Đề tài Tìm hiểu về sự phát triển của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và những tác động của nó đối với các nước trên thế giới

Tuy nền kinh tế Trung Quốc phát triển như vũ bão, nhưng không nên quá đề cao chỉ sốGDP bởi dân sốhiện nay của Trung Quốc là 1,3 tỷ người, gấp 10 lần dân số Nhật Bản. Mặc dù GDP Trung Quốc vượt Nhật Bản, nhưng GDP đầu người lại chỉ bằng 1/10 của Nhật Bản. Thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2010 đạt 4.500 USD/năm, còn ởNhật Bản, con số này vào khoảng 40.000 USD/người. Và mức thu nhập này có khoảng cách khá xa so với mức ở các nước phát triển.

pdf82 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2387 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về sự phát triển của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và những tác động của nó đối với các nước trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó, các nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội (trừ các doanh nghiệp FDI) phải kịp thời chuyển về nước và bán hết cho các ngân hàng được ủy quyền. Khi có nhu cầu sử dụng các doanh nghiệp và tổ chức xã hội được mua ngoại tệ của các ngân hàng ủy quyền. Cho đến cuối năm 1997, khi dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 139,89 tỷ USD, Trung Quốc mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ. Ngày 15/10/1997, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc ban hành Chỉ thị số 402 cho phép một số doanh nghiệp (Công ty xuất nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu) được giữ lại một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức tối đa không quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm. Năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 286,4 tỷ USD, chính sách kết hối ngoại tệ tiếp tục được nới lỏng. Tại Chỉ thị số 87 của Cục Quản lý ngoại hối Trung Quốc ban hành ngày 9/9/2002 quy định các công ty và doanh nghiệp được giữ ngoại tệ trên tài khoản, mức tối đa không quá 20% tổng nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch vãng lai. Từ năm 2003 đến năm 2006, Cục Quản lý ngoại hối yêu cầu các ngân hàng thương mại thực hiện chính sách kết hối ngoại tệ theo Chỉ thị số 87 nói trên. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 52  Đến năm 2007, Dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ USD. Ngày 13/8/2007 Cục Quản lý ngoại hối ban hành Chỉ thị số 48 cho phép các tổ chức kinh tế căn cứ nhu cầu sử dụng ngoại tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh được quyền giữ lại số ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản. Như vậy, sau 13 năm Trung Quốc mới xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ, chính sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao. Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối còn thể hiện ở các quy định về hạn chế cho vay ngoại tệ trong nước. Từ năm 1994 đến năm 2002, các ngân hàng thương mại Trung Quốc không được phép cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ. Đến ngày 6/12/2002 Cục Quản lý ngoại hối mới có văn bản (Chỉ thị số 125 về cải cách cơ chế cho vay ngoại tệ trong nước) cho phép các ngân hàng thương mại cho các tổ chức kinh tế trong nước vay ngoại tệ. Khi vay vốn ngoại tệ các tổ chức kinh tế phải làm thủ tục mở tài khoản vay ngoại tệ tại các ngân hàng được ủy quyền. Các ngân hàng thương mại có trách nhiệm đăng ký khoản cho vay với cơ quan quản lý ngoại hối. Gần đây, khi nền kinh tế Trung Quốc đã lớn mạnh, dự trữ ngoại hối tới 2.847,3 tỷ USD, chính sách tỷ giá của Trung Quốc làm cho các nước Mỹ, phương Tây đau đầu. Ngày 5/8/2008, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo mới ký Sắc lệnh sửa đổi Điều lệ quản lý ngoại hối cho phép tự do hóa các giao dịch vãng lai và nới lỏng quản lý với giao dịch vốn với nội dung gần tương tự với pháp lệnh ngoại hối của Việt Nam. Nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về ngoại hối, Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Từ năm 1994 đến nay đã gần 20 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung Quốc vẫn giữ được thị trường ngoại tệ ổn định, dựa trên cơ sở cân đối được cung cầu ngoại tệ. Với chính sách Nhà nước quản lý chặt chẽ các nguồn thu ngoại tệ sau khi điều chỉnh tỷ giá, đã góp phần tăng quyền sở hữu ngoại tệ của các SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 53  ngân hàng thương mại, đó chính là chìa khóa thành công giúp cho các ngân hàng có đủ ngoại tệ bán cho các tổ chức kinh tế và cá nhân có nhu cầu. Cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc trong thời gian qua đã thu được nhiều kết quả, có những đóng góp quan trọng của việc điều hành cơ chế tỷ giá linh hoạt, chủ động của các cơ quan chức năng Trung Quốc. Những kinh nghiệm thành công cũng như các khó khăn trong cải cách kinh tế của Trung Quốc là những bài học quý giá cho các nước chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam nghiên cứu và vận dụng. 6.2Một số kinh nghiệm rút ra từ điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc Những phân tích trên đây cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua, có phần đóng góp quan trọng trong cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc . Mặc dù, Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rõ : - Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Vì vậy, chính sách tỷ giá chỉ có thể đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ. - Mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 54  - Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá. - Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn. - Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá. - Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh…). - Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại chính sách kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro trong quá trình biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu tốt rủi ro có tính chất chính trị. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn luôn luôn chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực sự có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi riêng trong điều kiện cụ thể của mình. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 55  PHẦN III VỊ THẾ CỦA TRUNG QUỐC NGÀY NAY TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI CHƯƠNG VII. XU THẾ QUỐC TẾ HÓA ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ 7.1 Những đặc trưng của một đồng tiền quốc tế Hệ thống tiền tệ quốc tế là một tập thể các quan hệ tiền tệ quốc tế được đảm bảo bằng các hiệp định tiền tệ, ký kết giữa các quốc gia. Khi nói đến hệ thống tiền tệ quốc tế ( IMS), thường đề cập tới hai khía cạnh : - Khía cạnh kinh tế: IMS là tổng thể các giao dịch tiền tệ nhằm phục vụ cho các giao dịch thương mại, đầu tư và các giao dịch khác ( bôi trơn cho nền kinh tế) - Khía cạnh pháp lý: IMS là tổng thể các giao dịch đc đảm bảo bằng các hiệp định tiền tệ quốc tế. Đặc trưng: các yếu tố cấu thành nên hệ thống tiền tệ quốc tế + đồng tiền cơ sở: đồng tiền chủ chốt được tất cả các nước thành viên lựa chọn sử dụng cho cả hệ thống. + Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái cho cả hệ thống: cố định, thả nổi, thả nổi có quản lý + dự trữ tiền tệ của các quốc gia thành viên + cơ chế điều hành tiền tệ giữa các thành viên và cơ quan phụ trách chuyên môn của cả hệ thống 7.2 Trung Quốc và “cái bẫy đôla” Nếu như các cường quốc mới nổi khác đều không muốn quốc tế hóa đồng nội tệ, vậy tại sao chính sách của Trung Quốc lại không như vậy? Câu trả lời là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đặt Trung Quốc trước các mối đe dọa vốn có trong thế bá chủ của đồng đôla Mỹ. Mô hình kinh tế của Trung Quốc dựa nhiều vào thúc đẩy xuất khẩu bằng cách duy trì tỷ giá thấp hơn giá trị thực. Điều này đòi hỏi ngân hàng trung ương Trung Quốc mua về lượng lớn USD, củng cố vị thế của USD như một tiền tệ dự trữ toàn cầu. Nhưng SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 56  cuộc khủng hoảng đã chứng tỏ lợi ích của mô hình này quá nhỏ bé và chi phí bỏ ra có khi còn cao hơn thế rất nhiều. Khủng hoảng đã chứng tỏ, với việc lấy xuất khẩu làm nền tảng cho tăng trưởng, Trung Quốc đã tự đặt mình trước tình thế khó khăn nếu thị trường nước ngoài bị co hẹp. Trong quý 1/2009, sự sụt giảm nhu cầu tại châu Âu và Mỹ khiến tỷ lệ tăng trưởng hằng năm của Trung Quốc giảm xuống còn 6,2%, sau khi liên tục đạt từ 10% trở nên trong 10 quý liên tiếp trước đó. Cuộc khủng hoàng này cũng làm nổi bật những chi phí tiềm tàng khi Trung Quốc tích trữ USD. Để duy trì giá trị thấp cho đồng NDT, Trung Quốc đã mua về 1,5 nghìn tỷ USD giá trị các tài sản tài chính, bao gồm khoảng 7% toàn bộ các trái phiếu do các nhà cho vay có móc nối với chính phủ phát hành, như hai công ty trong tình trạng “gãy” đòn bẩy nợ là Fannie Mae và Freddie Mac. Cuộc khủng hoảng đã thuyết phục Bắc Kinh rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ thua thiệt lớn đối với các khoản đầu tư của này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc phản ứng với cú sốc này bằng cách phê bình gay gắt hệ thống tài chính toàn cầu. Nỗ lực này được Chu Tiểu Xuyên, thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (tức ngân hàng trung ương của nước này), khởi động đầu tiên. Trong bài báo trên trang web của ngân hàng trung ương tháng 3/2009, ông kêu gọi sử dụng SDR nhiều hơn nữa làm phương tiện thay thế cho đồng USD. Các quan chức Trung Quốc khác cũng theo sự dẫn đầu của ông Chu, yêu cầu giỏ tiền tệ quyết định giá trị của SDR nên được mở rộng thêm với sự tham gia của đồng NDT và để chuẩn bị cho sự thay đổi đó, NDT nên được quốc tế hóa. Nhắc lại những phàn nàn của các nhà lãnh đạo Pháp những năm 1960 về thứ”đặc quyền thái quá” – khả năng vay mượn rẻ hơn và gần như không hạn chế của một nước bằng chính đồng tiền của mình – các quan chức và học giả Trung Quốc cho rằng Mỹ đã lạm dụng sự tự do về tiền tệ của mình và đẩy các tổn thất sang cho phần còn lại của thế giới dưới dạng phá giá đồng tiền và bất ổn tài chính. Việc nới lỏng định lượng sau đó của Cục dự trữ liên bang Mỹ và những nỗ lực bát nháo của Quốc hội Mỹ nhằm giải quyết vấn đề nợ quốc gia chỉ gây thêm bức xúc cho phía Trung Quốc. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 57  Ngay cả trước khủng hoảng, Trung Quốc đã ở trong một cuộc tranh luận nội bộ về mô hình tăng trưởng nhờ xuất khẩu. Vài năm trước, các nhà cải cách bắt đầu chỉ ra việc quá phụ thuộc vào xuất khẩu có thể rất nguy hiểm và Trung Quốc cần cân đối lại tăng trưởng bằng cách khuyến khích hơn nữa tiêu dùng trong nước. Thay vì kiềm chế tài chính và tạo nguồn vốn rẻ, các nhà cải cách này muốn người tiết kiệm nhận được mức lãi suất hợp lý, để tạo cho họ niềm tin tiêu dùng hơn nữa. Thay vì cố gắng duy trì tỷ giá thấp, họ đề nghị cho phép giá trị đồng NDT tăng lên, qua đó giúp định hướng lại các doanh nghiệp từ chú trọng xuất khẩu sang phục vụ thị trường nội địa. Các nhà cải cách tuyên bố thắng lợi nhỏ năm 2005, khi Trung Quốc nới lỏng cơ chế neo tỷ giá [vào đồng USD]. Nhưng nhìn chung, chương trình cải cách vẫn gặp khó khăn. Các ngân hàng nhà nước không muốn trả người gửi tiền mức lãi suất thị trường. Người đi vay có các mối quan hệ chính trị mật thiết, như các công ty xây dựng nhà nước chuyên xây dựng những cơ sở hạ tầng ấn tượng, không muốn từ bỏ quyền được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ của mình. Nhà xuất khẩu với các móc nối chính trị được các tỉnh trưởng tin cậy để tạo việc làm trong khu vực, không muốn từ bỏ ưu thế canh tranh được hưởng từ chế độ tỷ giá có lợi cho mình. Các nhóm có lợi ích trong cải cách – người tiết kiệm nhận được mức lợi tức thấp hơn thực tế và người tiêu dùng phải trả giá cao mua hàng hóa nhập khẩu – không thể “đấu” được với các nhà sản xuất đầy quyền lực. Trước khủng hoảng tài chính, lý do cải cách trên còn bị chê bai bởi không ít người cho rằng nó thể hiện sự thỏa hiệp trước các yêu cầu đòi tăng giá đồng NDT của Mỹ. Nhưng khi khủng hoảng để lộ ra những điểm dễ tổn thương của Trung Quốc, cải cách đòi hỏi một cách diễn đạt mang tính yêu nước hơn: người ủng hộ cải cách phải tự vẽ nên hình ảnh của mình nhử một kẻ thách thức thế bá chủ nguy hiểm của đồng đôla Mỹ. Chiếc vỏ mới này đủ để đẩy nhẹ trọng tâm chính trị khỏi tình trạng hiện tại. Việc phê bình cái được học giả Trung Quốc gọi là “bẫy đôla” trở nên được chấp nhận rộng rãi, và xa hơn, quốc tế hóa