Đề tài Tìm hiểu thuế giá trị gia tăng

Cơ quan thuế xác định số tiền thuế thiếu, số tiền phạt; số ngày chậm nộp tiền thuế, tiền phạt chậm nộp tiền thuế và ra quyết định xử phạt đối với người nộp thuế. Giả tạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để hưởng ưu đãi thuế : Biện pháp phòng chống và cách xử lý : - Cách xử lý : đẩy mạnh công tác hậu kiểm để kịp thời phát hiện ra các lô hàng tạm nhập không tái xuất, chuyển sang tiêu thụ nội địa. Tiến hành truy thu số thuế bị thiếu, đồng thời nếu thấy hành vi gian lận có quy mô, lập tức chuyển sang cơ quan Công an để điều tra về hành vi trốn thuế. - Phòng chống : o Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập tái xuất. o Các cơ quan chức năng cùng phối hợp với Tổng Cục có cơ chế phân loại, đánh giá doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất thường xuyên. Trên cơ sở kết quả phân loại, chỉ cho phép những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật Hải quan, pháp luật thuế,. được hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất. o Cơ quan có thẩm quyền cần thường xuyên rà soát, ban hành bổ sung danh mục hàng hóa cấm hoặc hạn chế kinh doanh tạm nhập tái xuất phù hợp với từng thời kỳ. Theo đó, một số mặt hàng như mặt hàng nhạy cảm, hàng có thuế suất cao, hàng có nguy cơ về vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường không cho thực hiện việc kinh doanh theo loại hình này. o Các doanh nghiệp kinh doanh, vận tải loại hình này phải thực hiện việc giám sát hàng hóa bằng hệ thống định vị vệ tinh (GPS) để đảm bảo theo dõi.

docx68 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp đồng cung cấp dịch vụ khống và xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực hiện ở cả DN “ma” và cả ở các DN đang hoạt động kinh doanh bình thường. 1.3.Tạo giao dịch mua hàng giả mạo Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao động không có thật; có trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự không làm việc cho DN đó) và thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh doanh khác. Bằng hành vi này, DN không chỉ trốn thuế thu nhập DN mà còn trốn cả thuế GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những hóa đơn đi mua, để phát hiện, cơ quan thuế phải làm tốt công tác đối chiếu, xác minh. Thực tế thời gian qua, thông qua công tác đối chiếu hóa đơn, cơ quan thuế các địa phương đã phát hiện khá nhiều trường hợp gian lận. Năm 2012, Cục Thuế Hà Nội đã gửi 10.200 phiếu xác minh hóa đơn, gồm 28.444 số; kết quả trả lời xác minh 7.570 phiếu, chiếm 74,21% số phiếu gửi đi. Qua xác minh hóa đơn và thanh tra, kiểm tra, phát hiện 786 hóa đơn vi phạm, truy thu thuế GTGT là 1.198 triệu đồng, thuế thu nhập DN là 1.658 triệu đồng và xử phạt hành vi trốn thuế 646 triệu đồng, xử phạt hành chính 369 triệu đồng”. Tuy nhiên, với công nghệ đối chiếu hóa đơn thủ công như hiện nay thì hiệu quả còn rất thấp, bởi vì tỷ lệ hóa đơn có thể đối chiếu so với số hóa đơn cần đối chiếu là quá nhỏ.Hơn nữa, trong trường hợp DN bán hóa đơn sử dụng hóa đơn của những khách hàng không lấy để bán cho những người có nhu cầu mua hóa đơn thì việc đối chiếu cũng không đem lại kết quả. Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ đoạn thành lập DN “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. DN “ma” là DN được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn trôi nổi này gây ra là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số chi phí đầu vào cần hợp thức hóa của doanh nghiệp mua bán hóa đơn. Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có hệ thống, tuy nhiên có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các DN “ma” thường thành lập dưới dạng công ty TNHH hay DN tư nhân; chủ DN thường là người có hộ khẩu thường trú ở địa phương khác đến đăng ký thành lập DN, hạn chế về trình độ học vấn, không am hiểu pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn ngắn, trụ sở chật hẹp, tài sản không tương xứng với mô hình tối thiểu của một DN bình thường; đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương mại, dịch vụ tổng hợp, những ngành nghề không cần phải đăng ký vốn pháp định và không bắt buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế thấp, thậm chí có thuế GTGT phải nộp âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn thuế… 1.4.Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế Nếu DN sản xuất cung ứng hàng cho DN thương mại thì lý do chính xảy ra gian lận trong khâu bán hàng xuất phát từ DN thương mại. Bởi các DN thương mại chủ yếu là phân phối hàng đến các đại lý rồi đến tay người tiêu dùng, và người tiêu dùng không cần hoá đơn chứng từ, nên kế toán dễ dàng không viết hoá đơn hoặc viết hoá đơn nhưng giá bán chỉ bằng giá vốn hoặc giá bán lớn hơn giá trên hoá đơn. Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi này thường gặp ở các DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số thu ngân sách hàng năm. Để chống hành vi “down” giá ô tô và xe máy, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 71/2010/ TT-BTC hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô, xe hai bánh gắn máy ghi giá bán ô tô, xe hai bánh gắn máy trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan thuế đấu tranh ngăn chặn tình trạng “down” giá nhằm trốn thuế ở hai mặt hàng này. Tuy vậy, còn một số lĩnh vực khác chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu. Ví dụ: Anh A mua một chiếc xe máy trị giá có cả thuế GTGT 10% là 19.000.000 đ. Nếu trên hoá đơn ghi giá 15.000.000 đ thì anh A sẽ nộp lệ phí trước bạ ít hơn, còn người bán hàng giảm được cả thuế GTGT đầu ra và thuế TNDN. Như vậy, với những mặt hàng bán cho người tiêu dùng mà người tiêu dùng phải nộp phí trước bạ thì Nhà nước nên nới rộng khung đóng phí trước bạ để tránh gian lận thuế từ phía người tiêu dùng và các DN thông qua xê dịch về giá.Đồng thời, Nhà nước nên có chính sách để khuyến khích người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng. 1.5.Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che giấu doanh thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế thu nhập DN và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng.Khi bị kiểm tra phát hiện, cán bộ kế toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh bị phạt vì hành vi trốn thuế. Kế toán có thể hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. Kế toán có thể hạch toán sai tài khoản kế toán để che giấu doanh thu. Chẳng hạn, khi phát sinh doanh thu bán hàng, lẽ ra phải hạch toán vào tài khoản 511 thì kế toán lại hạch toán vào các tài khoản kế toán khác, như hạch toán vào tài khoản 338, 138... Một số DN nhượng bán, trao đổi vật tư không ghi nhận doanh thu mà chỉ hạch toán thay đổi cơ cấu tài sản lưu động bằng các bút toán nhập, xuất, thu, chi hoặc công nợ phải thu, phải trả; bán phế liệu không xuất hóa đơn, không ghi nhận doanh thu hoặc hạch toán giảm chi phí sản xuất. Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: hạch toán toàn bộ chi phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu hao tài sản cố định phúc lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết thời gian khấu hao vẫn trích khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi từ thiện, các khoản chi thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu dùng cá nhân của chủ DN... Hành vi gian lận này chỉ có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy trong đánh giá báo tài chính của DN. 2.Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian lận về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận. Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng và có diễn biến phức tạp với các phương thức, thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất cập trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng... Trong đó, phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc nợ thuế để trốn thuế. Cụ thể như sau: 2.1.Buôn lậu Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoáhoặc ngoại tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm có giá trị lịch sử, văn hoá, mà nhà nước cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán hàng hoá nói chung qua biên giới mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của hải quan ( Hoạt động kinh tế ngầm) Thời gian qua, việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, khó kiểm soát Hàng cấm Lợi dụng loại hình tái nhập tái xuất để buôn lậu hang cấm.Từ đầu năm 2013 đến nay, tình hình hoạt động buôn lậu vẫn diễn biến phức tạp, nổi cộm là các vụ vi phạm về ma túy, vũ khí, xăng dầu, quặng, gần đây là buôn lậu ngà voi, sung đạn ( sử dụng hình thức ngụy trang rất tinh vi bằng cách tháo dời cất giấu không phát hiện ra: Ví dụ như nhập lậu sung từ Trung Quốc, Thái Lan qua đường hang không) lợi dụng khu kinh tế cửa khẩu, hàng tạm nhập - tái xuất. Các đối tượng buôn lậu hang cấm nhưng lại khai trá hình dưới một loại hàng hóa khác để được miễn thuế VAT bằng phương thức làm giả chứng từ ngoại thương, cấu kết bàn bạc với nhau để gian lận qua các khâu nhằm qua mắt các cơ quan kiểm tra Hàng hóa nói chung : Các địa bàn trọng điểm là khu vực Móng Cái - Quảng Ninh, cửa khẩu Hữu Nghị Tân Thanh - Lạng Sơn, Tà Lùng - Cao Bằng... Vi phạm tập trung ở nhóm hàng tiêu dùng như thuốc lá, nước giải khát, mỹ phẩm, quần áo, thực phẩm, đường, gia súc, gia cầm, đồ điện tử... Sau khi nhập lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua qua bán lại giữa các DN. Đặc biệt là nhập lậu thuốc lá cũng diễn ra rất thường xuyên, quần áo nhập lậu từ Trung Quốc về.Tại các tỉnh Hà Tĩnh, Đồng Tháp, An Giang... hiện tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép mặt hàng đường kết tinh cũng diễn biến phức tạp. Tận dụng thời cơ này, các đối tượng buôn lậu đã dùng thủ đoạn thay đổi bao bì, nhãn mác đường kính lậu thành đường Việt Nam, sau đó dùng xe gắn máy, ôtô tải vận chuyển vào nội địa tiêu thụ. Nhiều đối tượng lợi dụng việc mua lại hàng hóa của cư dân biên giới thuộc diện được hưởng ưu đãi để trộn hàng nhập lậu vào hàng có hóa đơn nên việc kiểm soát, phát hiện rất khó khăn.Ngoài ra , gần đây cũng có hiện tượng nhập lậu Gà, chó ,trâu bò, thủy sản từ biên giới, cửa khẩu vào Việt Nam không qua kiểm dịch,số lượng lớn. Các vụ việc này càng ngày càng phức tạp.. Tổng cục Hải quan cho thấy, chỉ riêng quý III/2012, toàn ngành đã phát hiện, bắt giữ, xử lý 5.772 vụ việc vi phạm; trị giá hàng hóa ước tính 77,702 tỷ đồng.Tính đến hết tháng 6/2013, toàn ngành Hải quan đã phát hiện, bắt giữ hơn 11.000 vụ việc vi phạm, trị giá hàng hóa ước tính 147 tỷ đồng, thu nộp ngân sách hơn 75 tỷ đồng, ra quyết định khởi tố 10 vụ..Chỉ sau 1 năm, số vụ và trị giá hàng hóa ước tính tăng gấp 2 lần. 2.2. Khai sai chủng loại hàng hoá Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi nguồn lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi trong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế hàng hóa khi có nghi vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại, khai báo và áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục hải quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không phải nộp thuế, gian lận thuế Hình thức Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp. Chủ yếu là khai sai mã số hàng từ mã hàng có thuế suất cao sang mã hàng có thuế suất thấp. Nhiều trường hợp, người nộp thuế lợi dụng sự phức tạp của các hàng hóa là các hỗn hợp, các hóa chất khó phân biệt, xác định bằng cảm quan để khai theo hướng có lợi cho mình. Trên thực tế, khi khai báo mã hàng (mã số thuế) cho hàng hóa các doanh nghiệp luôn cố gắng tìm cách áp mã cho mặt hàng ở mức thuế suất thấp nhất bằng các cách: khai sai lệch đi tên hàng hóa, mô tả khác đi từ chức năng chính chuyển sang chức năng phụ, hay tách từ hàng đồng bộ thành hàng không đồng bộ… Tuy nhiên, việc phân loại hàng hóa là vô cùng phức tạp và gặp nhiều khó khăn, ngay cả kết quả phân tích phân loại do trung tâm phân tích phân loại hay cơ quan tổ chức giám định có chức năng giám định phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước để làm cơ sở xác định mã số hàng hóa nhiều khi cũng còn nhiều tranh cãi dẫn đến tình trạng kiện cáo giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan. Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu các hang hóa có thuế suất cao như ô tô, rượu..từ nước ngoài về đã khai sai tên hang hóa sang loại hang hóa khác có thuế suất 0% ví dụ như mặt hang ô tô , thiết bị điện tử khai sang là mặt hang hạt nhựa (thuế suất 0%), hay nhập ô tô hạng sang như BMW X6, một BMW 750 Li. Lô xe sang này được nhập từ Mỹ về và khai báo hải quan là nhôm cuộn nhập khẩu…Các doanh nghiệp lợi dụng những mặt hang có thuế suất thấp để khi khai thay thế cho những hang hóa của mình để có thể gian lận tiền thuế VAT của nhà nước. Ngày 13 và 18-9-2013, Công ty TNHH MTV giao nhận vận tải và thương mại quốc tế Quốc Huy Anh (quận 12, TPHCM) đã đến Chi cục HQ 4 làm thủ tục hải quan, doanh nghiệp khai báo lô hàng gồm chín container cao su thiên nhiên sơ chế xuất khẩu đi Đài Loan, thuế xuất khẩu 0%.Nhưng thực tế, kết quả phát hiện toàn bộ chín container là phế liệu thép không gỉ, với trọng lượng khoảng 200 tấn. Mặt hàng phế liệu thép không gỉ xuất khẩu có mức thuế suất 15%, nên doanh nghiệp nêu trên đã cố tình khai báo sai tên hàng xuất khẩu để trốn thuế.. Nếu doanh nghiệp khai lô hàng là thép không gỉ, với mức thuế suất 15%, doanh nghiệp phải đóng trên 500 triệu đồng tiền thuế (nếu lấy giá 1.100 USD/tấn), còn nếu khai cao su doanh nghiệp không phải đóng đồng nào. 2.3.Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận về ưu đãi tối huệ quốc (Chế độ tối huệ quốc đòi hỏi một quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả các quốc gia đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau ) hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Khái niệm “C/O” có tính pháp lý được quy định lần đầu tiên tại Thông tư liên bộ số 280/TTLB/BTM-TCHQ ngày 29-11-1995 giữa Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan. Theo đó, C/O là văn bản có tính pháp lý, do cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận xuất xứ cho một lô hàng nhập khẩu nhằm thực hiện chế độ ưu đãi về thuế quan giữa các nước, các tổ chức để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt. Một trong những chiêu thức phổ biến của DN là gian lận thương mại (GLTM) thông qua giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), do khi có chứng thư C/O, DN sẽ được miễn hoặc giảm thuế, mức ưu đãi có khi lên đến 100% - 200%. Vì vậy, nhiều đối tượng đã tìm mọi thủ đoạn để gian lận C/O theo nhiều cấp độ. Những mặt hang dễ bị gian lận, thong thường là những mặt hang của các nước láng giếng Việt Nam bị những thị trường lớn như EU, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ… áp thuế chống bán phá giá hoặc các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Các thủ đoạn gian lận ngày càng tinh vi hơn.Khi tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN, các DN được hưởng mức thuế suất ưu đãi theo các thỏa thuận thương mại đã được ký kết. Đây chính là điều kiện để những loại hàng hóa gian lận C/O trong khu vực gia tăng.Hàng năm cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) đều phát hiện nhiều lô hàng làm giả C/O. Khi gian lận C/O, mức thuế suất của DN sẽ được giảm mạnh.Thủ thuật gian lận được thể hiện dưới nhiều hình thức. Thí dụ DN dùng hình thức đạo giá để gian lận về giá tính thuế hoặc cố ý cung cấp thông tin sai về mã số thuế, sai tên nước xuất xứ vào tờ khai hải quan hoặc khai gian số lượng hàng hóa thực tế trên hợp đồng thương mại. Một số DN khác sử dụng thủ thuật sửa chữa các chứng từ, hóa đơn và bảng kê nộp cho cơ quan hải quan. Nếu bị phát hiện, DN sẽ tiếp tục sửa đổi, thay thế hoặc bổ sung những chứng từ đã sửa chữa. Nhiều chủ hàng còn sử dụng hình thức quá cảnh hàng hóa tại một nước trung gian nhằm thay đổi xuất xứ, nguồn gốc hàng hóa theo nước quá cảnh nhằm tránh những quy định hạn chế về hạn ngạch và được hưởng các ưu đãi. Nhiều đơn vị nhập khẩu còn sử dụng hàng hóa xuất xứ từ hai nước khác nhau để lẫn vào nhau nhằm giấu xuất xứ thực của hàng hóa khi làm thủ tục xuất nhập khẩu. Ngoài ra, còn có DN tự tạo những mẫu giấy chứng nhận gần giống với C/O thật, thậm chí giả mạo chữ ký của cán bộ có thẩm quyền cấp C/O. 2.4.Gian lận giá tính thuế Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế là hành vi rất phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng thực hiện dưới các hình thức sau: Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao, chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, những mặt hàng hay biến động về giá. Thứ hai, chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế, sau đó khai báo thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã nhập khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy định về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn so với trị giá giao dịch thực tế. Thứ ba, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để thăm dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, chủ hàng đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh. Thứ tư, do theo chính sách thuế đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc nên DN thực hiện việc “down” giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Điều này được thực hiện qua việc chủ hàng thành lập nhiều công ty khác nhau hoặc tiến hành móc nối với nhiều công ty để mỗi công ty tiến hành nhập khẩu một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau trong nhiều thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan. Hiện nay, thuế nhập khẩu linh kiện ôtô dạng CKD là 25% so với thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc 100%, thuế tiêu thụ đặc biệt xe lắp ráp trong nước chỉ có 5% , so với xe nhập khẩu là 100%...Vậy nên các doanh nghiệp hay lựa chọn hình thức tháo rời các bộ phận cu axe nhập khẩu về để hương thuế suất thấp hơn sau đó lắp ráp lại. Tuy nhiên làm như vậy thì chất lượng của xe không còn được như cũ nữa. Ngoài ra, còn thực hiện rất nhiều hình thức khác nhau để gian lận down giá như lập ra các công ty ma.. Điều đáng quan tâm hiện nay là lợi dụng chính sách của Nhà nước trong việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, hình thức gian lận qua giá để trốn thuế ngày càng có nhiều DN sử dụng bằng cách khai không đúng