Đề tài Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2012

Nâng cao năng lực về tài chính và khả năng quản trị của hệ thống Ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế là giải pháp cơ bản để đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững. Năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Thời gian vừa qua với nghị định 141/2006 quy định các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đến ngày 31/12/2010. Tuy nhiên các ngân hàng chưa thể thực hiện đồng bộ vì vậy NHNN phải hoãn thời gian tăng vốn điều lệ cho đến ngày 31/12/2011 (theo NĐ 10/2011). Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ xấu tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro đặc biệt là rủi ro thanh khoản. Đối với các NHTMNN, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn, đổi mới hình thức sở hữu, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động, làm nền tảng để duy trì sự ổn định và phát triển của cả hệ thống, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng. Đối với các NHTMCP, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động.

pdf38 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2907 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ an toàn hoạt động, kèm theo đó là thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010 sửa đổi bổ sung một số điều Thông tư 13. Với điểm 18 mấu chốt như tăng hệ số an toàn vốn từ 8% lên 9%, giới hạn chặt chẽ việc tham gia vào hoạt động chứng khoán và bất động sản của các NHTM với hệ số rủi ro cho các khoản vay thuộc hai lĩnh vực này là 250%, quy định cụ thể về tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động (80% đối với ngân hàng và 85% đối với các TCTD phi ngân hàng). Thời hạn hiệu lực của Thông tư là từ 01/10/2010 - đây là khoảng thời gian áp dụng khá ngắn so với những tiền lệ trước đó. Thông tư 13/2010/TT-NHNN ra đời thay thế cho Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/2005 đã loại bỏ quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn (Các ngân hàng thương mại được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Đối với các tổ chức tín dụng khác, tỷ lệ này là 30%. Nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn bao gồm tiền gửi (không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), tiền gửi tiết kiệm của cá nhân (không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), và nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn). Khác với giai đoạn ban hành Quyết định 457/205/QĐ-NHNN, Thông tư 13 được đưa ra trong bối cảnh vĩ mô không mấy thuận lợi, tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát kinh tế tăng cao làm cho việc đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn theo Thông tư 13 trở nên khó khăn với rất nhiều ngân hàng. Bên cạnh đó cùng với sự suy giảm của thị trường chứng khoán, cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh 18% trong năm 2010 làm kế hoạch huy động vốn tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ cuối năm 2010 của nhiều ngân hàng nhỏ không đạt được, làm mất đi bước đệm căn bản để thực hiện tiêu chuẩn CAR 9% của các ngân hàng này. Nếu so sánh với Thông tư 13 với những chỉ tiêu an toàn được ban hành trong giai đoạn trước đó thì có thể thấy đây thực sự là khung an toàn hoạt động kỳ vọng của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, việc đột ngột năng cao các chỉ tieu an toàn và gấp gáp trong yêu cầu tuân thủ đã làm nảy sinh phản ứng tiên cực từ phía các ngân hàng. Trước thời điểm ban hành Thông tư số 13, NHNN chưa có quy định cụ thể nào về hệ số (tỷ lệ) cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động (LDR) tối đa nên các NHTM vẫn thả cửa cho vay vượt mức huy động trong một thời gian dài, rất nhiều ngân hàng vừa và nhỏ duy trì tỷ lệ LDR cao trên 100%, đặc biệt một vài NHTM duy trì tỷ lệ này cao hơn 200%. Bảng 1. Tỷ lệ LDR ở một số NHTM Ngân hàng 2007 2008 2009 Ngân hàng Kiên Long (KienLongBank) 141% 132% - Ngân hàng Việt Á (VietABank) 125% 89% 110% 19 Ngân hàng Sài Gòn Công Thương (SaiGon Bank) 114% 110% 114% Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) 146% 107% 90% Ngân hàng Nam Á (NAB) 96% 109% 111% Ngân hàng Phương Đông (OCB) 130% 126% 126% Ngân hàng Đại Á (DaiABank) 144% 102% - Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank) 251% 209% 199% Ngân hàng phát triển nhà TP.HCM (HDBank) 251% 142% 87% Ngân hàng Thái bình dương (Pacific Bank) 266% 185% 145% Ngân hàng Đại Tín (Trust Bank) 267% 80% 133% Ngân hàng Việt Á (VAB) 125% 88% 111% Ngân hàng Á Châu (ACB) 57% 54% 71% Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) 80% 68% 99% Ngân hàng Sài gòn thương tín (Sacombank) 79% 75% 98% Ngân hàng Kĩ thương (Tecombank) 83% 65% 67% Nguồn: Th.s Lê Trần Duy Thư (2010), các NHTM Việt Nam với Thông tư 13 Thông tư 13 NHNN yêu cầu các NHTM phải duy trì tỷ lệ này ở mức độ dưới 80% và thời điểm hiệu lực sau 4 tháng công bố. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á như Hàn Quốc có lộ trình 4 năm cho việc giảm tỷ lệ LDR từ 110% từ đầu năm 2012 xuống dưới 100% vào năm 2014, Nepal có lộ trình 3 năm cho việc giảm LDR trong đó yêu cầu hạ tỷ lệ LDR từ 95% năm 2009 xuống 85% cuối năm 2010 và 80% cuối năm 2011 thì v iệc giảm tỷ lệ LDR của hệ thống NHTM Việt Nam xuống 80% theo yêu cầu của Thông tư 13 là khá đột ngột. Bảng 5. Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2002-2011) Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tín dụng/tiền gửi 91% 93% 99% 99% 91% 93% 95% 101% 101% 103% Nguồn: Ngân hàng phát triển nhà Châu Á, Fitch’s, Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) 20 Đây thực sự là giọt nước làm tràn ly đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ vốn tính kém thanh khoản đã tích lũy trong nhiều năm qua. Lúc này ngân hàng vừa và nhỏ khó có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường huy động để đẩy LDR giảm xuống vì việc cắt giảm các khoản đã cho vay ra khó khả thi vì không thể đáp ứng được về mặt thời gian. Việc giảm hệ số rủi ro từ 100% xuống còn 50% đối với các khoản vay thế chấp bất động sản (trong đó có cả cho vay kinh doanh bất động sản) trong những năm 2005-2010 và việc nâng hệ số rủi ro đối với những khoản vay bất động sản từ 50% lên 250% theo Thông tư 13 này cũng cho thấy tính kém nhất quán trong dài hạn đối với những chính sách do NHNN ban hành. Thêm vào đó, các món vay kinh doanh chứng khoán cũng được nâng hệ số rủi ro từ 150% lên 250% thực sự là một mức tăng khá lớn. Ngày 30/08/2011, Thông tư số 22/2011/TT-NHNN đã được ban hành để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Thông tư 22/2011/TT-NHNN đã cụ thể hóa định hướng đưa ra trước đó, chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung sau đó bởi Thông tư 19. Bên cạnh đó, Thông tư số 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi t ính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Theo định hướng Ngân hàng Nhà nước, việc điều chỉnh của thông tư 22 này nhằm tạo sự luân chuyển và điều hòa vốn giữa thị trường 1 và thị trường 2, giữa tổ chức tín dụng thừa và tổ chức tín dụng thiếu vốn, giúp các tổ chức tín dụng thiếu vốn có điều kiện tăng trưởng tín dụng trong giới hạn 20% và hạ được lãi suất cho vay. Trước đó, việc không đưa tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội, hay ngay cả phần vốn tự có… vào “vốn huy động” để tính tỷ lệ trên, hay ngay cả tiền vay tổ chức tín dụng nước ngoài về cho vay lại cũng bị giới hạn 80%... được các thành viên thị trường cho là bất hợp lý; thậm chí là lo ngại những nguồn vốn đó sẽ bị “nằm chết”. Với Thông tư 19 sửa đổi, bổ sung sau đó, tỷ lệ 80%/85% nói trên được xác định là từ vốn huy động, tức các nguồn khác đặc biệt là vốn tự có của tổ chức tín dụng không bị lệ thuộc vào giới hạn này. Bên cạnh đó, Thông tư 19 cũng đã xem xét lại việc tính thêm các nguồn vốn nói trên nhưng áp các hạn chế về kỳ hạn, hoặc chỉ cho tính một tỷ lệ thấp (như chỉ cho dùng 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế để cho vay)… Thông tư 22 ra đời sẽ góp phần tháo gỡ những khó khăn cơ bản cho hệ thống ngân hàng, nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và giảm lãi suất. Về tổng dư nợ tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cấp tín dụng tối đa chỉ từ 80-85% từ nguồn vốn huy động như thông tư 13 trước đây đã khiến cho một lượng vốn khá lớn bị “giam” lại trong hệ thống ngân hàng, khiến các ngân hàng không thể phát triển tín dụng mà chỉ sử dụng được số tiền bị giam này dưới dạng tiền gửi tại NHNN hoặc đầu tư vào 21 các loại trái phiếu với lãi suất không hấp dẫn. Trong khi đó, chi phí vốn của các ngân hàng đã bị đội lên một khoản không cần thiết do vẫn phải trả lãi khá cao cho người gửi tiền cho khoản vốn huy động bị giam này. Theo ước tính thì tổng vốn huy động của nền kinh tế tính đến hểt tháng 7/2011 vào khoảng 2,3 triệu tỷ đồng. Như vậy, với 20% vốn được giải phóng, ước tính hệ thống ngân hàng sẽ có thêm khoảng 460.000 tỷ đồng để phát triển tín dụng với chi phí vốn rẻ hơn. Việc bao nhiêu trong số 460.000 tỷ đồng này được bơm thêm vào nền kinh tế còn phụ thuộc vào giới hạn tăng trưởng tín dụng mà NHNN đặt ra trong năm nay (dưới 20%) cũng như mức lãi suất mà các doanh nghiệp chấp nhận khi vay vốn, tuy nhiên dù sao việc các ngân hàng có thêm nguồn vốn khả dụng cũng là tín hiệu tích cực cho dòng chảy tín dụng. Giải quyết vấn đề thanh khoản cho ngân hàng nhỏ, tránh việc chạy đua lãi suất. Trong 8 tháng đầu năm 2011, một trong những lý do khiến lãi suất luôn ở mức cao là do thanh khoản của các ngân hàng nhỏ vẫn chưa được đảm bảo, khiến các ngân hàng này luôn phải chật vật huy động vốn bằng cách đẩy lãi suất huy động lên cao, buộc các ngân hàng lớn cũng phải tham gia vào cuộc đua lãi suất. Với việc ban hành thông tư 22, thanh khoản của các ngân hàng nhỏ sẽ được đảm bảo tốt hơn, giúp cho lãi suất huy động của cả hệ thống ngân hàng sớm bình ổn trở lại – tiền đề để thực hiện mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Ước tính thì tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế hiện đạt khoảng 2,4 triệu tỷ đồng (tăng khoảng 8% so với thời điểm cuối năm 2010). Như vậy, nếu tăng trưởng tín dụng đạt mục tiêu 20% như NHNN đề ra thì tổng dư nợ tín dụng vào cuối năm 2011 sẽ vào khoảng gần 2,7 triệu tỷ đồng. Khi đó, với dư nợ của lĩnh vực phi sản xuất vào thời điểm cuối tháng 5/2011 khoảng 390 nghìn tỷ đồng (tương đương 17% tổng dư nợ tín dụng) thì tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất vào thời điểm cuối năm 2011 sẽ chỉ còn trên 14% (dưới mức mục tiêu 16% mà NHNN đề ra). Như vậy, khả năng toàn bộ hệ thống ngân hàng phải thắt chặt thêm vốn nhằm đưa tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống dưới 16% sẽ không cần thiết nữa (tất nhiên điều này loại trừ đối với một số ngân hàng nhỏ, mang tính riêng lẻ vẫn còn tỷ trọng cho vay phi sản xuất ở mức cao). Không những được hưởng lợi từ việc tín dụng không bị thắt chặt thêm, việc mặt bằng lãi suất ở mức thấp hơn (17-19%) cũng sẽ mang đến nhiều thuận lợi cho thị trường chứng khoán và bất động sản. Tuy nhiên, để hai lĩnh vực này hồi phục thật sự mạnh mẽ thì lãi suất sẽ phải giảm xuống mức sâu hơn nữa (13-15%). Do vậy, nhìn chung, với thông tư 22 được NHNN