến, tiêu thụ... Công tác thú y cần được quan tâm thường xuyên, mạng lưới thú y cơ sở, ban thú y các xã, phường, thị trấn cần được củng cố, đi vào hoạt động và được hưởng phụ cấp từ ngân sách tỉnh. Có biện pháp quản lý tốt đàn giống, thực hiện nghiêm chỉnh quy trình phòng trừ dịch bệnh đảm bảo chất lượng an toàn cho đàn gia cầm. Khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất theo hướng hàng hóa. Đối với các hộ chăn nuôi: Các hộ cần nhận thức đúng đắn vai trò của mô hình chăn nuôi tập trung xa khu dân cư trong việc phát triển một ngành chăn nuôi bền vững, mang lại thu nhập ngày càng cao mà đề án của UBND thành phố Hà Nội đưa ra. Đồng thời thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo các cấp. Cần chủ động trong lĩnh vực tìm kiếm thị trường, chủ động liên kết với các hộ chăn nuôi gà khác trong xã và các xã lân cận thành lập hôi chăn nuôi giúp đỡ nhau trong vấn đề kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, mua đầu vào và đặc biệt là chủ động trong việc tiêm phòng chống dịch bệnh cho đàn gà. Mặt khác các hộ chăn nuôi gà cần có kế hoạch chăn nuôi cụ thể phù hợp với nhu cầu của thị trường hạn chế mức thấp nhất trường hợp mở rộng quy mô chăn nuôi không tính toán làm cung vượt quá cầu dẫn dến bị động trong vấn đề tiêu thụ. Có kế hoạch chăn nuôi kết hợp với trồng cây ăn quả, nuôi cá để giải quyết tốt vấn đề chất thải chăn nuôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách và giáo trình Phạm Văn Hùng, 2008, Bài giảng phương pháp nghiên cứu kinh tế. Đỗ Văn Viện, 2005, Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp NXB Nông Nghiệp – Hà Nội Trần Hữu Cường, 2008, Giáo trình giá cả thị trường, NXB Nông Nghiệp – Hà Nội Đỗ Thị Ngà Thanh, Ngô Nhuận (1997), giáo trình thống kê nông nghiệp, NXB nông nghiệp. Hiệp hội chăn nuôi gia cầm Việt nam (2007), sổ tay chăn nuôi gia cầm bền vững, NXB nông nghiệp Hà Nội. Chi cục thú y Hà Nội(2005), nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm đưa chăn nuôi gia cầm khỏi khu dân cư theo hình thức kinh tế trang trại Hà Nội TS Trần Xuân Công- Chủ tịch hiệp hội chăn nuôi gia cầm VN(2007) sản xuất và tiêu thụ gia cầm ở VN trước và sau khi gia nhập WTO, báo cáo tại hội nghị chăn nuôi gia cầm quốc tế tại viện chăn nuôi 14-03-2007 II. Đề án và luận văn Đề án chuyển chăn nuôi ra ngoài khu dân cư và triển khai làm điểm tại 4 huyện ngoại thành, trong đó có Đông Anh. Luận văn thạc sỹ nông nghiệp Trần Thị Giỏi (số định danh:636002, đăng ký cá biệt 2009, Nghiên cứu các hệ thống chăn nuôi ở Đông Anh- Hà Nội. Luận văn tiến sỹ kinh tế Nguyễn Văn Cường (số định danh: 3381 nghiên cứu 2008, đăng ký cá biệt 2009 CH 1937),Nghiên cứu việc đưa chăn nuôi gà tách khỏi khu III. Một số địa chỉ khác Lê Hồng Mận, Nguyễn Thanh Sơn. 2001. Kỹ thuật nuôi gà ri và gà ripha. www.vcn.vn/print preview.aspx?ID = 3457. trung-chua-an-cu-kho-lac-nghiep.html DANH SÁCH NHÓM Đặng Thị Bé Quách Thị Hoa Vũ Thi Lý Lê Thị Nga Lê Thị Thanh Nga Nguyễn Đình Ninh LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài, ngoài sự nỗ lực của mỗi thành viên trong nhóm nghiên cứu. Chúng tôi nhận được sự giúp đỡ của ThS. Nguyễn Minh Đức và KS. Nguyễn Thị Thiêm và các thầy cô Khoa kinh tế và phát triển nông thôn; Khoa kế toán và quản trị kinh doanh trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội. Qua đây chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới các thầy cô Khoa kinh tế và phát triển nông thôn; Khoa kế toán và quản trị kinh doanh; đặc biệt là ThS. Nguyễn Minh Đức và KS. Nguyễn Thị Thiêm đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tới UBND huyện Đông Anh; UBND xã Uy Nỗ cùng với sự hợp tác nhiệt tình của các hộ nông dân trên địa bàn xã Uy Nỗ và một vài xã lân cận đã giúp chúng tôi thực hiện xong đề tài. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu. Do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm nghiên cứu rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô cùng sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2010 (Thay mặt nhóm tác giả) Trưởng nhóm Lê Thị Nga MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Sử dụng đất đai của xã Uy Nỗ trong 3 năm (2007-2009) 17 Bảng 3.2 Dân số, lao động của xã năm 2007 - 2009 19 Bảng 3.3 kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2007-2009 20 Bảng 4.1 Cơ cấu đàn gia cầm huyện Đông Anh 26 Bảng 4.2 Kết quả đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư của huyện Đông Anh 28 Bảng 4.3 Cơ cấu đàn gia cầm của xã Uy Nỗ năm 2007 - 2009 30 Bảng 4.4 Giá trị ngành chăn nuôi gia cầm xã Uy Nỗ năm 2007 – 2009 31 Bảng 4.5 Quy mô của các hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư xã Uy Nỗ 32 Bảng 4.6 Chất thải từ chăn nuôi gà trong khu dân cư của xã Uy Nỗ 34 Bảng 4.7 Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra 36 Bảng 4.8 Quy mô chăn nuôi của các hộ điều tra 37 Bảng 4.9 Đầu vào chăn nuôi gà của nhóm hộ điều tra 39 Bảng 4.10 Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các hộ chăn nuôi gà 41 Bảng 4.11 Kết quả chăn nuôi gà bình quân của nhóm hộ điều tra 42 Bảng 4.12 Hiệu quả chăn nuôi gà bình quân của nhóm hộ điều tra năm 2009 45 Bảng 4.13 Hướng chăn nuôi của các hộ điều tra 47 Bảng 4.14 Quỹ đất bình quân của các hộ điều tra 48 Bảng 4.15 Vốn cho chăn nuôi gà bình quân của nhóm hộ điều tra 50 Bảng 4.16 Cơ sở vật chất của các hộ điều tra 52 Bảng 4.17 Lý do đưa chăn nuôi gà ra xa khu dân cư của các hộ điều tra 61 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung 1 UBND Uỷ ban nhân dân 2 NN-PTNT Nông nghiệp- Phát triển nông thôn 3 HTX Hợp tác xã 4 CNGC Chăn nuôi gia cầm 5 KDC Khu dân cư 6 BQ Bình quân 7 CN Chăn nuôi 8 CNH Công nghiệp hóa 9 HĐH Hiện đại hóa 10 SL Số lượng 11 CC Cơ cấu 12 DT Diện tích 13 ĐVT Đơn vị tính 14 EU Liên minh Châu Âu 15 WTO Tổ chức thương mại thế giới 16 GDP Tổng sản phẩm nội địa 17 TS Tài sản 18 LĐ Lao động TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tên đề tài: “ Tìm hiểu mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội” Mã số: 01 Chủ nhiệm đề tài: Lê Thị Nga Tell: 01682192390 E – mail: lethingaktak52@gmail.com Cơ quan chủ trì đề tài : Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội Cơ quan và cá nhân phối hợp thực hiện  Cơ quan phối hợp thực hiện : Khoa Kinh tế &PTNT Cá nhân: Đặng Thị Bé Quách Thị Hoa Vũ Thị Lý Lê Thị Nga Lê Thị Thanh Nga Nguyễn Đình Ninh Thời gian thực hiện: từ ngày 01/03/2010 đến 30/10/2010 1. Mục tiêu: Tìm hiểu mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư trên địa bàn xã Uy Nỗ - huyện Đông Anh - Hà Nội, từ đó tìm ra những khuyến nghị góp phần thúc đẩy, nhân rộng mô hình nuôi gà xa khu dân cư. 2. Nội dung chính: TÓM TẮT Chăn nuôi gà đóng một vai trò quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng chăn nuôi gà trong gia đình đang một phần làm ảnh hưởng đến môi trường sống cũng như sức khỏe con người. Để giảm thiểu dịch bệnh, hạn chế ô nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả chăn nuôi thì việc đưa chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn nuôi gà nói riêng ra ngoài khu dân cư đang là hướng đi đúng đắn và cần thiết. Từ năm 2002, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã xây dựng đề án chuyển chăn nuôi ra ngoài khu dân cư và triển khai làm điểm tại 4 huyện ngoại thành trong đó Đông Anh là huyện tiêu biểu với tỷ trọng kinh tế từ chăn nuôi đạt 30%. Xã Uy Nỗ thuộc huyện Đông Anh là một xã thuần nông đang có những hướng đi mới trong việc đưa chăn nuôi gia cầm ra khỏi khu dân cư với khoảng 30% số hộ có nguồn thu chính từ nghề chăn nuôi gà. Chúng tôi tiến hành điều tra 40 hộ, trong đó có 30 hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư, 10 hộ chăn nuôi trong khu dân cư với kết quả thu được như sau: Hướng chăn nuôi của các hộ là nuôi gà lấy trứng, gà lấy thịt và chăn nuôi kết hợp. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ chăn nuôi gà lấy trứng là cao nhất. Mặc dù nuôi gà trứng đòi hỏi sự hiểu biết về kỹ thuật và cách chăm sóc cũng như chọn con giống kỹ hơn, có thể gặp rủi ro cao. Chăn nuôi gà ra xa khu dân cư mang lại hiệu quả khá rõ rệt: tỷ lệ gà chết /lứa thấp hơn so với chăn nuôi trong khu dân cư. Thu nhập từ gà và sản phẩm phụ từ gà của người dân tăng lên đáng kể. Ngoài ra tạo công ăn việc làm cho người lao động, đời sống người dân được nâng lên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên, các hộ vẫn gặp rất nhiều khó khăn đó là thiếu thốn cơ sở vật chất như hệ thống xử lý chất thải, các công trình phụ trợ (hố sát trùng, kho đựng thức ăn, phòng thú y, chuồng cách ly); không ổn định về đầu vào, đầu ra; thiếu vốn trong đầu tư quy mô cả diện tích và đầu con; khó khăn về khả năng tích tụ đất đai làm ảnh hưởng tới quá trình đầu tư, tình hình dịch bệnh xảy ra thất thường khiến nhiều hộ rơi vào tình trạng phá sản. Từ thực trạng nêu trên, nhóm nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm phát triển cũng như nhân rộng mô hình bao gồm: cần có một chính sách quy hoạch tổng thể, thực hiện nghiêm chỉnh quy trình phòng trừ dịch bệnh đảm bảo an toàn cho đàn gia cầm; tăng cường liên kết giữa các hộ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; tổ chức nhiều hơn những lớp tập huấn cho nông dân về kỹ thuật chăn nuôi và phòng trừ dịch bệnh; khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất theo hướng hàng hóa; phát triển các cơ chế điều chỉnh để giải quyết các vấn đề tồn tại về sức khỏe và môi trường phát sinh trong quá trình chăn nuôi. Để một hộ có thể xây dựng được một mô hình chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư và hoạt động có hiệu quả thì không phải là một vấn đề đơn giản… Trên thực tế hầu hết các mô hình mang tính chất tự phát, vì vậy một số tiêu chuẩn chưa đạt được như đề án đặt ra. Về quy mô chăn nuôi: Quy mô chăn nuôi gia cầm hợp lý để tách khỏi khu dân cư giai đoạn 2006 – 2010, có quy mô trên 2000 con/hộ; những hộ chăn nuôi gà thịt thương phẩm, gà đẻ trứng thương phẩm có quy mô chăn nuôi thường xuyên trên 1000 con/hộ. Quỹ đất cho chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại: Đề án đề xuất diện tích tối thiểu của một trang trại chăn nuôi gia cầm là 1000m2, được xây dựng tập trung tại một khu đất được quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng. Khoảng cách các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư: Khoảng cách tối thiểu của các trang trại chăn nuôi gia cầm tách khỏi khu dân cư là 500m trở lên Tóm lại, chăn nuôi gà tách khỏi khu dân cư hiện nay đang là hướng đi mới, mang chiều hướng tích cực cho cả nông hộ cũng như môi trường sống. Tuy vậy, để mô hình hoạt động thực sự có hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia của người dân, chính quyền các cấp cũng như các ban ngành liên quan nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn nuôi gà nói riêng phát triển theo hướng sản xuất hiện đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu mô hình chăn nuôi gà xa khu dân cư ở xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội.doc
Luận văn liên quan