thuế suất, chủng loại, giá trị đối với hàng hóa nhập khẩu (NK)... và chủ yếu diễn ra ở những mặt hàng có thuế suất cao như ô-tô, xe máy, linh kiện điện tử, máy móc, hàng tiêu dùng... Thứ năm, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng hoặc các khoản thanh toán gián tiếp để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. Thứ sáu, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài… Việc chuyển giá chỉ xảy ra khi giữa các đơn vị, doanh nghiệp có liên kết về kinh tế như các công ty mẹ, công ty con hoặc các đơn vị liên doanh, liên kết với nhau. Việc chuyển giá sẽ được thực hiện thông qua hệ thống xây dựng giá, có thể giá bán thấp hơn hoặc cao hơn để thông qua đó tránh thuế, chuyển thuế đến nơi có chính sách thuế thấp hơn. Khi giá bán ra nước ngoài thấp hơn, đồng nghĩa với giá đầu vào tại nước ngoài sẽ thấp hơn, lãi ở nước ngoài nhưng lỗ tại Việt Nam sẽ diễn ra Tình trạng nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ kéo dài liên tục trong nhiều năm, trong khi tốc độ tăng doanh thu hàng năm vẫn cao, hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục được mở rộng, thậm chí nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có số lỗ vượt quá vốn chủ sở . Vấn đề nổi cộm được nhắc tới là dấu hiệu chuyển giá trong giao dịch, liên kết. Theo Tổng cục Hải Quan, trong quá trình triển khai thực hiện quy định của Chính phủ về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), đã phát hiện nhiều trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt là mặt hàng ôtô xe máy) khai báo trị giá tính thuế nhập khẩu rất thấp để trốn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng (VAT) nhập khẩu. Chẳng hạn như hóa đơn VAT bán hàng của xe Toyota Landcruiser Prado dung tích 4.0 doanh nghiệp xuất trình là trên 1,096 tỷ đồng trong khi đó giá bán thực tế của chiếc xe này trên thị trường là từ 1,65 tỷ đến 1,7 tỷ đồng. Như vậy, các doanh nghiệp này vừa khai báo giá trị nhập khẩu thấp đối với cơ quan hải quan để trốn thuế nhập khẩu và thuế VAT khâu nhập khẩu đồng thời vừa khai báo giá rất thấp trên thị trường nội địa cùng hàng hóa nhập khẩu với cơ quan thuế để trốn thuế VAT trong nội địa và thuế thu nhập doanh nghiệp. 2.5.Giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận thuế thường là các chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến là gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách quản lý đối với hàng gia công; gian lận thông qua việc lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập... Điển hình nhất là vụ buôn lậu xăng A92 lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất, trị giá ước tính 27 tỷ đồng tại vùng biển Thanh Hoá vào tháng 7/2012; hành vi buôn lậu của Công ty TNHH một thành viên xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) dưới hình thức lợi dụng tạm nhập tái xuất xăng dầu qua cửa khẩu đường bộ để buôn lậu 296,6 tấn xăng A92, trị giá khoảng 8 tỷ đồng, số thuế DN gian lận ước tính 2,5 tỷ đồng. Cũng theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500 ôtô nhập vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng đến nay chỉ có 100 chiếc làm thủ tục xuất và nhập trở lại. Nghĩa là còn 400 chiếc không làm thủ tục xuất và nhập trở lại mà lưu hành trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho Nhà nước. Nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để gian lận thuế; lợi dụng chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó tẩu tán bán hàng và bỏ trốn khỏi trụ sở kinh doanh mà không làm thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế Ví dụ chung: Sốt ruột với DN cà phê ôm thuế VAT bỏ trốn Ngay từ cuối niên vụ 2011-2012, hiện tượng nhiều DN ôm tiền thuế giá trị gia tăng (VAT) bỏ trốn đã được cảnh báo.Tuy nhiên, suốt một năm qua việc ngăn chặn hiện tượng kinh doanh trái pháp luật này chưa được xử lý triệt để. Mánh khóe chiếm dụng thuế VAT cũng không có gì phức tạp. Theo cách thức kinh doanh bình thường, các DN xuất khẩu (XK) cà phê khi mua nguyên liệu từ các đại lý hoặc DN khác sẽ mua theo giá thị trường, đồng thời trả trước cho bên bán 5% thuế VAT nếu bên bán xuất hóa đơn cho họ. Chẳng hạn, giá cà phê thị trường là 40.000 đồng/kg, khi mua hàng các DN XK sẽ phải trả cho bên bán bao gồm cả 5% thuế VAT là 42.000 đồng/kg. Số thuế VAT này sau khi thu được từ bên mua, bên bán sẽ phải nộp lại cho cơ quan thuế để cơ quan thuế hoàn lại cho DN XK theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mánh khóe xảy ra bắt đầu từ khâu thu mua nguyên liệu. Do hiện nay hầu hết các DN XK cà phê đều phải mua hàng thông qua nhiều tầng nấc trung gian. Vì thế, trong các tầng nấc trung gian ấy xuất hiện những “DN ma”, mục đích hình thành chỉ là để gom hàng của người dân và đại lý, bán hàng cho DN XK rồi ôm 5% thuế VAT hưởng lợi. Để có được nguồn hàng, các “DN ma” này đẩy giá mua cà phê cao hơn giá thị trường khoảng 1.000 - 1.500 đồng/kg và mua bán với các đại lý nhỏ theo phương thức trả tiền liền, không cần hóa đơn VAT. Song song với việc mua bán không có hóa đơn, các “DN ma” sẽ mua hóa đơn VAT từ các DN ở các địa bàn khác để cân đối đầu vào. Khi bán hàng cho các DN XK, họ sẽ xuất hóa đơn VAT và nhận thêm 5% tiền thuế từ DN XK. Như thế, bản thân các DN ma chỉ mua hàng với giá 41.000 đồng/kg, nhưng họ bán ra 40.000 đồng/kg vẫn có lãi 1.000 đồng/kg, từ phần 2.000 đồng/kg tiền thuế VAT nhận được của DN XK. Giả sử, một DN ma mỗi tháng mua vào được 500 tấn cà phê và bán hết số hàng này cho DN XK thì họ có thể lời 500 triệu đồng từ thuế VAT khi “bỗng dưng biến mất”. Thực trạng, nhiều DN, đại lý kinh doanh cà phê sau một thời gian hoạt động “ôm” vài chục tỷ đồng tiền thuế VAT đã thu của các công ty XK khi bán hàng rồi biến mất, tình trạng này xảy ra khá nhiều ở các tỉnh trồng cà phê trọng điểm như: Đắk Lắk, Lâm Đồng… Thống kê ở tỉnh Đắk Lắk cho thấy, chỉ tính riêng ở khu vực thị xã Buôn Hồ, thời gian qua đã có khoảng 10 công ty TNHH do thương nhân ở địa phương khác đến đăng ký địa chỉ giả rồi tiến hành thu mua cà phê cao hơn giá thị trường khoảng 1.000 - 1.500 đồng/kg để bán lại cho các công ty XK nhằm trục lợi tiền