ban hành, thị trường chứng khoán và bất động sản sẽ có thêm nhiều hi vọng để hồi phục, đưa mặt bằng lãi suất giảm xuống mức 17-19% và hi vọng có thể có mức giảm sâu hơn nữa. 22 2.1.2 Các chính sách khác Quý I/2008 khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNN bắt đầu sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua việc tăng Lãi suất cơ bản (LSCB), tăng dự trữ bắt buộc (DTBB). Tháng 1/2008, NHNN ra Quyết định 187 về việc điều chỉnh DTBB đối với TCTD. Theo đó, kể từ tháng 2-2008, tỷ lệ DTBB đã tăng thêm 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện tại. Cụ thể, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ DTBB được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ DTBB được tăng từ 4% lên 5%. Tháng 3.2008 phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc, LSCB liên tục được điều chỉnh tăng từ 8,25% lần lượt lên 8,75%,10%,11%,12% và tới mức 14% vào vào tháng 6.2008, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Theo NHNN, mục đích của việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc lần này nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, vô hình chung, biện pháp này của NHNN đã đẩy NHTM vào tình thế khó khăn thanh khoản. Thực tế cho thấy, bảy tháng đầu năm 2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi VND liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm1. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn luôn bị những áp lực rất căng thẳng. Mặc dù từ quý IV/2008 đến đầu năm 2009, NHNN thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng, nhưng trước tình trạng dư nợ tín dụng có dấu hiệu tăng mạnh hơn chỉ tiêu định hướng cho cả năm 2009 là 30%, thì từ tháng 6.2009 đến đầu năm 2010, dù không tuyên bố là đã chuyển sang chính sách tiền tệ thắt chặt, nhưng những động thái của NHNN rõ ràng là có những biểu hiện của việc thắt dần tiền tệ dưới định hướng là “chủ động ngăn ngừa lạm phát”. Đó là việc chỉ đạo các NHTM nhà nước không được tăng trưởng tín dụng quá 25%, các ngân hàng khác phải kiểm soát tốc độ tăng trưởng. Đồng thời NHNN cũng thông báo là sẽ kiểm soát chặt lượng cung tiền qua thị trường mở. Chỉ đạo không được dùng vốn cho vay đầu tư bất động sản và các hoạt động đầu tư tài chính cũng là một biện pháp để kiềm chế mức tăng trưởng tín dụng. Những biện pháp này của NHNN đã kiềm chế được mức tăng dư nợ ở mức 37,7% (đã có dự báo là tăng trên 40%), đồng thời góp phần kiềm chế mức tăng CPI (cả năm chỉ tăng 6,88%), nhưng tình hình lãi suất và 1 Tham khảo tại: 23 cung ứng vốn cho nền kinh tế lại đang có vấn đề. Lãi suất huy động VND liên tục trong xu thế bung hết trần. Từ 1.12.2009, lãi suất cơ bản đã lên 8% và Hiệp hội ngân hàng đã họp thống nhất khống chế trần lãi suất huy động là dưới 10,5%/năm thì lãi suất huy động cao nhất đã lên tới 10,499%/năm, lãi suất các kỳ hạn ngắn, trung và dài hạn đang xích lại gần nhau và hướng đến mức lãi suất trần tối đa được phép. Lãi suất liên ngân hàng lên 12%/năm và có nguy cơ “tăng tiếp”. Đó là những con số công bố chính thức, còn trong thực tế thì nhiều khoản tiền gửi lớn của tổ chức và dân cư, bằng cách này hay cách khác, đang được nhiều NHTM lôi kéo, níu giữ bằng các hình thức thưởng đã khiến cho lai suất thực lớn hơn lãi suất danh nghĩa ghi trên biểu lãi suất mà các NHTM niêm yết từ 1- 2%/năm. Đầu năm 2010, đã có nhiều ý kiến cho rằng tín dụng đang đóng băng, thực tế thì không hẳn vậy, tín dụng vẫn gia tăng một cách hạn chế nhưng không đồng đều cho các đối tượng và mọi thành phần, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng hiện vẫn là ưu thế của đa số các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu, và những dự án lớn của một số doanh nghiệp nước ngoài. Nhiều ngân hàng đã nói không với khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân từ 2, 3 tháng nay. Ghé vào các phòng giao dịch của nhiều NHTM chỉ thấy làm công việc huy động vốn và chuyển tiền, dù trên quầy vẫn đầy quảng cáo cho vay tiêu dùng nhanh chóng, thuận tiện. Hỏi bao giờ cho vay lại khách hàng thì đều nhận được câu trả lời chưa biết khi nào. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết, phải đi vay vốn bên ngoài với lãi suất cao. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM thời gian gần đây cho thấy chức năng tập trung và phân phối lại vốn cho nền kinh tế đang có chiều hướng suy giảm. Dòng vốn tín dụng được xem như máu trong cơ thể nền kinh tế đang vừa bị thiếu và ách tắc cục bộ thì khó có một cơ thể kinh tế khoẻ mạnh. Đã có ý kiến cho rằng NHNN lại đang có phần quá đà trong ngăn ngừa lạm phát. Tuy nhiên, đến cuối năm 2008, đầu 2009, nhằm mục đích ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc cho vay đối với các dự án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ. NHNN lại ra Quyết định số 379 về giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Theo đó, dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại nhà nước, Vietcombank, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính áp dụng mức dự trữ bắt buộc là 1% trên tổng số dư tiền gửi. Riêng năm 2011, mục tiêu số 1 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, 4 tháng đầu năm 2011, NHNN tiếp tục thực thi và giám sát gắt gao việc thắt chặt tiền tệ. 24 Công cụ đầu tiên mà NHNN thực hiện là lãi suất: 3/3/2011, NHNN ban hành Thông t 02/2011/TT-NHNN quy đnh v lãi sut huy đng vn ti đa bng đng Vit Nam ca các TCTD và chi nhánh ngân hàng nc ngoài. Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Trong khi đó, nguy cơ về tăng dự trữ bắt buộc cũng có thể sẽ xảy ra khiến nỗi lo thanh khoản của các ngân hàng ngày càng lớn. Hai lần liên tiếp trong hơn một tháng đầu năm 2011, NHNN đã tăng các lãi suất chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn cung tiền từ NHTW bị thắt chặt mạnh mẽ khiến cho những ngân hàng nhỏ - vốn trông đợi nhiều từ nguồn này - rơi vào tình thế khó khăn và đối mặt với nhiều rủi ro về thanh khoản. Không còn cách nào khác, các ngân hàng phải áp dụng biện pháp cũ nhưng dễ và hiệu quả: Tăng lãi suất huy động để hút vốn nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt. Mặc dù NHNN đã luật hóa bằng Thông tư 02/TT-NHNN ngày 3/3/2011 cấm huy động lãi suất quá 14%, và tất cả các ngân hàng đã thực hiện đúng khi đều niêm yết ở mức tối đa cho phép. Tuy nhiên, một thị trường đầy biến động đang ẩn sau những bảng niêm yết lãi suất - tưởng là bình lặng đó. Đầu tiên là việc các ngân hàng bằng mọi cách liên tiếp tăng trần lãi suất huy động. Người dân có tiền đi gửi tại các ngân hàng hiện nay - nếu có số dư ít thì nhận được những khuyến mãi khá lớn, nếu có số dư lớn trên 500 triệu thì hoàn toàn có thể thỏa thuận đẩy mức lãi suất vượt rào lên trên 17%. NHNN đã cảnh báo, kiểm tra và xử lý một vài trường hợp, song thực tế, vẫn có nhiều cách để lách. Tuy nhiên, theo một chuyên gia ngân hàng, hiện nay, nguồn vốn đổ vào các nhà băng vẫn không có nhiều dấu hiệu khả quan. Người gửi tiền vẫn có xu hướng gửi ngắn hạn và chờ đợi những cơ hội rút tiền ra đầu tư hay gửi ở nhà băng khác có lãi suất cao hơn. Như một lẽ thường tình, vì cần vốn, các ngân hàng nhỏ rất dễ "nổ phát súng" mở đầu cuộc đua tăng lãi suất. Một chuyên gia từ Hiệp hội Ngân hàng thừa nhận, việc NHNN điều chỉnh tăng một loạt mức lãi suất gần đây đã có tác động gián tiếp đến lãi suất cho vay của các NHTM lớn trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng lớn có nguồn tiền mặt đang tăng lãi suất trên thị trường này để kiếm lãi, trong khi nhu cầu vốn đáp ứng thanh khoản trước mắt của các ngân hàng nhỏ rất lớn do vay lãi suất liên ngân hàng qua đêm có lúc lên đến 16-17%/năm, thậm chí 17-20%/năm. Do vậy, huy động lãi suất không kỳ hạn của dân cư 9-12%/năm đối với các NHTM vẫn lợi hơn là vay liên ngân hàng lãi suất cao. Đó có thể là lý do đơn giản nhưng cũng là bản chất của việc lãi suất tăng huy động vào thời điểm ba tháng đầu năm 2011. Kỳ hạn 1 tháng lãi suất có lúc lên đến 23%/năm. Điều này cho thấy, thị trường liên ngân hàng vẫn 25 tiếp tục căng thẳng, các ngân hàng tiếp tục khó khăn về vốn và đang chấp nhận những khoản vay với lãi suất cắt cổ để đảm bảo an toàn cho chính mình. Và như một hệ quả tất yếu, để thu hút vốn của người dân, sau khi tăng mạnh lãi suất không kỳ hạn, nhiều ngân hàng cũng nâng lãi suất kỳ hạn tuần lên sát trần 14%/năm. Với CPI tháng 4/2011 tăng tới 3,32% so với tháng trước, mức tăng cao nhất kể từ tháng 3/2008, và tăng 9,64% so với tháng 12/2010, vượt xa mức chỉ tiêu 7% cho cả năm được Quốc hội phê duyệt, nhiều NHTM đã dùng nhiều biện pháp “phá trần lãi suất huy động” lên trên 17%/năm, thậm chí có nơi lên tới 20%/năm. Tình hình vi phạm trần lãi suất tiếp diễn cho đến đầu tháng 9, khi Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 được ban hành, yêu cầu chấp hành quy định trần lãi suất huy động của các NHTM là 14%/năm đối với VND; huy động USD là 2%/năm đối với cá nhân và 0,5%/năm đối với tổ chức. Chỉ thị 02/CT-NHNN cũng nêu rõ những biện pháp xử lý đối với các NHTM cố tình vi phạm trần lãi suất huy động nhằm xác lập lại kỷ luật thị trường. Tuy nhiên, một số NHTM tiếp tục lách quy định này bằng cách áp dụng mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngày, tuần, khiến cho lãi suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Vì vậy, NHNN đã phải ban hành Thông tư 30/TT-NHNN ngày 28/9/2011, quy định rõ trần lãi suất huy động 14%/năm được áp dụng đối với tiền gửi VND có kỳ hạn 1 tháng trở lên, với kỳ hạn dưới 1 tháng và không kỳ hạn, lãi suất huy động tối đa là 6%/năm. Trước những hành động quyết liệt của NHNN, “chính sách trần lãi suất huy động” đã phát huy tác dụng theo đúng bản chất của nó. Đó là giúp xác định rõ những NHTM hoạt động không hiệu quả, sử dụng biện pháp cạnh tranh lãi suất huy động nhằm đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Ngày 06/12/2011, NHNN chính thức phát đi thông điệp hợp nhất 03 ngân hàng gồm: NHTMCP Sài Gòn (SCB), NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và NHTMCP Đệ Nhất (Ficombank) thành một ngân hàng. Trong thời gian hoạt động vừa qua, 3 ngân hàng này rơi vào tình trạng mất thanh khoản tạm thời chủ yếu do sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Với chủ trương đảm bảo trong quá trình tái cơ cấu không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng, mất an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã hỗ trợ thanh khoản cho 3 ngân hàng này. NHNN chỉ định BIDV tham gia toàn diện vào quá trình hợp nhất, thay mặt Nhà nước đại diện quản lý phần vốn hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng sáp nhập. NHNN cho biết, lợi ích của người gửi tiền được Nhà nước đảm bảo, quyền lợi của các cổ đông được giữ nguyên và các trách nhiệm, nghĩa vụ của các ngân hàng hợp nhất được chuyển giao theo đúng quy định của pháp luật. Chính vì vậy, lượng khách đến rút tiền do lo ngại tình hình mất thanh khoản của các ngân hàng hợp nhất đã không xảy ra, hoạt động của ngân hàng hợp nhất vẫn diễn ra bình thường. Tính đến thời điểm 30/9/2011, tổng tài sản của ba ngân hàng đạt 153.662 nghìn tỷ đồng, tổng vốn điều 26 lệ đạt 10.584 nghìn tỷ đồng; sau khi hợp nhất, ngân hàng hợp nhất có tổng tài sản đứng thứ ba và vốn điều lệ đứng đầu trong nhóm các NHTMCP. Vấn đề đáng