Đề tài Tìm hiểu về Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương

Dẫu rằng đây là một công cụ được NHTW nhiều nước sử dụng làm công cụ chủ yếu và thường xuyên trong việc điều hành CSTT . Nhưng qua một thời gian NHNN Việt Nam sử dụng đã bộc lộ một số bất cập sau: Số phiên giao dịch ít.Mặc dầu số phiên giao dịch đã được tăng lên 2 phiên/tuần nhưng số phiên giao dịch như vậy vẫn còn quá ít.Điều này sẽ gây khó khăn cho NHNN trong việc điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách kịp thời. Đặc biệt là trong những trường hợp mà NHNN có những quyết định sai lầm trong phiên giao dịch nào đó thì khả năng đảo ngược tình thế là rất khó thực hiện và chắc chắn sẽ bị chậm trễ. Hàng hoá được mua bán không nhiều.Trên thị trường mở, hàng hoá mua bán chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hầu như chưa được sử dụng để mua bán trên thị trường này. Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trong lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia, thì với VN , công cụ này chưa được sử dụng.

doc39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5950 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại theo hồ sơ tín dụng. a/ Cơ chế tác động: Với công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông. Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các nhtm đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, Lúc này, một mạt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay. Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM, cụ thể : khi NHTW tăng tổng hạn mức tái cấp vốn, điều đó có nghĩa là các NHTM có thể được vay ở NHTW nhiều hơn. Điều này sẽ làm tăng vốn khả dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Những tác động trên sẽ hoàn toàn ngược lại nếu NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn xuống. b/ Ưu, nhược điểm * Ưu điểm: Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trường kinh tế. đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì với số tiền NHTW cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán. * Nhược điểm : NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng NHTM lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được. 1.2.2.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và cho vay của các NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn ( NHTM đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại , nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM( bành trướng khối tiền tệ). a/ Cơ chế tác động Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. * Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong toả , cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM. * Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc ( dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM. * Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng , giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng. Công cụ này được áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ(1913) Nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống NHTM, để các NHTM này có thể thoả mãn nhu cầu rút tiền mặt từ các khoản tiền gửi. Dự trữ bắt buộc nhanh chóng được áp dụng với vai trò là một công cụ của chính sách tiền tệ. Sau đó nhiều nước khác như Đức , Anh, Pháp... cũng áp dụng công cụ này vì tính hiệu quả của nó. Việt Nam sử dụng công cụ này từ năm 1992. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc NHNN quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Theo Luật NHNN, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. b/ Ưu, nhược điểm Ưu điểm: * Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng. * Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW. * Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện. * Tôn trọng sự cạnh tranh giữ các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng. * Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM giúp NHTM tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán. Nhược điểm: * Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý. * Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp. * Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hang đó khó khăn hơn. 1.2.2.3. Công cụ nghiệp vụ thụ trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn ( Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi...) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ , cụ thể: * Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. * Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM. Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ, Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu thế kỷ 20. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ nhiều quốc gia. a/ Cơ chế tác động - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng. Hành vi mua, bán các loại chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có khả năng ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi NHTW bán chứng khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng (giả thiết các yếu tố khác không đổi), dù người mua là ngân hàng thương mại hay khách hàng của nó, khi tiền thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Nếu người mua là khách hàng của ngân hàng thương mại thì số dư tiền gửi của người đó sẽ giảm. Sự giảm về dự trữ sẽ dẫn đến sự giảm về khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và đồng thời cũng làm giảm khối lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo lường bằng số nhân tiền. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại. - NVTTM tác động vào lãi suất thị trường Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW co ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường: Thứ nhất: Khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng, nó có tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Từ chỗ cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền Ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD nền kinh tế sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thứ hai: Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lẹ sinh lời của chúng cũng thay đổi.Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trong lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường ,tổng cầu AD và sản lượng. b/ Ưu, nhược điểm Công cụ nghiệp vụ thị trường mơ đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ: - NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng. - Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào,NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán. - NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết đinh sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sử chữa ngay được bằng cách tiến hanh nghiệp vụ bán trên thị trường mở. - Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch. 1.2.2.4. Công cụ lãi suất. Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng , giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại , có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trường , chính sách và giải pháp cụ thê cua NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. a/ Cơ chế tác động - Cơ chế điều hành gián tiếp: thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quan lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoan cho vay tái chít khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thẻ theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sơ cung cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ ngân hàng . Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở lên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, NHTW Châu Âu, lãi suất tiền gửi liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ... - Cơ chế điều hành trực tiếp: Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế , như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất , trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch loã suất bình quân... Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tề vĩ mô, NHTw có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở cá nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này. - Các mức lãi suất thường được công bố: Một là , đối với các hoạt động liên quan đến vai trò NHTW, các mức lãi suất phổ biến được công bố và nền kinh tế quan tâm là lãi suất chiết khấu ( như ở Mỹ, Nhật, Đức ..) lãi suất Repo(như ở Đức , Anh,...) hoặc lãi suất can thiệp (Pháp) Các mức lãi suất được hình thành trên thị trường tiền tệ như lãi suất tiền gửi liên bang ( Mỹ) , lãi suất cho vay qua đêm cũng được áp dụng ở các nước nói trên. Hai là các mức lãi suất của NHTM áp dụng đối với nền kinh tế mang tính quản lý trực tiếp của NHTW như khung lãi suất ,trần lãi suất, lãi suất tiền gửi tối thiểu, chênh lệch lãi suất bình quân được thực hiện ở các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam... Ba là, các mức lãi suất thị trường mang tính tham khảo như: lãi suất liên ngân hàng thị trường Singapore(SIBOR), lãi suất liên ngân hàng thi trường London(LIBOR)v.v. Ngoài các mức lãi suất này ra, một số nước còn công bố mức lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến của các NHTM hàng đầu( lãi suất cơ bản của VN). Bốn là , lãi suất thường được công bó theo năm, các mức lãi suất đối với từng kỳ hạn cụ thể theo tháng, ngày... được xác định trên cơ sở lãi suất năm. 1.2.2.5. Công cụ hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM tôn trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mực dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó, trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể cà nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. a/ Cơ chế tác động Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng. Qua sử dụng hạn mức tín dụng , NHTW nhằm điếu chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng, NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt. b/ Ưu, nhược điểm * Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. * Nhược điểm: Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế có một số bất lợi sau: - Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn bị giới hạn, không thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế. - Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM. Bởi vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa nếu không sẽ gây đọng vốn và sẽ thiệt hại cho ngân hàng. - HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. - Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dung được cấp ra nho hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Bởi những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các NH không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ cho chúng. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của NHTW. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khỏi hạn mức đó. - HMTD gây khó khăn cho các DN nhỏ, vì trước hết các NHTM thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay, nếu còn mới cho các doanh nghiệp nhỏ vay. - Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao, nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng . Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quá do thị trường tiền tệ chưa phát triển , hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ HMTD là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt. 2. Thực trạng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam . 2.1. Giới thiệu về Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ở Việt Nam,từ cuối thế kỉ XIX trở về trước không có ngân hàng nào xuất hiện,lí do chính do nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu,mang nặng tính tự cung tự cấp,thương mại kém phát triển...nên nhu cầu giao dịch tiền tệ không đáng kể. Đến cuối thế kỉ XIX, sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta và thiết lập xong nền đô hộ,Việt Nam đã trở thành một thị trường độc chiếm của sản phẩm Pháp.Do các hoạt động kinh tế của người Pháp phát triển mạnh nên Pháp phải lập các ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động ấy.Lúc đầu có hai ngân hàng do Pháp thành lập,trụ sở chính đặt tại chính quốc nhưng chi nhánh nằm rải rác khắp lãnh thổ Việt Nam,đó là ngân hàng Đông Dương và Pháp - Hoa Ngân Hàng.Thực chất ngân hàng Đông Dương đã hoạt động với tư cách là một NHTW đồng thời là một ngân hàng kinh doanh đa năng trên mọi lĩnh vực dưới sự bảo trợ của chính quyền liên bang Đông Dương,ngân hàng Đông Dương đã cung cấp vốn và giao dịch tiền tệ cho mọi hoạt động kinh tế của người Pháp tại Đông Dương như: công ty than Hòn Gai - Cẩm Phả, công ty rượu Đồng Xuân,công ty xi măng Hải Phòng, công ty bông sợi Nam Định...còn ngân hàng Pháp – Hoa được thành lập để hỗ trợ hoạt động giao dịch thương mại giữa Pháp,Đông Dương,Trung Quốc và một vài nước á Đông như Nhật Bản,Thái Lan. Phải đến năm 1927, ở miền nam Việt Nam, một nhóm tư bản tài chính ở Việt Nam thành lập tại Sài Gòn một ngân hàng lấy tên là An Nam Ngân Hàng. Đây là sự khẳng định tiếng nói người Việt Nam trong giới tài chính.Sau khi giành độc lập dân tộc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến tháng 5 năm 1951, tại Việt Nam không có một loại hình ngân hàng nào. Mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tiền tệ tín dụng đề do Bộ Tài Chính đảm nhiệm. Tháng 2 năm 1927, nhà nước ra sắc lệnh thành lập nha tín dụng sản xuất trực thuộc Bộ Tài Chính,làm nhiệm vụ cho vay phát triển sản xuất. Với tư cách là một tổ chức tín dụng nhà nước, nhưng nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nên hoạt động của nó mang nặng tính chất tài chính nhà nước. Sau Đại hội Đảng lần II(tháng 2 năm 1951), chính phủ đã đề ra mục tiêu cho công tác tài chính là quản lí thu - chi cho ngân sách nhà nước, thành lập ngân hàng quốc gia để phát hành giấy bạc ngân hàng, làm nhiệm vụ quản lí tiền tệ và thi hanh chính sách tín dụng nhằm phát triển kinh tế. Ngày 6/5/1951, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 15/SL thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau: Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. Thời kỳ  1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; - Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. - Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam)  đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất  tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và  lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng: Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997). Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch  tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ - CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 và Nghị định 52/NĐ-CP ngày 19/5/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây: - Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. -    Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn năm năm và hàng năm về tiền tệ và hoạt động ngân hàng -    Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước -    Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của ngành; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về hoạt động ngân hàng -     Về tiền tệ và hoạt động ngân hàng: + Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; Trình Chính phủ đề án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. + Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; +    Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền +    Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ +  Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán   cân thanh toán quốc tế +    Quản lý ngoại hối, hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng +      Ký kết tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. +    Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ uỷ quyền;     +    Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng, -    Thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương: +    Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền; +    Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế; +    Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở; +    Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; + Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán; +    Làm đại lý và các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc nhà nước +      Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng. -   Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng theo quy định của Pháp luật -   Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật -   Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể  và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật, quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Ngân hàng Nhà nước -  Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của Pháp luật - Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của Hội và tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật - Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ngân hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Quản lý về tổ chức, bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước - Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của Pháp luật - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Hệ thống ngân hàng ở nước ta đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt Nam qua những chặng đường chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Để ghi nhận những cống hiến to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong hai cuộc kháng chiến với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng và thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều tập thể, cá nhân của ngành. Trong đó, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, năm 1996 ngành NH đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, 94 đồng chí được trao tặng các Huân chương công trạng bậc cao từ Huân chương Hồ Chí Minh đến các Huân chương độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Tại Đại Hội thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IV tháng 9/2000, Đảng Nhà nước và ngành Ngân hàng đã trao tặng danh hiệu anh hùng lao động và hàng ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các cấp cho các tập thể và cá nhân của ngành về những thành tích trong thời kỳ đổi mới. Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực  trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự  quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là "một người chiến sỹ xung kích" trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trước những thách thức và thời cơ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá trong giai đoạn phát triển mới. 2.2. Phân tích thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời gian qua. 2.2.1. Công cụ lãi suất. Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Lãi suất trong CSTT bao gồm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay.Về lãi suất tái cấp vốn, chủ yếu NHNN chỉ cho vay NHTMNN, không cho vay nhiều đối với  các loại NHTMCP, ngân hàng liên doanh...Trên thực tế, lãi suất tái cấp vốn thường thấp hơn lãi suất cho vay, gây khó khăn trong điều hành lãi suất. Lãi suất VND và USD chênh lệch nhau khá lớn trong nhiều thời kỳ, trung bình là khoảng 6%/năm từ đầu năm 2003 cho đến nay, tạo ra sự luân chuyển vốn nội tệ và ngoại tệ nhiều khi không thuận đối với các tổ chức tín dụng. Bảng 2: Chênh lệch lãi suất huy động và cho vay VND và USD Đơn vị tính : % Năm Lãi suất huy động Lãi suất cho vay Ngắn hạn Dài hạn Ngắn hạn Dài hạn VND USD VND USD VND USD VND USD 1999 3,6 3,5 6 4 10,2 7,5 10,2 7,5 2000 6 4,5 7,8 5 7,8 6,8 8,4 7 2001 5,4 1,55 6,6 1,99 7,2 4 7,8 5 2002 6 1,2 7 1,2 7,5 3,5 8,4 4,5 Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Hiện nay,trong các tổ chức tín dụng đang tồn tại nhiều loại lãi suất ưu đãi khác nhau (lãi suất ưu đãi trong nông thôn, lãi suất cho vay qua Quỹ hỗ trợ phát triển, lãi suất qua các Hội phụ nữ, hội Cựu chiến binh …), gây khó khăn trong quản lý và theo dõi lãi suất, tạo ra phần nào cơ chế " xin - cho" về lãi suất đối với các tổ chức vay vốn. Chênh lệch lãi suất nông thôn và thành thị còn khá lớn. Lãi suất cơ bản được thực hiện từ tháng 5/2003 cho đến nay thực ra không còn ý nghĩa khi mà lãi suất cơ bản thường công bố ở mức 0,6%- 0,625%/ tháng nhưng lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thường dao động ở mức trên 0,75%/tháng, cao nhất là 1,2%/tháng. Đặc biệt, lãi suất cho vay không tăng lên nhưng lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng tăng mạnh, mặt khác, các tổ chức tín dụng huy động vốn với lãi suất huy động vốn cố định nhưng lại cho vay theo lãi suất thoả thuận từ ngày 1/6/2002. Điều này đã tạo ra rủi ro lãi suất rất lớn mà NHNN đã cảnh báo các tổ chức tín dụng từ giữa năm nay. Đây là một hiện tượng không bình thường và cũng không lành mạnh khi mà các NHTMNN huy động vốn chủ yếu rót vào những khách hàng lớn, một số khách hàng này hiện nay đang bị xếp hạng tín dụng thấp. Các loại lãi suất cơ bản, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở...của NHNN hầu như không có tác dụng đối với lãi suất thị trường. 2.2.2. Nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện ở Việt Nam từ ngày 12/8/2000 sau một giai đoạn chuẩn bị lâu dài. Việc thực thi nghiệp vụ thị trường mở đánh dấu một bước chuyển quan trọng của NHNN trong điều hành công cụ CSTT từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. Hơn 3 năm qua, nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động thường xuyên, cung ứng hàng nghìn tỷ tiền đồng cho các tổ chức tín dụng vào những lúc căng thẳng, góp phần ổn định tiền tệ. Hiện nay, thành viên của thị trường mở là 22 thành viên, bao gồm 4 NHTMNN, 10 NHTMCP, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh nước ngoài, 1 công ty tài chính , Quỹ Tín dụng nhân dân.  Hàng hoá giao dịch tuy bao gồm các giấy tờ có giá ngắn hạn nhưng chủ yếu chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu ngân hàng Nhà nước, trong đó giao dịch tín phiếu ngân hàng Nhà nước chiếm khoảng 14,5% năm 2001, 20,7% năm 2002 trong tổng giao dịch trên thị trường mở. Đến hết quý 1/2003,  thị trường mở đã thực hiện được 177 phiên với các số liệu chủ yếu sau:        Bảng 3: Khối lượng phát hành tín phiếu kho bạc tại NHNN                                      Đơn vị: tỷ đồng Thời hạn Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Quý1/2003 364 ngày 4.441 2.945 6.218 2.480 Thời hạn khác - 970 2.202 - Tổng số 4.441 3.915 8.420 2.480 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam        Bảng 4: Doanh số giao dịch trên thị  trường mở        Đơn vị : tỷ đồng Doanh số Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Quý1/2003 Tổng doanh số - NHNN mua - NHNN bán 1.903,5 1.353,5 550 3.933,8 3.313,8 620 9.145,5 7.245,5 1900 9.734 6.694 3.040 Nguồn : Ngân hàng Nhà nước So với yêu cầu của thực thi CSTT thì nghiệp vụ thị trường mở của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế cần phải tháo gỡ. - Tuy thành viên thị trường mở là khá đông đảo, nhưng thực sự tham gia giao dịch thường là chỉ 30%/tổng số thành viên, trong đó chủ yếu là các NHTMNN (96,7% vào năm 2001 và 99,6% năm 2002). Khoảng 30% các phiên giao dịch không trúng thầu trong quý 1/2003. Do đó, các giao dịch trên thị trường này chưa phản ánh đúng nhu cầu vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng cũng như việc phát huy vai trò của thị trường mở tới CSTT chưa thật sự dúng với yêu cầu của nó. - Hàng hoá giao dịch trên thị trường quá đơn điệu, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, trong khi đó, các loại giấy tờ có giá khác, kể cả các loại giấy tờ có giá ngắn hạn như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi...và các loại giấy tờ có giá trung và dài hạn chưa được giao dịch trên thị trường này, mặc dù Luật sửa đổi NHNN đã cho phép. Đây là một khó khăn tiềm ẩn vì các loại giấy tờ có giá này chỉ có thể phát sinh theo mức độ sôi động về kinh tế của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, không thể ra đời và họat động theo ý thức chủ quan của các nhà quản