thuế VAT. Số lượng trục lợi của các công ty này cực lớn, chỉ tính 4 trường hợp DN bị phát hiện, doanh số mua hàng đã lên tới hơn 114,7 tỷ đồng. Giải pháp và phương án xử lí đối với hành vi gian lận thuế Thời gian qua, nhà nước đã có chỉ thị số: 1007/CT-TCHQ về việc tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại & chống thất thu thuế. Cụ thể, Trong thời gian qua tình hình buôn lậu, gian lận thương mại có nhiều diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều phương thức, thủ đoạn và hình thức gian lận, xảy ra tại hầu hết các khâu, các lĩnh vực trong quá trình làm thủ tục Hải quan cụ thể như: Khai báo không đúng tên hàng, khai báo nhiều chủng loại hàng hóa với một tên hàng để áp mã có mức thuế suất thấp; làm giả C/O để được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt; khai báo không đúng trị giá thực thanh toán để gian lận trị trí; bán nguyên phụ liệu, thành phẩm ra thị trường nội địa đối với loại hình nhập khẩu đầu tư gia công, sản xuất – xuất khẩu để trốn thuế với số lượng lớn, xuất hiện tình trạng doanh nghiệp bỏ trốn khi nợ thuế ngân sách nhà nước; tình hình trên đã một phần ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách xuất nhập khẩu của nhà nước. Để khắc phục tình trạng trên, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về các giải pháp kiềm chế lạm phát, nhập siêu; kiểm soát tăng giá, tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại qua thuế, giá, chống nợ đọng, Tổng cục trưởng yêu cầu thủ trưởng các đơn vị trong ngành thực hiện tốt những việc sau đây: 1. Đối với Cục trưởng các Cục Hải quan tỉnh, thành phố: a) Quán triệt tư tưởng cho toàn thể cán bộ công chức trong đơn vị về tình hình phát triển kinh tế xã hội, những khó khăn, thách thức do sự biến động, ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới, trách nhiệm và nghĩa vụ của ngành Hải quan đối với sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, cần phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao ý thức và hành động của mỗi cán bộ công chức trong thực thi công việc góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành. b) Thường xuyên chỉ đạo và tổ chức kiểm tra việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, quy trình, quy chế của Ngành và các văn bản pháp luật về hải quan tại tất cả các khâu nghiệp vụ, đơn vị nghiệp vụ thuộc phạm vi quản lý. Thực hiện đầy đủ chế độ kiểm tra, báo cáo theo quy định của Ngành. c) Tăng cường công tác chống buôn lậu, chống gian lận thương mại, có biện pháp thu thập thông tin, phân tích xử lý thông tin cho các Chi cục hải quan cửa khẩu. Thực hiện cập nhật thông tin kịp thời bổ sung cho việc thực hiện quản lý rủi ro. d) Tập trung chỉ đạo việc kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại các Chi cục trực thuộc, đặc biệt lưu ý các nội dung sau: - Áp mã số đối với những mặt hàng nhạy cảm, có thuế suất cao, hàng hóa áp mã chưa thống nhất giữa các Chi cục, kiểm tra tính xác thực của C/O và thực tế hàng hóa nhập khẩu đối với các lô hàng được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt. - Tham vấn, xác định trị giá tính thuế đối với các nhóm hàng trọng điểm có thuế suất cao, kim ngạch lớn nhưng trị giá khai báo thấp như mặt hàng: ô tô du lịch, ô tô tải, ô tô bus (bao gồm cả xe cũ và xe mới); xe máy; … - Kiểm tra định mức tiêu hao nguyên liệu thực tế; công tác thanh khoản hợp đồng gia công, sản xuất – xuất khẩu đối với loại hình gia công, sản xuất – xuất khẩu. - Thực hiện phân loại nợ, xử lý, đôn đốc và áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 01/07/2007 theo đúng hướng dẫn của Bộ Tài chính tại công văn số: 17685/BTC-TCHQ ngày 28/12/2007. Kiên quyết không để nợ mới phát sinh đồng thời thực hiện theo đúng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật quản lý thuế. - Khâu quản lý rủi ro: Tăng cường kiểm tra các đối tượng lợi dụng luồng xanh để vi phạm pháp luật về hải quan trên cơ sở thường xuyên nắm thông tin, theo dõi, phân tích các đối tượng hủy tờ khai đã đăng ký với cơ quan Hải quan đồng thời thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra ngẫu nhiên đối với các tờ khai được phân vào luồng xanh, cập nhật thông tin và kết quả kiểm tra để toàn Ngành tham khảo. - Chú trọng khâu kiểm tra phúc tập hồ sơ để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai sót trong khâu thông quan. - Tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan và doanh nghiệp đối với các mặt hàng trọng điểm, mặt hàng có thuế suất cao và doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm thường xuyên xin hủy tờ khai. 2. Đối với Thủ trưởng các Cục, Vụ và đơn vị tương đương thuộc cơ quan Tổng cục: a) Tăng cường chỉ đạo đơn vị, hướng dẫn, kiểm tra các Cục Hải quan tỉnh, thành phố trong việc triển khai các hoạt động nêu tại điểm 1 trên đây. Kịp thời tham mưu, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố. b) Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục Kiểm tra sau thông quan tăng cường công tác thu thập thông tin, nắm tình hình, xây dựng các phương án kiểm tra, kiểm soát để chủ động thực hiện hoặc cung cấp thông tin cho Cục Hải quan tỉnh, thành phố triển khai thực hiện. Kiểm tra, hướng dẫn các Cục Hải quan tỉnh, thành phố thực hiện các quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ của ngành. c) Vụ Giám sát quản lý phối hợp với các đơn vị chức năng để tăng cường kiểm tra công tác phân loại mã số hàng hóa thống nhất giữa các Cục hải quan địa phương trong toàn Ngành. d) Vụ Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu tăng cường kiểm tra công tác tham vấn, xác định trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu. 3. Nghiên cứu, đề xuất tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố khi cần thiết. Tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các Cục Hải quan tỉnh, thành phố với nhau; giữa Cục Hải quan tỉnh, thành phố với các Vụ, Cục chuyên môn thuộc cơ quan Tổng cục để kịp thời phát hiện và xử lý triệt để các trường hợp buôn lậu, gian lận thương mại gây thất thu thuế; thông báo trong toàn Ngành và tổ chức rút kinh nghiệm để có biện pháp kiểm tra phù hợp. 4. Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng dưới các hình thức trao đổi thông tin trong hoạt động kiểm hóa, chống buôn lậu, gian lận thương mại cũng như trong hoạt động tuyên truyền, đào tạo, phổ biến các văn bản pháp luật về Hải quan để nâng cao tính tự giác, tuân thủ pháp luật về Hải quan của doanh nghiệp. 5. Định kỳ hàng tháng, thủ trưởng các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo kết quả thực hiện chỉ thị qua báo cáo tháng về Văn phòng Tổng cục để tổng hợp báo cáo Tổng cục trưởng. 6. Chỉ thị này được quán triệt tới tất cả cán bộ, công chức trong ngành Hải quan. Yêu cầu Cục trưởng Cục Hải quan các tỉnh, thành phố, Thủ trưởng các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục Hải quan căn cứ vào chức năng nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị này trước ngày 25/4/2008. Đơn vị, cá nhân nào không nghiêm túc thực hiện chỉ thị này, để xảy ra hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và thất thu thuế trên địa bàn quản lý của mình thì tùy mức độ phải chịu trách nhiệm trước Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, Bộ trưởng Bộ Tài chính./. Đó là các giải pháp chung nhất của Chính phủ đưa ra nhằm ngăn chặn hoạt động gian lận thuế, tuy nhiên với mỗi hành vi gian lận cụ thể, cần có những biện pháp ngăn chặn và xử lí riêng đúng với tính chất của hành vi mới có thể triệt tận gốc tình trạng này. Giải pháp cho vấn đề gian lận thuế nội địa Hóa đơn là một loại chứng từ kế toán đặc biệt. Do không giới hạn về mệnh giá nên những tổn thất gian lận hoặc sai sót về hóa đơn gây ra rất lớn, không chỉ gây thất thu thuế mà còn tiếp tay cho hành vi tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất. Bởi vậy, tìm giải pháp phát huy vai trò của công tác quản lý hóa đơn trong quản lý thuế là rất cần thiết. Vai trò của quản lý hóa đơn trong quản lý thuế Có thể nhận thấy các DN lách thuế, trốn thuế, gian lận về thuế… dưới các hình thức như: Không xuất hóa đơn và kê khai không đầy đủ doanh thu phát sinh theo quy định. Một số cơ sở kinh doanh thương mại thực hiện mua, bán thẳng không nhập kho hoặc không qua cửa hàng, qua đó cũng không xuất hóa đơn và ghi vào sổ kế toán. Hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết khấu bán hàng không đúng thực tế kinh doanh. Lợi dụng quy định lập bảng kê mua hàng để nâng khống chi phí như: nâng số lượng và giá mua; lập khống tên và địa chỉ người bán; lập bảng kê để hợp thức hóa hàng mua của tư thương (không phải là người trực tiếp sản xuất bán ra); Không thực hiện kiểm kê hàng hóa, vật tư định kỳ, do đó không xác định được số lượng và giá trị nguyên vật liệu, sản phẩm, hàng hóa tồn kho thực tế so với sổ sách kế toán… gây khó khăn cho cơ quan chức năng khi xác định thực trạng kinh doanh, xác định giá vốn hàng bán; hạch toán các khoản chi mang tính chất tiền lương không có quy định trong hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động; làm khống hợp đồng lao động hoặc chi khống tiền lương, tiền công (cao hơn so với thực tế chi trả) để tăng chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế; lập khống các khoản tiền vay ngoài để giảm lãi. Công tác quản lý hóa đơn Trong thời gian qua, cơ quan thuế đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng mừng trong công tác quản lý hóa đơn, thể hiện trên các phương diện sau đây: Đổi mới phương thức quản lý hóa đơn Bằng việc tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định 51/2010/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 89/2002/NĐ-CP về quản lý hóa đơn, ngành Tài chính đã có sự đổi mới cơ bản trong phương thức quản lý hóa đơn. Theo đó, chuyển từ việc cơ quan thuế in hóa đơn bán cho người nộp thuế sang để người nộp thuế tự in hoặc tự đặt in hóa đơn. Tức là, giao quyền tự chủ về in hóa đơn cho người nộp thuế. Cơ quan thuế chỉ in hóa đơn bán cho một số đối tượng đặc thù như các đơn vị sự nghiệp không sử dụng thường xuyên hóa đơn, cá nhân kinh doanh có nhu cầu mua hóa đơn lẻ… Với việc thay đổi này, người nộp thuế sử dụng nhiều hóa đơn sẽ rất thuận lợi, không phải mất thời gian để làm các thủ tục mua hóa đơn, hoàn toàn chủ động trong việc in và phát hành hóa đơn. Cơ quan thuế cũng giảm bớt nguồn nhân lực xử lý việc giao nhận và bán hóa đơn. Cơ quan thuế tập trung vào theo dõi, quản lý quá trình phát hành, in ấn và sử dụng hóa đơn. Với việc ban hành Thông tư 64/2013/TT-BTC, Bộ Tài chính đã kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tạo, lập, quản lý và sử dụng hóa đơn của người nộp thuế khi thực hiện Thông tư 153/2010/TT-BTC, tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ và toàn diện hơn cho công tác quản lý hóa đơn. Siết chặt các quy định pháp lý về phòng chống gian lận về hóa đơn và trốn thuế Một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế chuyển sang cơ chế người nộp thuế tự in hoặc tự đặt in hóa đơn như đã nêu trên, ngành Tài chính đã tham mưu và trực tiếp ban hành các văn bản pháp luật nhằm quản lý chặt chẽ quá trình phát hành và sử dụng hóa đơn, thể hiện trên các phương diện sau: Một là, bổ sung và chỉnh sửa các quy định về xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm về hóa đơn và trốn thuế bằng việc tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định 51/2010/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định này đã quy định rõ hơn các loại hành vi vi phạm về hóa đơn: Tạo hóa đơn, phát hành hóa đơn, lập hóa đơn, báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý các hành vi vi phạm về hóa đơn. Hai là, bổ sung điều kiện thanh toán qua ngân hàng đối với việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Luật Thuế GTGT năm 2008 có hiệu lực từ 1/1/2009) và bổ sung điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với chi phí được trừ tính thuế TNDN (Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN có hiệu lực từ 1/1/2014). Việc áp dụng điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt khi xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và xác định chi phí được trừ đã và sẽ góp phần hạn chế hành vi mua bán hóa đơn – bán khống hóa đơn không có hàng hóa, dịch vụ. Tăng cường kiểm tra, đối chiếu để phát hiện và xử lý các hành vi gian lận về hóa đơn Trong những năm gần đây, Tổng cục Thuế đã coi quản lý hóa đơn, chứng từ là một trong những trọng tâm công tác.Tổng cục đã thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và giải đáp kịp thời những vướng mắc trong quản lý hóa đơn của cơ quan thuế các cấp.