quan tâm là, khi phân tích ba ngân hàng này dựa trên báo cáo tài chính và báo cáo thường niên năm 2010, các chỉ tiêu tài chính đều ở mức từ tốt đến rất tốt so với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống. Đặc biệt là ngân hàng Ficombank, các số liệu về tỷ lệ an toàn hoạt động đều đạt, thậm chí tốt hơn nhiều so với quy định theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Bảng 3. Các tỷ lệ an toàn hoạt động của Ficombank năm 2010 Một số chỉ tiêu an toàn hoạt động Tỷ lệ Chuẩn CAR 43,54% >=9% Tỷ lệ khả năng chi trả 20,38% >=15% Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động 22,4% <=80% Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung, dài hạn 0% <=30% Như vậy, chỉ trong một gần một năm 2011, tình hình tài chính, thanh khoản của các ngân hàng này bị giảm mạnh dẫn tới mất khả năng thanh khoản tạm thời là điều đáng phải xem xét. Ngoài nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế thì nguyên nhân lớn nhất là từ năng lực quản trị ngân hàng, đặc biệt là quản trị rủi ro còn yếu kém, hoặc những số liệu do ngân hàng này cung cấp chưa đáng tin cậy. Điều này cho thấy việc cảnh báo chưa kịp thời, cũng có nghĩa rằng chưa bám sát được thực tế hoạt động của các ngân hàng này. Nhìn tình huống hợp nhất 3 ngân hàng trên của Việt Nam, thấy rất rõ hiện tượng của một số ngân hàng trên thế giới trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2009: Các chỉ số đều ở mức an toàn (đặc biệt là chỉ số an toàn vốn tối thiểu vẫn ở mức trên 9%) nhưng lại không thể chịu nổi những căng thẳng thanh khoản. Trong năm 2012 tính thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện và tăng cường. Nếu như trong năm 2011 tỷ lệ cho vay/huy động vốn còn ở mức cao, từ mức 117% (tháng 01/2011) xuống còn ở mức 109% (tháng 10/2011, mức này xấp xỉ hai năm trước đó năm 2009 và năm 2010), thì đến năm 2012 tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND ở mức khoảng 95%. Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế từ tháng 04/2012 đến tháng 06/2012 có mức tăng âm so với đầu năm 2012 (tháng 4/2012 giảm -5,6%, tháng 5/2012 giảm -3,58%, tháng 6/2012 giảm -0,46%), sang tháng 9/2012 có mức tăng dương, cho thấy dấu hiệu phục hồi của các tổ chức kinh tế; mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 27 có quyết định giảm trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn các lần trong năm 2012 nhưng tiền gửi từ các tổ chức kinh tế tính đến tháng 9/2012 có mức gia tăng +3,19% so với đầu năm 2012. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong năm 2011 có lúc lên đến 30%, thì trong năm 2012 lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã giảm mạnh từ 10 - 11 %/năm. Chính sách tiền tệ đang từng bước nâng cao niềm tin cho thị trường. Nếu như trước đây người dân quan tâm đầu tư vào vàng, ngoại tệ, bất động sản... thì đã chuyển sang đồng nội tệ VND gửi vào ngân hàng. Đến cuối năm 2012, tiền gửi bằng ngoại tệ của dân cư tại ngân hàng giảm trên 13% so với thời điểm cuối năm 2011, tiền gửi nội tệ VND của dân cư tại ngân hàng tăng 36%, cho dù mặt bằng lãi suất huy động nội tệ VND của các ngân hàng thương mại có giảm hơn trước rất nhiều (giảm từ 3 đến 6%/năm). Trong lĩnh vực ngoại hối và tỷ giá, thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, cùng với các giải pháp phù hợp khác của Chính phủ đưa ra, đã góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu. Thành công lớn trong năm 2012 đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu đó là, năm đầu tiên kể từ năm 1993 đến nay, Việt Nam xuất siêu xấp xỉ 0,3 tỷ USD (kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2012 đạt 114,6 tỷ USD, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2012 đạt 113,79 tỷ USD) đã góp phần tích cực trong việc cải thiện cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại hối. Lãi suất huy động và cho vay đã giảm xuống theo định hướng của NHNN; phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và lạm phát. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng chậm và lạm phát thấp, ngay từ đầu năm 2012 NHNN đã định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay. Kết quả điều hành trong năm 2012 mức lãi suất huy động và cho vay giảm nhanh hơn dự kỉến của NHNN; lãi suất huy động giảm từ 3 - 6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5 - 9%/năm so với cuối năm 2011. Việc ngân hàng giảm lãi suất cho vay ở mức thấp là một trong những điều kiện làm giảm chi phí sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng. 2.2. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam Trở lại với câu chuyện rủi ro thanh khoản của ACB năm 2003, nếu trong trường hợp, ACB không kịp thời ngăn dòng tiền ra thì hậu quả thật khó lường, hoạt động kinh doanh của ACB có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì khách hàng rút tiền cùng một lúc và quá đột ngột, cung thanh khoản không thể đáp ứng cầu thanh khoản, Ngân hàng ACB có thể sẽ phải: Chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao; tiếp cận 28 với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ, phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay; đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập; mất uy tín dẫn đến mất khách hàng. Không chỉ vậy, trong trường hợp đặc biệt, rủi ro thanh khoản có thể đẩy ACB tới tình trạng mất khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản. Khi ACB mất đi khả năng thanh khoản thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ chính bản thân ngân hàng mà còn đối với khách hàng của các ngân hàng khác. Họ sợ rằng, ngân hàng nơi mình gửi tiền cũng có