đồng NDT đã trở thành một mục tiêu chính thức, ngay cả khi nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn tin vào khả năng cạnh tranh xuất khẩu, SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 58  thị trường vốn được quản lý cao, và hệ thống ngân hàng do nhà nước kiểm soát. Thực tế, chính phủ Trung Quốc lại muốn đi theo cả hai cách: đẩy mạnh xuất khẩu, nhưng hạn chế tích lũy USD; tiếp tục rót các khoản cho vay giá rẻ cho các công ty ưu tiên bất chấp sự thiệt thòi của người tiết kiệm, nhưng cũng mở rộng tiêu thụ nội địa. Quốc tế hóa đồng NDT nổi lên là một mục tiêu chính thức không phải vì nó giúp giải quyết cuộc tranh luận kéo dài giữa các nhà cải cách với các quan điểm chính thống. Đúng hơn, nó được đưa vào trong chính sách chính xác vì nó làm mờ đi sự chia rẽ đó, cho phép những ai còn bất đồng với nhau đoàn kết lại – ít nhất là trong ngắn hạn. 7.3 Chiến lược quốc tế hóa đồng nhân dân tệ Chiến lược quốc tế hoá NDT được thực hiện bắt đầu từ đầu những năm 1990 gồm 3 bước (trong vòng 30 năm) là: láng giềng hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa. Cụ thể, 10 năm đầu tiên, Trung Quốc sẽ đưa đồng NDT thành tiền tệ thanh toán thương mại với các nước láng giềng; 10 năm tiếp theo, đồng NDT sẽ được sử dụng trong các hoạt động đầu tư mang tính khu vực và 10 năm cuối, NDT sẽ trở thành tiền tệ dự trữ quốc tế tương tự như đồng USD từ trước tới nay. Để thực hiện bước 1, Trung Quốc đã ký kết hàng loạt hiệp định thanh toán song phương với các nước láng giềng như Lào, Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Nepal... Theo những hiệp định này, đối tác hai bên chỉ sử dụng đồng bản tệ để thanh toán trong các hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng tiền thứ ba chỉ sử dụng để thanh toán bù trừ theo định kỳ. Từ năm 2004, Chính phủ Trung Quốc cho phép tỉnh Vân Nam thí điểm thực hiện hoàn thuế, thanh toán bằng NDT trong buôn bán tiểu ngạch với Việt Nam, Lào và Myanmar. Năm 2008, Trung Quốc thí điểm thanh toán bằng NDT tại Quảng Đông, Ma Cao, Hồng Kông, Quảng Tây, Vân Nam và khu vực ASEAN nhằm gia tăng việc chấp nhận NDT ở cấp khu vực. Từ tháng 7/2009, Trung Quốc tăng cường thực hiện việc hoàn thuế và thanh toán giao dịch thương mại với các nước láng giềng bằng đồng NDT và đến giữa năm 2010, thanh toán thương mại quốc tế bằng NDT đã tăng 14 lần (đạt trên 50 tỷ SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 59  NDT). Giao dịch thương mại quốc tế của Trung Quốc với các nước châu Á chiếm hơn 50% tổng giao dịch thương mại của Trung Quốc và chiếm 78,6% số lượng giao dịch bằng đồng NDT. Đối với bước thứ 2, Trung Quốc đã ký kết Hiệp định hoán đổi tiền tệ song phương với các nước như: Hàn Quốc, Indonesia, Singapore, Malaysia, Ireland… Hoạt động này thực chất là ngoại tệ hóa đồng bản tệ hay nói cách khác là “bán” NDT cho các nước để các nước có thể sử dụng thanh toán với nhau và/hoặc với Trung Quốc trong các quan hệ kinh tế mà không phải sử dụng tới đồng tiền thứ ba. Trong bối cảnh các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật và Eurozone đang gặp khó khăn, các đồng tiền như USD, Yên và Euro chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều nước đã xem xét lựa chọn NDT làm đồng tiền thanh toán và dự trữ. Tại châu Á, các nước Malaysia, Philippines, Thái Lan đã đưa NDT vào hệ thống dự trữ quốc gia. Hàn Quốc cũng đang xem xét đa dạng hóa nguồn dự trữ ngoại tệ của mình trong đó có tính đến đồng NDT. Ở châu Âu, Anh chấp nhận thanh toán với Trung Quốc bằng đồng NDT và đang xem xét đưa thêm NDT vào rổ dự trữ ngoại tệ. Tại châu Phi, Nigieria đã tuyên bố xem xét tăng tỷ lệ dự trữ đồng NDT thêm 5% -10%. Trong những nỗ lực ở bước 3 nhằm quốc tế hóa đồng NDT, Chính phủ trung Quốc tập trung xây dựng Thượng Hải và Hồng Kông thành những trung tâm tài chính, thương mại tầm cỡ quốc tế có chức năng phát hành trái phiếu chính phủ bằng NDT. Trung Quốc đã thu được 9 tỷ NDT trong đợt phát hành đầu tiên vào năm 2009, đã vận động thành công một số tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành trái phiếu huy động bằng NDT. Tháng 10/2010, ADB đã phát hành trái phiếu bằng NDT trị giá 1,2 tỷ USD để huy động vốn cho các dự án tại Trung Quốc, WB cũng phát hành khoảng 500 triệu USD trái phiếu bằng NDT. Tại hội nghị G20 năm 2009, Trung Quốc cũng đề nghị Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) tạo ra đồng tiền kế toán mới phi quốc tịch dựa trên một rổ tiền tệ trong đó có đồng NDT. Tháng 9/2009, Trung Quốc đã bỏ ra 52 tỷ USD để mua 32 tỷ USD trái phiếu lần đầu phát hành của IMF ghi bằng đồng tiền quy ước SDR. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 60  Tại châu Á, Trung Quốc tham gia tích cực vào Quỹ tiền tệ châu Á được thành lập trên cơ sở sáng kiến Chiềng Mai (Thái Lan). Cùng với Nhật Bản, Trung Quốc đã đóng góp 38,4 tỷ USD, chiếm 32% tổng số tiền đóng góp ban đầu của Quỹ. 7.4 Đánh giá khả năng đồng CNY thay thế USD 7.4.1 sự cần thiết của việc dự trữ ngoại tệ Trước tiên, hãy xem xét dự trữ ngoại tệ là gì và tại sao các quốc gia cần dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ là tổng của tất cả các loại ngoại tệ (bao gồm vàng bạc) sẵn có trong hệ thống tài chính của một quốc gia mà họ có thể sử dụng ngay lập tức để nhập khẩu hàng hóa dịch vụ hoặc trả những khoản nợ cho nước ngoài. Nếu ngân hàng nhà nước thiếu dự trữ ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu trên, họ có thể giảm giá đồng tiền để tăng khả năng xuất khẩu, hoặc kiểm soát giao dịch ngoại hối ngắn hạn để cải thiện dự trữ ngoại hối. Các quốc gia thường sử dụng dự trữ ngoại hối cho các mục đích tài khóa như thuê chuyên gia nước ngoài, xây dựng các công trình ưu tiên hàng đầu như cầu cảng, đê điều… hay quan trọng hơn là cho mục đích tiền tệ như duy trì tỉ giá cố định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi có thặng dư thương mại hoặc luồng tiền nước ngoài đầu tư đổ vào làm tăng cung ngoại tệ, chính phủ sẽ mua 1 lượng ngoại tệ dự trữ. Ngược lại khi thâm hụt thương mại hoặc nền kinh tế bị các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra, chính phủ lại bán ra 1 lượng ngoại hối nhằm mục đích ổn định cung cầu ngoại tệ, ổn định tỉ giá. 7.4.2 nhận định chung theo nhiều chuyên gia lừng danh khác trên thế giới thì kỷ nguyên thống trị của đồng USD sắp kết thúc. Và đồng RMB (đơn vị tiền tệ của Trung Hoa, Nhân Dân Tệ) là ứng cử viên sáng giá nhất thay thế USD ở vị thế là đồng tiền dự trữ quốc tế. Sẽ là dễ hiểu khi biết rằng Trung Quốc hiện đang là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới & được dự báo sẽ vượt qua nước Mỹ vào năm 2016, lớn gấp 3 lần kinh tế Mỹ vào năm 2040. 