Đặc biệt, ngành Thuế đã đẩy mạnh hoạt động đối chiếu hóa đơn giữa cơ quan thuế các địa phương và chú trọng kiểm tra hóa đơn chứng từ trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế. Hiện nay, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các địa phương tổng kết công tác quản lý hóa đơn theo Nghị định 51/2010/NĐ-CP để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý hóa đơn. Mặc dù chưa có số liệu tổng hợp toàn quốc về các hành vi sai phạm về hóa đơn, song từ báo cáo của các quan thuế địa phương cho thấy, ngành Thuế đã đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết và đạt được những kết quả nhất định trong công tác quản lý hóa đơn. Cụ thể như sau: Tại Cục thuế TP. Hà Nội: Năm 2012 đã xử phạt 1.338 vi phạm về hóa đơn với số tiền phạt là 6.649 triệu đồng. Tại Cục thuế Long An: Trong 7 tháng đầu năm 2013 đã thành lập 3 đoàn thanh tra, kiểm tra đột xuất các DN có dấu hiệu mua bán hóa đơn tại 3 huyện Mộc Hóa, Vĩnh Hưng và Tân Hưng. Qua kiểm tra đã xác định và thông báo toàn Ngành 69 DN thành lập để nhận, xuất hóa đơn nhưng không có hàng hóa. Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra đột xuất đã kịp thời ngăn chặn hành vi nhận xuất hóa đơn khống nhằm chiếm đoạt tiền thuế GTGT. Trong kết quả truy thu hàng nghìn tỷ đồng tiền trốn thuế mỗi năm qua thanh tra, kiểm tra thuế những năm gần đây của ngành Thuế, có một tỷ lệ không nhỏ là từ việc phát hiện DN sử dụng hóa đơn mua của DN “ma”, hóa đơn mua khống để hạch toán tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và tăng chi phí được trừ tính thuế TNDN. Đặc biệt, trong kết quả truy thu hàng nghìn tỷ đồng tiền trốn thuế mỗi năm qua thanh tra, kiểm tra thuế những năm gần đây của ngành Thuế, có một tỷ lệ không nhỏ là từ việc phát hiện DN sử dụng hóa đơn mua của DN “ma”, hóa đơn mua khống để hạch toán tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và tăng chi phí được trừ tính thuế TNDN. Điều này có được là do một số cơ quan thuế địa phương đã dựa trên thông báo của Tổng cục Thuế để xây dựng phần mềm rà soát hóa đơn bất hợp pháp, khi có bản mềm bảng kê hàng hóa, dịch vụ mua vào được chuyển dữ liệu vào phần mềm này là phát hiện ngay được hóa đơn bất hợp pháp. Tuy nhiên, rất tiếc ngành Thuế chưa thống kê đầy đủ các số tiền thuế truy thu được do phát hiện hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp. Ngoài ra, ngành Thuế đã phát hiện nhiều hành vi vi phạm về khác về hóa đơn như: lập hoá đơn không đúng với thực tế của hoạt động mua bán; lập hoá đơn khống để trừ nợ; sử dụng hoá đơn quay vòng, hoá đơn chưa đăng ký phát hành để vận chuyển trên đường... Hành vi gian lận thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu Buôn lậu : Biện pháp phòng chống và cách xử lý : Buôn lậu hàng hóa được chia ra làm hai nhóm hàng : - Hàng tiêu dùng, tiền, vàng bạc, đá quý - Hàng quốc cấm + Đối với hàng quốc cấm, chế tài xử lý thường là phạt tù, tịch thu tang vật và tài sản. Phòng chống buôn lậu hàng quốc cấm là cuộc chiến không có hồi kết của các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, có thể thấy Công an Việt Nam cùng ngành Hải quan, bộ đội biên phòng đã thực hiện rất tốt công tác này. Mong rằng, Đảng và Nhà nước có thể nhanh chóng kịp thời, hỗ trợ cho các lực lượng này một cách tốt nhất về điều kiện làm việc cũng như lương bổng tương xứng với sự nguy hiểm mà họ phải đối mặt, tạo cho những chiến sỹ ấy động lực để đấu tranh chống buôn lậu ma túy, vũ khí, hóa chất cấm, ĐVHD ... + Đối với hàng hóa, vàng bạc, đá quý : tùy theo giá trị và quy mô, tính nghiêm trọng mà điều 153 Bộ Luật hình sự đã quy định các khung hình phạt khác nhau. Tuy nhiên, nhiều chế tài đến nay được cho là vẫn chưa đủ sức răn đe, khiến cho tình hình tội phạm buôn lậu đang ngày càng trở nên phức tạp. Có thể dẫn chứng ra như sau : - Tội buôn lậu gia cầm là hành vi đặc biệt nghiêm trọng do ảnh hưởng lớn tới sức khỏe người tiêu dùng, đồng thời có thể tiếp tay đưa dịch bệnh về tàn phá đất nước, phá hoại trật tự kinh tế. Tuy nhiên, các vụ bắt quả tang buôn lậu gia cầm thường chỉ được xử phạt hành chính do giá trị của từng lô hàng không lớn ( từ 50 – 100 triệu ) hoặc phạt tù nhẹ (6 tháng – 3 năm ) đối với các lô hàng trị giá từ 100 triệu – 300 triệu đồng ( điều 153 Bộ luật Hình sự ). Lợi nhuận từ việc buôn lậu gia cầm được đánh giá là “ lãi ngang buôn ma túy “ chính là nguyên nhân khiến mức phạt hành chính không đủ sức răn đe. - Hay thậm chí việc buôn lậu tiền giả qua biên giới cũng rất phức tạp khi những kẻ vận chuyển lợi dụng chế tài xử phạt dựa trên giá trị của số tiền mình mang và chia nhỏ chúng ra, để nếu có bị bắt thì cũng chỉ xử phạt mức rất nhẹ ( 6 tháng tù giam ). → Đề xuất hướng phòng chống : Đối với tội phạm buôn lậu hàng hóa tiêu dùng, vàng bạc nữ trang... việc để chế tài xử phạt hành chính chưa đủ sức răn đe, khiến cho xu hướng buôn lậu các mặt hàng này ngày càng tăng cao, vì vậy cần phải tăng khung hình phạt, kết hợp thêm chế tài hình sự để cảnh tỉnh những kẻ mong muốn làm giàu từ con đường buôn lậu. Ngoài ra, cần thắt chặt công tác quản lý thị trường của Các cơ quan kinh tế. Việc sử dụng hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đồng thời cơ chế kiểm soát còn thô sơ khiến cho nhu cầu về các loại hàng hóa giá rẻ tăng mạnh, nhờ đó mà buôn lậu mới có đất phát triển. Siết chặt công tác quản lý, phạt người tiêu thụ giống kẻ buôn lậu sẽ góp phần làm giảm nguồn cầu hàng lậu. Cuối cùng, cần phải nâng cao phẩm chất đạo đức, nghiệp vụ của các cán bộ ngành Hải quan, bằng việc tăng thêm lương bổng, tạo điều kiện cho họ có thể làm giàu một cách chính đáng. Khai sai chủng loại và xuất xứ hàng hóa : Biện pháp xử lý và cách phòng chống chung cho gian lận khai sai chủng loại và xuất xứ của hàng hóa : - Việc