thể phá sản nên tìm mọi cách để rút tiền khỏi ngân hàng đó. Nếu niềm tin của công chúng bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng loạt ngân hàng khác cũng mất khả năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này của hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia. Trường hợp mấy tháng đầu năm 2008, cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM đã làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. NHNN Việt Nam đã hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm, đồng thời, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Dù lãi suất huy động tăng cao nhưng khả năng thu hút vốn của các NHTM Việt Nam xem ra không khả thi. Các giải pháp rút tiền từ lưu thông về tuy được coi là cần thiết nhưng với liều lượng “lớn và nhanh một cách gấp gáp” đã khiến thanh khoản của một số NHTM nhỏ bị giảm sút nghiêm trọng dẫn đến cuộc đua lãi suất giữa các NHTM bùng nổ, đẩy lãi suất huy động và cho vay liên tiếp kịch trần, lãi suất liên ngân hàng liên tục gia tăng kỷ lục, buộc các NHTM phải siết chặt các khoản cho vay ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Chi phí vốn cao cản trở các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thêm vào đó, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh khiến một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ, đình đốn, nợ xấu gia tăng. Trường hợp 3 tháng đầu năm 2011, kh i mà NHNN đã ra Quyết định lãi suất huy động tiền gửi là không vượt quá 14%, chúng ta lại tiếp tục chứng kiến cuộc chạy đua tăng lãi suất của các NHTM bằng những biện pháp “lách” luật của NHTM. Các NHTM tiếp tục huy động lãi suất chui bằng những chiêu khuyến mại dành cho khách hàng gửi tiền trên 12 tháng và là khách hàng quen của NHTM. Một số chiêu lách luật được các NHTM sử dụng như thông qua hình thức khuyến mại “cào là trúng”, đặc biệt là sản phẩm huy động VND đảm bảo bằng USD. Ngoài việc tăng lãi suất tiết kiệm lên kịch trần ở hầu hết các kỳ hạn nhưng Ngân hàng cổ phần Kiên Long còn tặng thêm balo du lịch, vali kéo, bộ chén, bộ ấm trà, đèn sạc cao cấp, quạt điều khiển từ xa, quạt hơi nước… cho khách hàng 29 gửi tiền. Ngân hàng Đông Á cũng làm tương tự với quà khuyến mại là áo mưa, bộ chén thủy tinh, túi du lịch… Nhà băng này còn bổ sung thêm ưu đãi về mua ngoại tệ để đi nước ngoài với các khách hàng gửi tiền có số dư ở mức nhất định. Còn Ngân hàng cổ phần Phương Tây tặng khách hàng gửi tiết kiệm những đồ vật có giá trị hơn như nồi cơm điện, lẩu điện, bếp điện từ, máy xay sinh tố, chảo không dính… Điều này không chỉ khiến các ngân hàng vướng phải các vấn đề liên quan đến pháp luật mà còn khiến các ngân hàng này gặp phải rủi ro với các sản phẩm huy động linh hoạt. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kỳ hạn “được rút gốc linh hoạt” và khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi”; “tiết kiệm lãi suất thả nổi” với đặc tính “cho phép khách hàng được rút trước hạn mà vẫn được hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫn”. Khi khách hàng rút trước hạn hay do thị trường có biến động hoặc khi tâm lý người gửi tiền bị tác động bởi các thông tin sai lệch, ngân hàng có thể sẽ rơi vào nguy cơ RRTK. Tuy nhiên, người gửi tiền vẫn có xu hướng gửi ngắn hạn và chờ đợi những cơ hội rút tiền ra đầu tư hay gửi ở nhà băng khác có lãi suất cao hơn. Hậu quả là hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm khoảng 30- 40%. Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội. 2.3. Nguyên nhân gây rủi ro thanh khoản và các nhân tố làm gia tăng mức độ rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây 2.3.1 Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng trong mấy năm gần đây: Thứ nhất, giữa tốc độ tăng vốn huy động và tốc độ tăng vốn cho vay của các NHTM mất cân đối. Điển hình như năm 2009, tốc độ tăng vốn cho vay lên tới 29,3%, cao hơn tốc độ tăng vốn huy động (22%). Cần lưu ý rằng, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng trong năm 2009 được NHNN khống chế ở mức 30%, nhưng cuối cùng đã vượt mức này và cao hơn so với tốc độ tăng vốn huy động. 30 Thứ hai, tốc độ tăng vốn huy động như trên không phải là thấp và lãi suất huy động đã bảo đảm thực dương, đúng theo nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, bởi lãi suất huy động thấp hơn tỷ suất lợi nhuận của một số kênh đầu tư khác. Trong khi lãi suất tiết kiệm tiền đồng trong năm 2009 chỉ khoảng 8%/năm, thì giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,2%, giá vàng tăng 35,1%, VN-Index tăng 86,02%. Mặc dù mức lãi suất tiết kiệm như trên không thấp, nhưng các ngân hàng vẫn khó thu hút lượng tiền tiết kiệm mới. Trong khi đó, một phần tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cao trong năm trước nay đáo hạn đã không được gửi lại tiết kiệm, mặc dù các NHTM đã tăng lãi suất huy động. Thứ ba , cơ cấu kỳ hạn đang mất cân đối. Trong điều kiện thị trường biến động nhanh, người có tiền gửi tiết kiệm thường chọn kỳ hạn ngắn. Do vậy, tỷ trọng huy động vốn kỳ hạn ngắn trong tổng số vốn huy động cao, trong khi nhu cầu vay vốn thường dài hơn, nên nhiều NHTM đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn vượt quá tỷ lệ quy định. Bên cạnh đó, mấy tháng đầu năm 2011, do NHNN đã kiểm tra những NHTM huy động với lãi suất vượt quá 14%/năm, nên một số NHTM đã giảm lãi suất huy động kỳ hạn dài theo quy định, nhưng lại tăng lãi suất huy động kỳ hạn ngắn để đáp ứng nhu cầu vay. Do vậy, mất cân đối cơ cấu kỳ hạn cũng tiềm ẩn rủi ro thanh khoản. Thứ tư, tình trạng vay mượn trên thị trường liên ngân hàng đang nóng lên cả về tổng giá trị giao dịch, lẫn