1 số lí do mà các cây đại thụ như Robert Fogel (Nobel economist of University of Chicago) tin rằng Trung Quốc sẽ soái ngôi Mỹ trong tương lai gần đó là liên hợp quốc thường xuyên SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 61  kêu gọi sử dụng 1 loại ngoại tệ dự trữ quốc tế mới, Trung Quốc đã thỏa thuận với Nhật & Nga về việc sử dụng đồng nội tệ thay thế USD trong thương mại giữa các nước, ở các thị trường mới nổi như châu Phi, đồng Nhân Dân Tệ đã được các nước sử dụng làm đồng tiền dự trữ thay cho USD 7.4.3 khả năng đồng CNY thay thế USD Thực tế, rất ít ngoại tệ đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để trở thành đồng tiền dự trữ cho toàn cầu. Và thường thì trong mỗi giai đoạn nhất định chỉ có 1 đồng tiền đóng vai trò này. Từ năm 1816 đến 1914 là đồng Pound của Anh, từ 1914 đến nay là đồng USD của Mỹ. Chúng ta hãy so sánh một vài đặt tính của RMB với USD và Pound để trả lời câu hỏi tại sao đồng Nhân Dân Tệ dù có nhiều lợi thế vẫn chưa thể soái ngôi USD được. Sự cần thiết: ở thế kỉ 19, nước Anh gần như độc quyền trong việc buôn bán các sản phẩm công nghiệp & cung cấp vốn cho việc công nghiệp hóa ở các quốc gia khác. Cả thế giới đổ dồn đến Anh để mua bán, để vay tiền & có thể trả bằng Bảng Anh hoặc vàng. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Mỹ là nước chiến thắng thay thế Anh trở thành chủ nợ của thế giới. GNP của Mỹ chỉ có 10% đến từ xuất khẩu. 1 nền kinh tế năng động & hùng mạnh như Mỹ thu hút rất nhiều nhà đầu tư muốn làm ăn với Mỹ, vì vậy nhu cầu của USD luôn rất cao. Ngược lại, Trung Quốc chủ yếu giữa vào xuất cảng hàng hóa sang các nước khác & phải chấp nhận sử dụng các đồng tiền USD, EURO, YEN trong việc thanh toán để đẩy mạnh xuất khẩu. Hơn nữa, việc Trung Quốc tích lũy quá nhiều USD khiến họ buộc phải đem USD cho vay. Vì vậy, không nước nào cần đồng RMB để mua hàng của Trung Quốc & trả những khoản nợ cho Trung Quốc, khiến cho sự cần thiết của việc dự trữ RMB là kém xa USD. Thanh khoản: theo số liệu thống kê năm 2006 thì Mỹ chiếm 38% của thị trường vốn thế giới, còn Trung Quốc chỉ chiếm 4%. Từ năm 2006 đến nay mối quan hệ này vẫn chưa thay đổi nhiều, thị trường cho đầu tư bằng USD vẫn lớn gấp 10 lần thị trường để đầu tư bằng RMB. Đặt biệt, thị trường cho các công cụ nợ bằng đồng RMB rất kém thanh khoản & chưa phát triển. Sự sẵn có: để trở thành 1 đồng tiền dự trữ quốc tế, 1 đồng tiền phải luôn sẳn có ở các quốc gia trên thế giới. Nghĩa là quốc gia đó phải “ xuất cảng” tiền tệ SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 62  của mình trên 1 phạm vi rộng. Anh và Mỹ đều xuất cảng đồng tiền của mình thông qua việc đầu tư rộng khắp các quốc gia trên thế giới. Ngược lại Trung Quốc là nước xuất cảng hàng hóa & lại nhận rất nhiều nguồn vốn từ Mỹ & các nước khác đầu tư vào, trong khi đó việc đem tiền sang các nước khác đầu tư không quá thoải mái & phải được chính phủ cho phép. Nếu chính phủ còn duy trì chính sách như vậy thì sẽ còn rất lâu nữa đồng Nhân Dân Tệ mới có thể được dùng làm dự trữ ngoại hối ở các quốc gia khác. An toàn: để chọn 1 đồng tiền cho việc dự trữ ngoại hối, các quốc gia phải cân nhắc rất nhiều về hệ thống tài khóa & tiền tệ, khả năng phá giá đồng tiền, in tiền trả nợ hoặc vỡ nợ của đất nước đó. Trước năm 1971 khi còn chế độ tiền tệ bản vị vàng, đồng USD được qui đổi cố định 35$/oz vàng đem lại sự đảm bảo cho các quốc gia & tổ chức dự trữ USD. Sau khi hủy bỏ bản vị vàng, đồng USD vẫn được tín nhiệm là đồng tiền cho việc dự trữ ngoại tệ quốc tế đến nay đơn giản chỉ vì niềm tin của thế giới đối với nền kinh tế & chính trị Mỹ. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng & những khoản nợ nần báo động của chính phủ Mỹ thì niềm tin này phần nào đã bị sói mòn. Nhưng nếu nhìn vào lạm phát phi mã cộng với nền kinh tế & chính trị còn nhiều biến động của Trung Quốc thì hiện tại khó có nước nào dám dự trữ đồng Nhân Dân Tệ. Như vậy, mặc dù đồng USD cũng như kinh tế Hoa Kỳ đang suy yếu trông thấy và sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, nhưng vẫn còn là 1 khoảng cách quá xa để đồng Nhân Dân Tệ có thể đánh bại đồng USD và trở thành thànhđồng tiền cho việc dự trữ ngoại hối toàn cầu. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 63  PHẦN IV SỨC ÉP NÂNG GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ CỦA TRUNG QUỐC CHƯƠNG VIII: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HOÁI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ VẤN ĐỀ NÂNG GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ 8.1 Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến cán cân thương mại của Trung Quốc với Mỹ, EU và Nhật Bản Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp giá trị thực tế của đồng CNY so với các ngoại tệ khác đặc biệt với đồng USD để tạo lợi thế thương mại trong ngắn hạn. Có thể thấy trong thương mại quốc tế, nếu để lợi thế so sánh tự nó phát huy tác dụng theo đúng quy luật sẽ chậm hơn rất nhiều so với lợi thế có sự tác động của chính phủ để nhanh chóng tận dụng cơ hội thương mại thường xuyên xuất hiện và mất đi. Hình 2 cho thấy động thái điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng nhân tệ với đồng đô la Mỹ trong khoảng thời gian 1980-2010. Vào những năm 1980, tỷ giá giữa đồng CNY và USD đứng ở tỷ lệ 1 USD= 2 CNY. Năm 1994, Trung Quốc đã phá giá mạnh đồng CNY để đạt tới tỷ giá 1 USD = 8.5 CNY và tỷ giá mới này được giữ gần như cố định trong giai đoạn 1995-2005. Một điều có thể dễ nhận thấy là việc áp dụng tỷ giá hối đoái cố định thường đồng nghĩa với việc định giá thấp đồng tiền trong nước. Trong lĩnh vực tiền tệ, việc phá giá đồng tiền thường được gọi là chính sách của “người thu lợi từ người khác” cho nên thường bị các nước phản đối song Trung Quốc vẫn áp dụng và đã thu được những ảnh hưởng quan trọng. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 64  Hình 8.1 Biểu đồtỷ giá ngoại tệ của Trung Quốc / Hoa Kỳ Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế Giai đoạn tiếp theo, đồng CNY được điều chỉnh theo hướng định giá cao so với đồng USD. Vào tháng 7/2005, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng giá đồng CNY và tỷ giá giữa đồng USD và CNY vào thời điểm này là 1USD = 8.27CNY. Sau đó, Ngân hàng Trung ương tiến hành cải cách tỷ giá, cho phép thả nổi tỷ giá trong giới hạn biên độ 0.3% so với tỷ giá chính thức của Ngân hàng Trung ương. Đồng CNY đã lên giá 3.12% kể từ khi cải cách tỷ giá. Việc nâng giá đồng CNY gây bất lợi đối với hoạt động xuất khẩu. Trung Quốc đã tìm biện pháp để định giá danh nghĩa cao đồng CNY song lại cố gắng để giảm giá thực tế đồng tiền này mà các đối tác thương mại khó có thể phản ứng thích hợp. Với việc định giá thấp, Trung Quốc còn tạo hàng rào bảo hộ thương mại đối với thị trường trong nước trước việc mở cửa thị trường theo các cam kết trong WTO, đồng thời góp phần bảo vệ việc làm cho lao động trong nước. Để thực hiện được chế độ tỷ giá có sự khác biệt giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế, Trung Quốc đã có những biện pháp điều chỉnh và duy trì có hiệu quả rất cao. Hình 3 cho thấy tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng Nhân dân tệ với đô la Mỹ dao động trong khoảng 1USD = 6.77- 6.88 CNY song tỷ giá hối đoái thực tế dao động trong khoảng 1USD = 8.28 CNY SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 65  Hình 8.2 : Biểu đồ Tỷ giá hối đoái giữa Nhân dân tệ với đô la Mỹ tháng 1 và 2/2010 Nguồn: Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối đoái khá linh hoạt và gắn với tùng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời điểm cụ thể. Trong điều kiện đồng USD lên giá, Trung Quốc đã tìm cách để định giá đồng CNY thấp. Điều này làm cho Trung Quốc có lợi thế thương mại lớn so với Hoa Kỳ đồng thời cũng có lợi thế hơn so với các đối tác thưong mại khác của Trung Quốc thực thi chính sách neo giá đồng tiền nước đó vời đồng USD. Với cách thức này, Trung Quốc gần như đã khai thác triệt để lợi thế thương mại không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với các đối tác thương mại khác. Trong điều kiện đồng USD giảm giá vì Hoa Kỳ muốn cải thiện cán cân thương mại cũng như để giảm giá trị thực tế của lượng dự trữ đô la của Trung Quốc, Trung Quốc thực hiện chính sách neo buộc chặt hay nói cách khác cố định tỷ giá đồng CNY với đồng USD để tiếp tục làm giảm giá đồng CNY nhằm tăng lợi thế thương mại và tiến hành chuyển đổi một phần USD ra vàng để bảo hiểm giá trị của lượng dự trữ. Nghĩa là dù đồng USD ở vị thế nào chăng nữa, Trung Quốc đều có thể tận dụng triệt để cơ hội để tạo lợi thế thương mại cho mình. Điều này cho thấy Trung Quốc thường xuyên thực hiện việc giám sát sâu sát và chặt chẽ đối với những động thái “nhất cử, nhất YSVTH: T động” củ dụng để Bảng EARS 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 B giai đoạn đây lại c Quốc vớ H từ năm 1 rương Công a sự biến đ đưa ra các 8.1: Cán câ IMPORT 102.3 125.2 152.4 196.7 243.5 287.8 321.5 337.8 298.4 364.9 Nguồn: h ảng 1 cho 2001 – 20 ho thấy tr i Mỹ ngày ình 8.3 : B 985-2010 Danh ộng của đồ “kế sách” c n thương EXPO 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 ttp://www. thấy cán c 10 liên tục ong thời g càng tăng. iểu đồ Th 66 ng USD v ó lợi nhất. mại của M 2010 RT T 19.20 22.10 28.40 34.70 41.80 55.20 65.20 71.50 69.60 91.90 uschina.org ân thương đạt mức t ian đó, mứ ặng dư thư G à những ch ỹ với Trun RADE 121.50 147.30 180.80 231.40 285.30 343.00 386.70 409.30 368.00 456.80 /statistics/ mại của M hâm hụt lớ c thặng dư ơng mại c VHD: BS. ính sách tỷ g Quốc từ Đ BALAN -8 -10 -12 -16 -20 -23 -25 -26 -22 -27 tradetable. ỹ với Trun n. Ngược l thương m ủa Trung Bùi Quốc T giá do Mỹ năm 2001 ơn vị: Tỷ U CE 3.10 3.10 4.00 2.00 1.70 2.60 6.30 6.30 8.80 3.00 html g Quốc tr ại, hình 4 d ại của Tr Quốc với hái áp - SD % -68.39 -69.99 -68.58 -70.00 -70.69 -67.81 -66.27 -65.06 -62.17 -59.76 ong ưới ung Mỹ SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 67  Nguồn: Tương tự, chúng ta cũng có thể thấy cán cân thương mại của Trung Quốc với EU và Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Bảng 8. 2: Cán cân thương mại của EU với Trung Quốc từ năm 2006- 2010 YEARS IMPORT EXPORT TRADE BALANCE % 2006 194.932 63.794 258.726 -131.138 -50.69 2007 232.664 71.928 304.592 -160.736 -52.77 2008 247.933 78.417 326.35 -169.516 -51.94 2009 214.86 82.426 297.286 -132.434 -44.55 2010 281.86 113.106 394.966 -168.754 -42.73 Nguồn: Hình 8.4 : Biểu đồ Cán cân thương mại của EU với Trung Quốc từ năm 2006 – 2010 Nguồn: Bảng 8.3: Cán cân thương mại của Nhật Bản với Trung Quốc từ năm 2005-2009 Đơn vị: Tỷ Yên YE SVTH: T ARS IM 2005 2006 2007 2008 2009 Ng Hình 8.5 Ng 8.2 Sức phản ứn 8.2.1 Sứ 8.2.1.1 S M tăng giá Tr đang nằm rương Công PORT 11,975 13,784 15,035 14,830 11,436 uồn: http:/ : Biểu đồ uồn: http:/ ép của cá g của Tru c ép của c ức ép từ p ỹ có động bởi các ngu ước hết là trong dan Danh EXPOR 8, 10, 12, 12, 10, /www.stat. Cán cân t n /www.stat. c nước đố ng Quốc ác nước đ hía Mỹ cơ to lớn g yên nhân s nguyên nhâ h sách 5 n 68 T TR 837 794 839 950 236 go.jp/engli hương mạ ăm 2005 – go.jp/engli i với việc ối với việc ây sức ép au: n về chính ền kinh tế G ADE 20,812 24,578 27,874 27,780 21,672 sh/data/han i của Nhật 2009 sh/data/han nâng giá đ nâng giá buộc đồng trị. Nền ki lớn nhất th VHD: BS. BALANC -3 -2 -2 -1 -1 dbook/c11 Bản với T dbook/c11 ồng nhân đồng nhâ nhân dân t nh tế Trung ế giới. Thự Bùi Quốc T E ,138 ,990 ,196 ,880 ,200 cont.htm rung Quốc cont.htm dân tệ và n dân tệ ệ phải tiếp Quốc giờ c lực và th hái % -15.08 -12.16 -7.88 -6.77 -5.54 từ tục đây am SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 69  vọng về kinh tế, chính trị và quân sự của Trung Quốc luôn là một nguy cơ đối với Mỹ và là điểm nóng trong mối quan hệ giữa hai nước. Nước Mỹ rất lo ngại về sự lớn mạnh dường như không gì cưỡng lại nổi của Trung Quốc đã làm thay đổi cán cân quyền lực và ảnh hưởng không chỉ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, gây sức ép