lý. Chính vì vậy, pháp lệnh thương phiếu mặc dù đã được ban hành vào năm 2000 nhưng cho đến nay, Pháp lệnh này gần như chưa đi vào cuộc sống. Các sản phẩm tài chính ngắn hạn khác rất phát triển ở các nước như hợp đồng mua lại, hợp đồng mua lại ngược, chấp nhận của ngân hàng, trái phiếu chính phủ thời hạn 2 năm... chưa hiện hữu nhiều ở Việt Nam. Một khi mà hàng hoá chưa đa dạng thì hoạt động giao dịch vốn chưa thể thường xuyên được. - Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu dựa trên chương trình phần mềm của hệ thống giao dịch điện tử. NHNN Việt Nam hiện nay vẫn sử dụng một phần mềm chưa tập trung giữa NHNN với các tổ chức tín dụng. Do đó, các số liệu cần thiết cho nghiệp vụ này như tình hình vốn khả dụng của các chi nhánh trong một hệ thống  tổ chức tín dụng trong từng thời điểm, hoặc vốn khả dụng giữa các tổ chức tín dụng, lãi suất chào mua chào bán của các NHTM... chưa báo cáo thường xuyên và cập nhật với NHNN. Vì vậy, tác dụng của nghiệp vụ này trong việc cung ứng tiền hoặc thu hút tiền từ các tổ chức tín dụng về NHNN khi thực hiện mục tiêu của CSTT tỏ ra mờ nhạt. - Về phương thức giao dịch: nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu hoạt động dưới hình thức đấu thầu: đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất, trong đó, tiên tiến nhất là đấu thầu lãi suất vì có tính khách quan, phản ánh đúng tình hình cung cầu vốn ngắn hạn, truyền tải lập tức các tín hiệu của NHNN. Trong thời gian qua, các phiên đấu thầu lãi suất chưa chiếm tỷ trọng lớn trong các phiên giao dịch, việc chỉ đạo lãi suất và khối lượng đấu thầu cũng chưa linh hoạt. Lãi suất trúng thầu của tín phiếu kho bạc chưa thật sự phản ánh đúng mặt bằng lãi suất thị trường, tác dụng phát ra tín hiệu của NHNN vì vậy chưa thật nhanh nhạy. Vì vậy, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ nhạy bén của CSTT mà NHNN Việt Nam cần phải thật sự chú ý trong thời gian tới. - Họat động của thị trường mở gắn bó với sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, nhất là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng là cơ sở để CSTT phát huy tác dụng trong việc phản ánh vốn ngắn hạn, xác định và phát ra tín hiệu về  lãi suất của NHNN, xây dựng đường cong lãi suất chuẩn đối với trái phiếu chính phủ..Tuy nhiên, thị trường liên ngân hàng kém phát triển trong thời gian qua đã hạn chế rất nhiều tác dụng của CSTT. 2.2.3. Về dự trữ bắt buộc. NHNN thực hiện công cụ này từ đầu những năm 90 vừa qua. Dự trữ bắt buộc được tính trên số tiền gửi huy động bình quân (bao gồm cả VND và ngoại tệ) không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các tổ chức tín dụng. Với mục đích thực hiện CSTT thận trọng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh trong phạm vi 0-20% theo quy định của luật NHNN. Bảng 5: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng                                            Đơn vị:   % Tổ chức tín dụng Tỷ lệ dự trữ bắt buộc % 12/2001 4/2002 12/2002 VND Ngoại tệ VND Ngoại tệ VND Ngoại tệ Ngân hàng Thương mại Nhà nước, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đô thị, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàn liên doanh, Công ty tài chính Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn, Ngân hàng Hợp tác, QTĐN 3        2  1 10        10  10 3        2  1 8        8  8 3        2  1 5        5  5 Nguồn: Báo cáo thường niên 2002, Ngân hàng Nhà nước Hạn chế trong việc sử dụng công cụ này là NHNN chưa thật sự chủ động, khi xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn nhiều yếu tố phi kinh tế như tâm lý, chính trị, tính linh hoạt kém... 2.2.4. Công cụ hạn mức tín dụng. Được NHNN áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế là lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh . Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn ché hệ số nhân tiền tệ , qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán . Trên thực tế , việc áp dụng hạn mức tín dụng đã góp phần kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đối với một số các NHTM nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Nhất là trong các năm từ 1998 đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở VN rất lớn , lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó , từ Quý II năm 1998, NHNN đã quyết định không sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ mà chỉ dùng đến hạn mức tín dụng khi cần phải hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao. 2.2.5. Công cụ tái cấp vốn. . Để nâng cao hiệu quả sử dụng của công cụ này, NHNN đã từng bước đổi mới theo hướng tỷ trong tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, còn tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Trên thực tế, bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên NHNN đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ , một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán tạm thời của các NHTM. Với hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được mở rộng. Từ ban đầu, chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán , khế ước cho vay ngắn. Đến nay, NHNN bổ sung thêm hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN.Hiện nay theo quy định của luật NHNN, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng gồm: Cho vay theo hồ sơ tín dụng , chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Đặc biệt, việc quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được đổi mới, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường . Hiện nay , để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN nhằm thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu xuống mức 0,4%/tháng và 0,35%/ tháng tương ứng. 3. Đánh giá chung về việc sử dụng các công cụ CSTT. 3.1. Kết quả đạt được. Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương (NHTW) sử dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền kinh tế, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Những cột mốc sau đây nói rõ điều đó: - Trước năm 1999, là quá trình vừa đổi mới, vừa điều chỉnh hoạt động thích ứng với cơ chế thị trường. Quá trình phân phối nguồn lực của nền kinh tế đã từng bước căn bản sử dụng công cụ thị trường - tiền tệ thay cho công cụ phân phối - hiện vật. - Đến hết năm 1999, đã căn bản khắc phục xong hiệu ứng trễ của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực, góp phần kéo lạm phát từ mức 9,2% năm 1998 xuống còn 0,1% năm 1999. Tiếp đó là quá trình chủ động kiềm chế và kiểm soát lạm phát (năm 1999: 0,1%; 2000: -0,6%; 2001: -0,2%; 2002: 4%; 2003: 3%; 2004: 9,5%). - Bắt đầu từ năm 2000, đã đổi mới căn bản cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái từ chỗ công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối dài sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ. Cơ chế này hiện vẫn đang phát huy được tác dụng rất tích cực. - Từ năm 2000, đã đẩy mạnh hơn quá trình tự do hoá lãi suất và đến 6/2002 đã thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận và tự do hoá hoàn toàn lãi suất trên thị trường tín dụng thương mại. - Từ 2001 đến nay, đã xây dựng và triển khai mạnh mẽ đề án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) - Theo đó, đã thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội tách ra khỏi NHTMNN, đã căn bản cơ cấu lại tài chính, đang đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nghiệp vụ và tiến tới từng bước cơ cấu lại sở hữu đối với các ngân hàng này. - Từ 1999 đến 2003, về cơ bản đã thực hiện thành công việc điều hành một CSTT kích cầu góp phần chống giảm phát và thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mức bình quân trên 7,3%/năm trong 6 năm liền (1999 - 2004); - Từ quí II/2004 đến nay, đã căn bản thành công trong việc điều hành một CSTT thận trọng có kiểm soát. Nhờ đó, đã trực tiếp góp phần chống lại nguy cơ bùng nổ lạm phát vào năm 2004 và những tháng đầu năm 2005. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân. 3.2.1. Công cụ tái cấp vốn: Trong bối cảnh công cụ nghiệp vụ thị trường mở chưa phát huy được tác dụng như mong muốn thì tái cấp vốn là công cụ cơ bản giúp cho NHNN điều hành thành công chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Hiệu quả của công cụ này thì đã thấy rõ đó là vừa đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế vừa đảm bảo thanh toán cho các TCTD tuy nhiên công cụ này vẫn còn nhiều hạn chế.: - Việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với giá trị nội tệ không kịp thời và chưa hợp lý dẫn đến xu hướng chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ tăng nhan. - NHNN chỉ chủ động được trong việc cung ứng vốn nhưng lại bị động trong việc thu hút vốn về NHNN.Nghĩa là NHNN không hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nguyên nhân: Quy chế tái cấp chưa được hoàn thiện, chưa quy định rõ từng hình thức tái cấp vốn( tái chiết khấu, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn...).Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu chưa được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. 3.2.