lãi suất vay mượn. Thực tế này cho thấy, huy động từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội gặp khó khăn, nên một số NHTM đã đẩy mạnh việc vay mượn trên thị trường liên ngân hàng. 2.3.2 Nhân tố làm gia tăng rủi ro thanh khoản đối với các NHTM Việt Nam - Nhân tố khách quan: Đầu năm 2011, để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng công cụ lãi suất: Lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Khi lãi suất huy động được ấn định ở mức như vậy thì khả năng thu hút vốn từ dân cư đối với các NHTM đặc biệt là các NHTM quy mô nhỏ là vô cùng khó khăn. Chưa kể, khả năng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM cũng là một trong những nhân tố gây nên rủi ro thanh khoản cho NHTM Việt Nam. Ngoài ra có thể kể đến nguyên nhân khách quan khác như các tin đồn thất thiệt do đối thủ cạnh tranh tung ra nhằm gây khó khăn cho ngân hàng thương mại. Điển hình như vụ việc của Ngân hàng ACB kể trên. - Nhân tố chủ quan: 31 Dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin. Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của NHNN Việt Nam. Trong bối cảnh đó, khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt VND khá lớn từ lưu thông thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư. Các NHTM đã không thực hiện chính sách quản trị rủi ro thanh khoản một cách khoa học và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng. III. GIẢI PHÁP Đảm bảo tính thanh khoản không chỉ giúp cho bản thân NHTM hoạt động ổn định mà còn góp phần ổn định hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, ổn định hoạt động của thị trường tài chính. Do đó, rủi ro thanh khoản không chỉ là nỗi lo riêng của các NHTM mà còn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cấp quản lý vĩ mô về tài chính tiền tệ. Trong Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12 tháng 3 năm 2008 về “Quy định xếp loại NHTMCP” của Thống đốc NHNN, khả năng thanh khoản là một trong năm tiêu chí để đánh giá xếp loại một NHTM. Năm tiêu chí đó bao gồm: vốn tự có, chất lượng tài sản, năng lực quản trị, kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng thanh khoản. Như vậy có thể thấy quản trị rủi ro thanh khoản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, quản trị rủi ro thanh khoản không chỉ đòi hỏi nổ lực từ phía các NHTM mà còn cần có những giải pháp định hướng vĩ mô, trong đó vai trò của Chính Phủ và NHNN là rất quan trọng. 1. Đối với Chính Phủ và NHNN  Nâng cao tính độc lập của NHNN: Vấn đề mà NHNN hiện nay gặp phải chính là sự mâu thuẫn giữa tính phụ thuộc và khả năng linh hoạt trong việc điều chỉnh thị trường. Cũng chính từ sự mâu thuẫn đó đã dẫn đến những thất thường trong phong cách điều hành và là nguyên nhân chính làm suy 32 giảm lòng tin của các NHTM và cộng đồng đối với một NHTW. NHNN nên nâng mức độ độc lập của mình lên mức “Độc lập trong việc sử dụng các công cụ điều hành” nhưng vẫn phục vụ cho các mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đề ra, điều này có thể sẽ dung hòa các mối quan hệ. Về lâu dài thì hệ thống tài chính – tiền tệ vẫn hướng theo con đường phát triển chung của nền kinh tế, nhưng trong từng giai đoạn ngắn hạn thì NHNN vẫn có thể có những quyết định tức thời và mạnh dạn để bảo đảm thị trường tài chính có thể quay về điểm cân bằng nhanh chóng, ít thiệt hại trước những biến cố xảy ra. Bên cạnh đó, NHNN cũng nên có những động thái truyền tải tín hiệu đến các NHTM về những quyết định của mình trong tương lai, điều đó sẽ thể hiện sự nhất quán giữa lời nói và hành động, các NHTM sẽ yên tâm hơn khi đưa ra chiến lược phát triển cho riêng mình. Điều quan trọng nhất trước khi đưa ra câu trả lời có nên để NHNN độc lập trong việc quản lý thị trường tiền tệ và điều hành chính sách tiền tệ hay không, đó chính là năng lực và sự am hiểu của NHNN về hệthống tài chính Việt Nam cũng như trên thế giới đến đâu? Điểm cuối cùng cũng dừng lại ở vấn đề nhân lực, bộ máy “đầu tàu” luôn phải học hỏi và rút kinh nghiệm trước những thành công và thất bại của mình cũng như của các nước trên thếgiới. Có thể thị trường tài chính của chúng ta còn non trẻ, còn nhiều bỡ ngỡ trước mỗi một tình huống căng thẳng phát s inh, nhưng cũng chính vì lý do đó mà chúng ta cần phải nhìn ra thế giới và học hỏi nhiều hơn, những nền kinh tế lớn mạnh, những hệ thống có hàng trăm năm tuổi, những gì họ trải qua và vấp ngã hẳn phải nhiều hơn mình là chắc chắn, những kinh nghiệm họ để lại sẽ vô cùng quý giá nếu chúng ta biết chắt lọc và soi rọi vào chúng  Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt: Nhìn chung trong thời gian qua, chính sách tiền tệ được thực thi bởi NHNN đã góp phần vào thành tích tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam, ổn định tỷ giá có lợi cho xuất khẩu, tăng cường dự trữ ngoại hối cho đất nước, giữ mức lạm phát trong vòng kiểm soát theo hướng thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, việc kết hợp các công cụ trong chính sách tiền tệ, giữa chính sách tài khóa trong vòng kiểm soát của Bộ tài chính đôi lúc còn trái chiều, chưa đồng bộ. Chính sách tiền tệ của NHNN đôi khi còn quá tham vọng, 33 đặt ra quá nhiều mục tiêu, làm g iảm hiệu quả tác động của chính sách này đối với nền kinh tế, tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có trong việc phát đi tín hiệu cho thị trường. Rõ ràng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa của chính sách này, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao hơn và bền vững hơn là yêu cầu cấp bách hiện nay. Chúng ta có thể thấy, cuối năm 2007 đầu năm 2008, các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ chỉ tập trung vào lĩnh vực tiền tệ. Và dường như để thể hiện quyết tâm chống lạm phát đến cùng của mình, NHNN đã thực hiện hàng loạt các biện pháp mạnh, trong đó việc phát hành trái phiếu và tín phiếu bắt buộc với tổng trị giá lên đến 20.300 tỷ đồng được xem là là một biện pháp khá mạnh. Kết quả, thị trường tiền tệ bị xáo trộn, các NHTM chạy đua lãi suất với nhau nhằm thu hút tiền gửi đáp ứng nhu cầu thanh khoản, thị trường chứng khoán, bất động sản sụt giảm…Trong tình huống kiềm chế lạm phát, việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt là cần thiết, nhưng việc sử dụng liên tiếp nhiều biện pháp mạnh như thế trong một khoảng thời gian dài lại có thể đẩy NHTM rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản.  