buộc đồng nhân dân tệ tăng giá, qua đó làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc là một cách từ chối tiếp tục “tiếp tay cho địch”. Về kinh tế, thâm hụt thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 232,5 tỷ USD trong năm 2006, mức thâm hụt lớn nhất mà Mỹ từng có đối với một đối tác thương mại. Trong khi đó thặng dư thương mại hàng năm của Trung Quốc vào thời điểm đó đã vượt 100 tỷ USD và dữ trự ngoại hối cũng trên 800 tỷ USD (theo nghiên cứu của Frankel 2006, Zhang and Pan 2004), vì thế các học giả Mỹ cho rằng đồng nhân dân tệ đã được định giá thấp hơn so với giá trị thực tế từ 15 đến 35% và cần phải tăng mức tối thiểu một lần là 15%. Về vấn đề Mỹ nóng vội như vậy trong việc gây sức ép Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ là do ba lý do chính sau. Thứ nhất, nhìn từ mục tiêu ngắn hạn, Trung Quốc chỉ cần liên hệ đến kế hoạch của Mỹ do Chính quyền Obama đưa ra là tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu trong vòng 5 năm tới, cũng như sự phụ thuộc cao độ vào xuất khẩu trong quá trình phục hồi của nền kinh tế Mỹ, thì đã có thể thấy việc các chính khách quan trọng của Mỹ gây sức ép với Trung Quốc, thị trường nhiều khả năng trở thành điểm đến xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Mỹ, yêu cầu Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ là rất rõ ràng. Thứ hai, cùng với suy thoái của kinh tế toàn cầu, con số thâm hụt tài chính khổng lồ của Mỹ cũng như tỷ lệ thất nghiệp trong nước Mỹ, khiến rất nhiều người Mỹ lo ngại về khoản trái phiếu Mỹ mà Trung Quốc có trong tay. Một mặt người Mỹ lo ngại Trung Quốc bất ngờ giảm bớt lượng nắm giữ trái phiếu sẽ tạo ra đòn tấn công rất lớn đối với nền kinh tế Mỹ. Mặt khác cũng lo ngại sự gia tăng trái phiếu Mỹ mà Trung Quốc nắm giữ trong tay sẽ khiến cho sự phụ thuộc tài chính của Mỹ vào Trung Quốc gia tăng. Vậy là gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá, khiến cho giá trị trái phiếu Mỹ mà Trung Quốc có SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 70  trong tay thu hẹp ở mức độ lớn, trở thành biện pháp chiến lược quan trọng để Mỹ giảm bớt nợ nần. Thứ ba, đồng nhân dân tệ đang tiến theo phương hướng thực hiện tự do chuyển đổi và trở thành đồng tiền quốc tế quan trọng, điều này không chỉ khiến cho nhu cầu của quốc tế đối với đồng đôla Mỹ giảm mạnh, mà khá nhiều nước có kim ngạch mậu dịch lớn với Trung Quốc, trong đó bao gồm ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga do ngày càng nhiều giao dịch thương mại được thanh toán bằng đồng nhân dân tệ, cho nên giảm bớt sự lệ thuộc vào đồng đôla Mỹ, từ đó khiến cho địa vị quốc tế của đồng đôla Mỹ, thực tế cũng chính là địa vị bá chủ toàn cầu của Mỹ chịu sự đe dọa nghiêm trọng. Vì thế, đối mặt với Trung Quốc ngày càng trỗi dây, kiên trì vấn đề tỷ giá đồng nhân dân tệ, ép Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ, gây sức ép đối với đồng nhân dân tệ, bảo vệ địa vị đồng tiền quốc tế của đồng đôla Mỹ, có thể nói là sự lựa chọn tất yếu của Mỹ. 8.2.1.2 Sức ép của các tổ chức và quốc gia khác Sau Mỹ, đến lượt những nước đang phát triển như Brazil và Ấn Độ cũng cho rằng Trung Quốc nên bắt đầu thay đổi chính sách đối với đồng nhân dân tệ. Sự tăng giá của đồng nhân dân tệ rất cần thiết đối với sự cân bằng của kinh tế thế giới. Nếu Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ, tác động tích cực sẽ sớm xuất hiện. Nếu một số nước kiểm soát tỷ giá hối đoái và cố giữ chúng ở mức thấp, những tác động tiêu cực sẽ rơi vào các nước thả nổi tỷ giá. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng lên tiếng ủng hộ Mỹ trong việc kêu gọi Trung Quốc xem xét nâng giá trị nhân dân tệ. Bởi theo đánh giá của IMF, chính sách thương mại của Trung Quốc có bất lợi cho các nền kinh tế khác. Chỉ riêng việc giữ giá nhân dân tệ ở mức thấp cũng đã ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động xuất khẩu của các nền kinh tế đang phát triển khác, chứ không chỉ riêng với Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Tại hội nghị thượng đỉnh Âu - Á mới đây, Chủ tịch EU và Chủ tịch Ủy ban châu Âu nhấn mạnh với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo rằng châu Âu mong muốn Bắc Kinh phải ấn định một tỉ giá chuyển đổi nhân dân tệ tương xứng với đồng euro để tránh hạn chế xuất khẩu của châu Âu và từ đó tăng trưởng của châu Âu không bị ảnh hưởng. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 71  8.2.2 Phản ứng của Trung Quốc Nhằm dung hòa lợi ích, ngày 21/7/2005, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, sau gần một thập kỷ cố định tỷ giá đồng nhân dân tệ với đồng USD trong một khung dao động rất hẹp là 8,26 - 8,28 USD/nhân dân tệ kể từ năm 1996, đã chuyển sang cơ chế tỷ giá mới linh hoạt hơn, giá đồng nhân dân tệ đã tăng thêm 2,11% ở mức 8,11 tệ đổi được 1 USD. Nguyên nhân Trung Quốc đưa ra mức tăng 2.11% có lẽ một phần là do “tính cách” của người Trung Quốc luôn theo đuổi các cuộc cải cách tiệm tiến theo kiểu “dò đá qua sông”. Trên thực tế, từ phía Trung Quốc cũng có một đề xuất tăng giá đồng nhân dân tệ thêm 5% nhưng bị bác bỏ vì theo tính toán mức tăng này sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng 1,4%, đồng thời giảm chỉ số giá tiêu dùng 1,4% - một nguy cơ dẫn tới thiểu phát. Phía Trung Quốc tính toán rằng mức nâng giá 2,1% đủ để làm cho Mỹ và các đối tác thương mại của Trung Quốc “hạ hỏa”, đồng thời báo hiệu rằng đồng nhân dân tệ sẽ còn được điều chỉnh trong tương lai. Trung Quốc cũng đưa ra lập luận phản bác quan điểm của Mỹ cho rằng Trung Quốc đóng góp ¼ thâm hụt thương mại của Mỹ và có dự trữ ngoại hối quá lớn. Theo phía Trung Quốc, Trung Quốc thặng dư thương mại với Mỹ là do việc nhập khẩu tăng chậm chứ không phải xuất khẩu tăng nhanh do các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ là máy móc, thiết bị mà nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng này đã gần như bão hòa trong thời điểm đó. Ngoài ra, tuy Trung Quốc có thặng dư thương mại với Mỹ hơn 200 tỷ USD năm 2006 nhưng lại thâm hụt thương mại với hầu hết các quốc gia khác. Còn về vấn đề dữ trữ ngoại hối lớn, Trung Quốc giải thích rằng nguồn dự trữ ngoại hối lớn có nguồn gốc từ nguồn tiền nóng chảy vào trong nước nhằm thu lợi ích tức thời khi đồng nhân dân tệ lên giá. Vì vậy, nguồn dự trữ ngoại hối này không phải là nguồn vốn đầu tư dài hạn và có thể chảy ra nước ngoài bất cứ lúc nào. Trong khoảng thời gian 3 năm đến tháng 7/2008, Trung Quốc đã thả nổi đồng nhân dân tệ nên đồng nhân dân tệ tăng giá 21% so với đồng USD thế nhưng sau đó lại neo tỷ giá trở lại. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 72  Đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ phía Mỹ, chính phủ Trung Quốc cũng đã có những đòn đáp trả, như phản đối Chính phủ Mỹ lợi dụng tỷ giá đồng đôla Mỹ làm công cụ chiến lược đối phó với Trung Quốc. Bên cạnh đó, phía Trung Quốc cũng cho rằng việc nhân dân tệ tăng giá cũng không “cứu” được nền kinh tế Mỹ. Cụ thể: Thứ nhất, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc không mang tính cạnh tranh với Mỹ, các chủng loại hàng hoá do Trung Quốc sản xuất về cơ bản Mỹ không có. Trong hàng nghìn tỷ USD nhập khẩu của Trung Quốc mỗi năm, lượng hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 2,5% và hầu như đều được nhập từ các nước láng giềng. Do vậy, nhân dân tệ tăng giá không có tác dụng thúc đẩy Trung Quốc nhập khẩu hàng hoá từ Mỹ. Thứ hai, chính sách “tăng giá ôn hoà” đồng nhân dân tệ cũng sẽ không làm thay đổi giá cả hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ. Một cơ quan nghiên cứu của Nhật Bản dự báo nhân dân tệ tăng giá không có tác dụng nhiều đối với việc hạn chế nhập khẩu cũng như giải quyết nạn thất nghiệp tại Mỹ vì giá trị của nhân dân tệ tăng lên 1% thì giá hàng hoá nhập khẩu của Mỹ cũng chỉ tăng khoảng 0,3%. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 73  CHƯƠNG XI TÁC ĐỘNG CỦA NÂNG GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 9.1Về lĩnh vực xuất khẩu Nhân dân tệ tăng giá, thì hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ trở nên đắt hơn, và làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc. Đây sẽ là một cơ hội đối với ngành xuất khẩu của Việt Nam để thâm nhập vào thị trường Trung Quốc đặc biệt là nếu các khoản trao đổi đó được thanh toán bằng đô la. Qua đó Việt Nam có thể hy vọng giảm bớt thâm hụt mậu dịch đối với bạn hàng Trung Quốc. Một yếu tố khác khiến Việt Nam cần suy nghĩ đó là với một đơn vị tiền tệ cao hơn, trong tương lai xa, bộ máy công nghiệp của Trung Quốc sẽ được nâng cao về mặt chất lượng: giá thành của Trung Quốc cao hơn so với các nước chậm phát triển khác, như vậy Trung Quốc sẽ từng bước đưa ngành công nghiệp hướng đến với những sản phẩm có trị giá gia tăng cao hơn. Cụ thể là trước khi nâng giá nhân dân tệ vào năm 2005, ngành dệt may mang về từ 70 đến 75% thặng dư mậu dịch cho Trung Quốc. Sau công cuộc cải tổ tiền tệ đó, tỷ trọng này đã giảm đi đáng kể, đồng thời Trung Quốc đã đẩy mạnh khu vực sản xuất trang thiết bị và điện tử để trở thành một trong những nhà cung cấp máy vi tính, màn ảnh tivi, hay xe hơi … then chốt của thế giới. Tóm lại, việc Trung Quốc nâng giá nhân dân tệ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại Việt Trung, đến tổng kim ngạch đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam mà về lâu dài nó còn tác động cả đến chiến lược phát triển của Việt Nam một khi Trung Quốc cân bằng lại chính sách phát triển của họ, tức là vừa chú trọng hơn đến tiêu thụ nội địa, vừa nâng cấp cỗ máy sản xuất. 9.2 Về lĩnh vực nhập khẩu: Theo các thống kê của Việt Nam, trong một thập niên qua, tổng trao đổi mậu dịch hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng đều đặn ở nhịp độ SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 74  30% một năm. Cho dù trong một số lĩnh vực, như lương thực, hay thủy sản, tỷ trọng của Trung Quốc hãy còn khiêm tốn. Năm ngoái, bất chấp khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu, tổng kim ngạch thương mại hoa nước đạt 21 tỷ đô la tăng gần 6% so với tài khóa 2008. Việt Nam bị nhập siêu đối với Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu làm gia công như ngành dệt may, da giày... mà phần lớn nguyên liệu nhập từ Trung Quốc. Sức thuyết phục của nguồn nguyên liệu từ thị trường này trước hết là giá rẻ, nguồn hàng dồi dào và đa dạng. Vì thế, nhiều chuyên gia cho rằng, dù nhân dân tệ tăng giá nhưng các DN Việt Nam vẫn không thể giảm nhập khẩu từ Trung Quốc, thậm chí còn coi đây là sự lựa chọn có lợi hơn so với các nguồn khác trong ngắn hạn. Giá nhập khẩu đầu vào cao, nhất là các nguyên phụ liệu sản xuất, máy móc, trang thiết bị nhập khẩu chính ngạch, thì sản phẩm làm ra cũng đắt theo. Vì thế, trước mắt, với sự điều chỉnh nhỏ, các doanh nghiệp vẫn có thể chịu đựng được. Tuy nhiên, một chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Công Thương cho rằng, với sức ép từ các đối tác thương mại lớn, vấn đề tăng giá nhân dân tệ còn đặt ra yêu cầu trong quan hệ chính trị. 9.3 Về đầu tư Trong lĩnh vực đầu tư, Trung Quốc cũng là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam. Đến cuối tháng ba vừa qua, Trung Quốc đã có trên 700 dự án đang hoạt động ở Việt Nam với tổng số vốn đăng ký gần ba tỷ đô la. Trên thực tế, tính cho đến nay, đã có hơn 800 dự án của quốc gia láng giềng này hoạt động ở Việt Nam, để tận dụng chi phí nhân công rẻ, tài nguyên phong phú và vị trí thuận tiện. Trong khi đó, có những nhận định cho rằng, khi Nhân dân tệ lên giá, khối tài sản của Trung Quốc sẽ lớn lên tương ứng và việc đầu tư ra nước ngoài sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. TS. Võ Trí Thành giải thích : “khi đồng tiền đắt lên thì quốc gia đó có khuynh hướng đẩy đầu tư của họ ra nước ngoài, tới các thị trường rẻ hơn. Về dài hạn, nếu Nhân dân tệ lên giá thì có thể Trung Quốc sẽ đầu tư mạnh hơn vào Việt Nam. Tuy nhiên, vì đầu tư của Trung Quốc không phải công nghệ nguồn, có thể gây ô nhiễm môi trường” SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 75  Trong những năm gần đây dòng vốn đầu tư của Trung Quốc ngày càng tăng, nhưng vẫn chỉ chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong tổng vốn FDI vào Việt Nam. Tính trong 5 tháng đầu năm 2010, FDI đăng ký từ Trung Quốc chỉ là 67.8 triệu USD, chưa bằng 1% tổng FDI đăng ký (FDI đăng ký năm 2009 là 190 triệu USD cũng chưa bằng 1% tổng đăng ký). Các dòng vốn vay như ODA hoặc thương mại