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Việc điều hành công cụ dự trữ bắt buộc của NHNN thời gian qua không bám sát vào thực tế vì vậy việc tăng hay giảm dự trữ bắt buộc đã không có tác dụng rõ rệt đối với việc điều khiển lượng tiền cung ứng . Có thời kỳ số tiền gửi vượt mức so với dự trữ bắt buộc rất lớn phản ánh độ dư thừa vốn của các NHTM là lớn. Nhưng trong điều hành NHNN chưa quan tâm tới việc quản lý nguồn vốn khả dụng này thông qua điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Nguyên nhân: Khả năng kiểm soát tiền tệ và khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả còn yếu, Tỉ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh chưa linh hoạt, chưa phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác. 3.2.3. công cụ lãi suất. Lãi suất cơ bản của NHNN công bố ít tác động đến lãi suất thị trường. Về cơ chế lãi suất ngoại tệ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tạo các TCTD quá cứng trong khi lãi suất cho vay ngoại tệ đã được tự do hoá và tỷ lệ kết hối đã giảm. Điều này gây khó khăn về việc chủ động vốn của các NHTM. Nguyên nhân: Các cơ sở cho cơ chế điều hành lãi suất  này chưa hội đủ, đó là thị trường tiền tệ, mà cụ thể là thị trường liên ngân hàng (thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng)  chưa phát triển đồng bộ, các kênh dẫn truyền  tác động của chính sách lãi suất và CSTT nói chung tới các tổ chức tín dụng và nền kinh tế chưa đầy đủ, việc quản lý vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng chưa thật sự được quan tâm thích đáng. NHNN chưa có một đề án lãi suất thống nhất xuyên suốt từ lãi suất ngắn hạn tới lãi suất trung và dài hạn. 3.2.4. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Dẫu rằng đây là một công cụ được NHTW nhiều nước sử dụng làm công cụ chủ yếu và thường xuyên trong việc điều hành CSTT . Nhưng qua một thời gian NHNN Việt Nam sử dụng đã bộc lộ một số bất cập sau: Số phiên giao dịch ít.Mặc dầu số phiên giao dịch đã được tăng lên 2 phiên/tuần nhưng số phiên giao dịch như vậy vẫn còn quá ít.Điều này sẽ gây khó khăn cho NHNN trong việc điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách kịp thời. Đặc biệt là trong những trường hợp mà NHNN có những quyết định sai lầm trong phiên giao dịch nào đó thì khả năng đảo ngược tình thế là rất khó thực hiện và chắc chắn sẽ bị chậm trễ. Hàng hoá được mua bán không nhiều.Trên thị trường mở, hàng hoá mua bán chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hầu như chưa được sử dụng để mua bán trên thị trường này. Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trong lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia, thì với VN , công cụ này chưa được sử dụng. Nghiệp vụ mua bán chủ yếu là mua đứt bán đoạn, nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ít được sử dụng. Với những bất cập trên có thể nói hiệu quả của công cụ này đối với việc điều hành chính sách tiền tệ là chưa đáng kể. Nguyên nhân: - Cơ sở pháp lí của thị trường còn gò bó chưa điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện để thu hút thành viên tham gia thị trường mở. - Loại hàng hóa( như các loại trái phiếu, các chứng khoán do tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành...) có thể sử dụng trong các giao dịch thị trường mở còn hạn chế. - Chất lượng công tác dự báo điều hành, cung cấp thông tin trong thị trường chưa cao - Hệ thống thanh toán liên ngân hàng còn lạc hậu KẾT LUẬN Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ, trong nền kinh tế đó,ổn định và tăng trưởng là hai mục tiêu quan trọng và là tiền đề của nhau.Như ta đã biết để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô, chính phủ thường sử dụng nhiều công cụ trong đó có 4 chính sách kinh tế, đó là chính sách tài khóa,chính sách tiền tệ,chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thu nhập.Những chính sách này có quan hệ chặt chẽ với nhau,thể hiện rõ ở các đặc điểm vốn có của các chính sách này,nếu như chính sách tài khoá hướng vào cân bằng ngân sách,xây dựng 1 chính sách thuế hiệu quả và công bằng thì chính sách tiền tệ hướng đến kiểm soát lượng tiền cung ứng, còn chính sách kinh tế đối ngoại đề ra các chính sách thương mại quốc tế và tỉ giá hối đoái,cuối cùng chính sách thu nhập sẽ cung cấp các công cụ để điều tiết mức tiền lương và thu nhập 1 cách hợp lí tiến tới công bằng xã hội. Với 3 chức năng đặc biệt của mình, Ngân Hàng Nhà Nước đã thực thi chính sách tiền tệ nhằm đem lại các mục tiêu kinh tế đã đề ra,và đặc biệt là ổn định giá cả và tiền tệ tạo tiền đề cơ bản cho tăng trưởng kinh tế và xây dựng, phát triển đất nước.Việc nghiên cứu chính sách tiền tệ giúp chung ta có được 1 cách nhìn nhận rõ ràng và đầy đủ nhất về tác dụng của chính sách tiền tệ từ đó khái quát được những định hướng phát triển của chính sách này trong tương lai. Những nghiên cứu trên đây của đề án chỉ là những vấn đề cơ bản về Ngân Hàng Trung Ương và sự hoạt động của các công cụ của chính sách tiền tệ. Trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót do yếu tố chủ quan nên em rất mong muốn nhận được những nhận xét, đóng góp để hoàn thiện đề án tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn thanh Tâm đã giúp em hoàn thành đề án môn học này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu về Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương.DOC
Luận văn liên quan