khai sai chủng loại và xuất xứ của hàng hóa XNK thuộc nhóm các hành vi vi phạm trong khai hải quan. Xuất phát từ số lượng hàng hóa, cùng chủng loại thông quan một ngày quá lớn, khiến cho việc kiểm tra kỹ càng từng lô hàng hóa trở nên khó khăn đã tạo kẽ hở cho tội phạm thực hiện hành vi gian lận của mình. - Khai sai chủng loại hàng hóa được sinh ra là do, thông qua hiệp định GATT, cơ quan hải quan đã thiết lập danh mục hàng hóa và đánh mã số từng loại hàng một, mỗi mã số có 1 căn cứ tính thuế khác nhau. DN thường khai sai chủng loại để có thể trốn thuế XK và VAT đầu ra. - Khai sai xuất xứ bắt nguồn từ các hiệp định thương mại cho phép nước ta NK các loại hàng hóa của quốc gia kí kết Hiệp định với mức thuế ưu đãi, nhờ việc khai sai xuất xứ, thậm chí tốn thêm tiền để quá cảnh hàng hóa tạo xuất xứ mới mà DN mới có thể trốn được thuế. - Về cách xử lý : nghị định 138/2004/NĐ-CP đã quy định cụ thể như sau : o Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá không khai hoặc không đúng với khai hải quan về số lượng, trọng lượng, chất lượng, mã số hàng hoá, trị giá, xuất xứ ( Điều 15 khoản 3 ). o Điều 15 khoản 6 : Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các vi phạm sau: a) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trái với quy định về ưu đãi, miễn trừ hải quan; b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc diện cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; c) Đưa hàng hoá giả mạo xuất xứ vào lãnh thổ Việt Nam; xuất khẩu hàng hoá giả mạo xuất xứ; Cách phòng chống : - Áp mã số đối với những mặt hàng nhạy cảm, có thuế suất cao, hàng hóa áp mã chưa thống nhất giữa các Chi cục, kiểm tra tính xác thực của C/O và thực tế hàng hóa nhập khẩu đối với các lô hàng được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt - Liên tục cập nhật thông tin về chủng loại, công năng sử dụng, giá trị thị trường của các loại hàng hóa được thông quan, tạo cơ sở dữ liệu để phân luồng thông quan chính xác. Gian lận giá tính thuế : Biện pháp phòng chống và xử lý : Phòng chống : - Việc áp đặt giá tính thuế nhập khẩu được xem là một công cụ của cơ quan Hải quan nhằm ngăn chặn nguy cơ trốn thuế nhập khẩu. Theo đó, sau khi kiểm tra, với những trường hợp nghi vấn về mức giá khai báo thấp bất hợp lý thì Hải quan yêu cầu doanh nghiệp giải trình. - Nếu doanh nghiệp không thể giải trình hợp lý, cơ quan Hải quan sẽ xác định lại giá tính thuế trên cơ sở thông tin của mặt hàng giống hệt hoặc tương tự trên hệ thống cơ sở dữ liệu giá hải quan. Xử lý vi phạm : Theo Nghị định 98/2007/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế : - Điều 13. Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn. Phạt tiền 1 lần tính trên số thuế trốn, số thuế gian lận đối với người nộp thuế vi phạm lần đầu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 13 Nghị định này hoặc vi phạm lần thứ hai mà có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên khi có một trong các hành vi vi phạm sau đây: 1. Các trường hợp khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, bao gồm: a) Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, tăng số thuế được miễn, giảm, nhưng người nộp thuế đã ghi chép kịp thời, đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ; b) Hành vi khai sai của người nộp thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này nhưng khi bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, người vi phạm đã tự giác nộp đủ số tiền thuế khai thiếu vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế; c) Hành vi khai sai của người nộp thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, số thuế được giảm đã bị cơ quan có thẩm quyền lập biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế xác định là có hành vi khai man trốn thuế, nhưng nếu người nộp thuế vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và đã tự giác nộp đủ số tiền thuế vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý thì cơ quan thuế lập biên bản ghi nhận để xác định lại hành vi khai thiếu thuế; d) Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, nhưng khi cơ quan thuế kiểm tra phát hiện, người mua chứng minh được lỗi vi phạm sử dụng hoá đơn bất hợp pháp thuộc về bên bán hàng và người mua đã hạch toán kế toán đầy đủ theo quy định. 2. Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này là 10% tính trên số tiền thuế khai thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm cao hơn so với mức quy định của pháp luật về thuế. 3. Cơ quan thuế xác định số tiền thuế thiếu, số tiền phạt; số ngày chậm nộp tiền thuế, tiền phạt chậm nộp tiền thuế và ra quyết định xử phạt đối với người nộp thuế. Giả tạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để hưởng ưu đãi thuế : Biện pháp phòng chống và cách xử lý : - Cách xử lý : đẩy mạnh công tác hậu kiểm để kịp thời phát hiện ra các lô hàng tạm nhập không tái xuất, chuyển sang tiêu thụ nội địa. Tiến hành truy thu số thuế bị thiếu, đồng thời nếu thấy hành vi gian lận có quy mô, lập tức chuyển sang cơ quan Công an để điều tra về hành vi trốn thuế. - Phòng chống : o Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập tái xuất. o Các cơ quan chức năng cùng phối hợp với Tổng Cục có cơ chế phân loại, đánh giá doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất thường xuyên. Trên cơ sở kết quả phân loại, chỉ cho phép những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật Hải quan, pháp luật thuế,... được hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất. o Cơ quan có thẩm quyền cần thường xuyên rà soát, ban hành bổ sung danh mục hàng hóa cấm hoặc hạn chế kinh doanh tạm nhập tái xuất phù hợp với từng thời kỳ. Theo đó, một số mặt hàng như mặt hàng nhạy cảm, hàng có thuế suất cao, hàng có nguy cơ về vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường… không cho thực hiện việc kinh doanh theo loại hình này. o Các doanh nghiệp kinh doanh, vận tải loại hình này phải thực hiện việc giám sát hàng hóa bằng hệ thống định vị vệ tinh (GPS) để đảm bảo theo dõi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxthue_gtgt_1542.docx
Luận văn liên quan