lại không phụ thuộc quá nhiều vào vấn đề tỷ giá, mà các yếu tố khác. Những khoản vay ưu đãi từ Trung Quốc luôn kèm với các điều kiện như nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, sử dụng lao động... Lợi ích từ những dòng vốn này lại tuỳ thuộc rất nhiều vào cách tiếp nhận của người đi vay. 9.4 Áp lực đối với lạm phát ở Việt Nam Những lo ngại về áp lực lạm phát khi CNY tăng giá không phải là không có cơ sở khi mà hàng tiêu dùng của Trung Quốc đang khá phổ biến ở thị trường Việt Nam. CNY tăng giá sẽ kéo theo giá của không ít mặt hàng nhập khẩu tăng theo. Tuy nhiên, liệu mức độ tăng giá có thực sự đáng lo ngại? Nhiều mặt hàng của Trung Quốc có lợi thế về giá vượt trội so với hàng Việt Nam. Việc điều chỉnh tỷ giá 0.44%, thậm chí 5% có thể sẽ không ảnh hưởng nhiều đến giá cả các mặt hàng Trung Quốc trên thị trường. Trên thực tế, CNY đã lên giá so với VND khá mạnh trong suốt thời gian qua, nhưng mức độ ảnh hưởng đến lạm phát không quá lớn. Ngoài ra, phần lớn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc là mặt hàng trung gian, tức là giá tăng không tác động trực tiếp lên giá hàng tiêu dùng. Mặt bằng giá hàng Trung Quốc chỉ có thể bị tác động đáng kể khi CNY tăng giá 10 – 20%. Tuy vậy, kịch bản này dường như khó diễn ra trong ngắn hạn. 9.5 Đánh giá về tác động của tăng giá nhân dân tệ đối với nền kinh tế Việt Nam Những ảnh hưởng thực sự khi đồng Nhân dân tệ tăng giá nhẹ đối với nền kinh tế Việt Nam là không lớn. Áp lực lạm phát từ giá cả hàng hoá nhập khẩu là không cao và tác động của tỷ giá lên dòng vốn đầu tư không phải là yếu tố quan trọng. Việc CNY được nâng giá cũng không giúp cải thiện tình hình nhập siêu đang ở mức rất cao từ Trung Quốc. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 76  Nếu mức tăng giá của CNY lên mức 10-20% thì mức độ ảnh hưởng sẽ khá lớn đối với các yếu tố trên. Tuy nhiên, kịch bản này dường như khó diễn ra trong ngắn hạn. Trung Quốc vẫn cần một tỷ giá ổn định và đồng CNY tương đối rẻ để hỗ trợ cho nền kinh tế. Trung Quốc cũng có đủ khả năng để duy trì một tỷ giá ổn định và lộ trình tăng giá CNY nếu diễn ra sẽ tương đối chậm. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 77  KẾT LUẬN Từ quá trình phân tích toàn diện về sự phát triển của Ngân hàng Trung Quốc có thể rút ra những kết luận sau: Thứ nhất: về cơ bản, quá trình phát triển, cấu trúc và các bước cải cách của Hệ thống Ngân hàng Trung Quốc là sự phát triển vượt bậc. Từ những bước đi trong quá trình tự do hóa lãi suất; không sữ dụng dự trữ bắt buộc làm công cụ tài trợ cho ngân sách; tăng cường cạnh tranh và tạo sân chơi bình đẳng, tích cực cơ cấu lại các Ngân hàng, nhất là các NHTMNN ; tách bạch tín dụng chỉ định ra khỏi hoạt động thương mại và giảm dần tín dụng chỉ định; cải cách chính sách tỉ giá và mở cửa tài sản vốn thận trọng trên cơ sở dần hoàn thiện khung pháp lý và các công cụ giám sát hoạt động của các Ngân hàng, kết hợp với cải cách thương mại một cách hợp lý. Cho thấy Trung Quốc đã có được một số bước tiến trong tiến trình cải cách hệ thống Ngân hàng của mình Tuy nhiên, những vấn đề, những điểm yếu hiện tại như: mối quan hệ Nhà nước- Ngân hàng – Doanh nghiệp mà nó được thể hiện qua tín dụng chỉ định và các dư nợ cho vay tại các DNNN vẫn còn lớn, sẽ làm cho mục tiêu xây dựng một hệ thống Ngân hàng thực mạnh, tạo ra làn sóng tăng trưởng mới gặp nhiều khó khăn hơn. Điều này có khả năng trở thành hiện thực hay không cần phải có thời gian để kiểm chứng Thứ hai: khi nhìn chi tiết hơn vào quá trình cải cách của Trung Quốc sẽ thấy được sự phát triển thần kì trong việc cải cách Ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát hoạt động Ngân hàng; Ngân sách nhà nước ít phụ thuộc vào các nguồn thu từ tài nguyên và thuế nhập khẩu SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 78  Mặc dù vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong năm 2010, nhưng theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế, Trung Quốc còn cả một quãng đường dài để cải thiện nền kinh tế, xứng đáng với vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới. Tuy nền kinh tế Trung Quốc phát triển như vũ bão, nhưng không nên quá đề cao chỉ số GDP bởi dân số hiện nay của Trung Quốc là 1,3 tỷ người, gấp 10 lần dân số Nhật Bản. Mặc dù GDP Trung Quốc vượt Nhật Bản, nhưng GDP đầu người lại chỉ bằng 1/10 của Nhật Bản. Thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2010 đạt 4.500 USD/năm, còn ở Nhật Bản, con số này vào khoảng 40.000 USD/người. Và mức thu nhập này có khoảng cách khá xa so với mức ở các nước phát triển. Vai trò của Trung Quốc đối với các vấn đề quốc tế ngày càng tăng và trách nhiệm của Trung Quốc cũng sẽ ngày càng nặng nề hơn. Trong hơn 30 năm qua, nhờ cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ và việc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thê giới phần nào khẳng định được bước tiến vượt bậc về kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, còn rất nhiều việc mà Chính phủ Trung Quốc cần phải làm để củng cố vị trí thứ hai cũng như đưa nền kinh tế Trung Quốc phát triển bền vững trong tương lai. Trung Quốc đầu tiên phải có trách nhiệm đối với 1,3 tỉ người dân của họ. Mặt khác, Trung Quốc không chỉ là người tham dự quan trọng của sự nghiệp phát triển toàn cầu, mà còn là người thúc đẩy quan trọng đối với sự nghiệp phát triển toàn cầu, mong muốn cùng với các nước trên thế giới thúc đẩy chương trình mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của LHQ, cùng thúc đẩy phồn vinh và tiến bộ của thế giới. SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 79  CÁC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Sơ đồ hệ thống Ngân hàng Trung Quốc SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 80  Phụ lục 2: Những sự kiện chính của hệ thống Ngân hàng Trung Quốc SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 81  SVTH: Trương Công Danh GVHD: BS. Bùi Quốc Thái 82  Tài liệu tham khảo Sách Chuyên khảo: Hệ thống Ngân hàng Trung Quốc – Cải cách và phát triển - NHNNVN Viện chiến lược Ngân hàng(07/12/2010) nam-nghien-cuu-so-sanh-voi-trung-quoc-7206/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_ngan_hang_trung_quocx_4897.pdf
Luận văn liên quan