Nâng cao hiệu quả giám sát hoạt động của các NHTM: Công tác giám sát hiện nay vẫn được NHNN tại các tỉnh, thành phố thực hiện. Nhưng tính xác thực của báo cáo giám sát này để phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô chưa cao, chưa phản ánh trung thực tình trạng hoạt động nói chung và tình trạng thanh khoản nói riêng của các NHTM. Để thực hiện việc này, cần nâng cao vai trò chức năng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng. Ngoài ra, cơ quan này còn giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với hoạt động của các TCTD trong nước và có yếu tố nước ngoài.  Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC: Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) được thành lập theo Quyết định số 68/1999/QĐ-NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc NHNN, có chức năng thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân tích và dự báo thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước, thực 34 hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng. CIC là tổ chức duy nhất của Việt Nam thực hiện chức năng cơ quan đăng ký thông tin tín dụng công, hoạt động vì mục tiêu an toàn hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp. Muốn tạo dựng được một hệ thống kinh tế tài chính minh bạch, NHNN cần chủ trương nâng cao vai trò của CIC. 2. Đối với NHTM  Tăng cường năng lực tài chính: Nâng cao năng lực về tài chính và khả năng quản trị của hệ thống Ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế là giải pháp cơ bản để đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững. Năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Thời gian vừa qua với nghị định 141/2006 quy định các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đến ngày 31/12/2010. Tuy nhiên các ngân hàng chưa thể thực hiện đồng bộ vì vậy NHNN phải hoãn thời gian tăng vốn điều lệ cho đến ngày 31/12/2011 (theo NĐ 10/2011). Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ xấu tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro đặc biệt là rủi ro thanh khoản. Đối với các NHTMNN, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn, đổi mới hình thức sở hữu, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động, làm nền tảng để duy trì sự ổn định và phát triển của cả hệ thống, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng. Đối với các NHTMCP, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động. Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược là các định chế tài chính nước ngoài đầu tư vào các Ngân hàng trong nước, qua đó để tăng cường tiềm lực về tài chính và nâng cao trình độ quản lý của từng Ngân hàng.  Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô: 35 Điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Khi NHNN thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách ban hành liên tiếp hàng loạt các giải pháp mạnh như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, áp trần lãi suất huy động…thì khả năng thanh khoản của các NHTM gặp khó khăn. Bởi trước đó, có thời điểm tình trạng dư thừa vốn khả dụng đã xảy ra ở một số ngân hàng. Các ngân hàng này đã giảm lãi suất huy động tiền gửi. Nhưng khi điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi, các ngân hàng này trở nên lúng túng. Điều này chứng tỏ việc tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác dự báo kinh tế ở các ngân hàng là cần thiết.  Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa Tài sản Có và Tài sản Nợ: Thực chất đây là việc áp dụng chiến lược cân đối giữa TSC và TSN hay quản trị thanh khoản phối hợp. Bất kỳ sự mất cân đối nào giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn đều có thể dẫn đến những rủi ro thanh khoản. Thưc tế, các NHTM Việt Nam dường như dựa nhiều vào việc vay mượn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Trong thời gian qua, một số NHTMCP có tỷ lệ đi vay trên thị trường liên ngân hàng rất lớn, chiếm tới 50% hoặc cao hơn mức dư nợ cho vay. Do thị trường tiền tệ biến động phức tạp bởi chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt, nên các ngân hàng này có nhiều thời điểm phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất trên 20%/năm, thậm chí tới 30% và cá biệt đến 40%/năm. Như vậy, việc vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng trong thời gian qua với lãi suất cao như thế là không có lợi, gây mất an toàn cho cả hệ thống và chính bản thân ngân hàng. Một vấn đề khác các NHTM cần quan tâm là duy trì tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho trung và dài hạn ở mức hợp lý và theo luật định (theo Thông tư 15/2009/TT-NHNN).  Nâng cao năng lực hệ thống giám sát nội bộ: Các NHTM nên thiết lập cho riêng mình một hệ thống giám sát nội bộ và không ngừng nâng cao vai trò cũng như năng lực của bộ phận này. Bởi hơn ai hết, chỉ có nội bộ mỗi một ngân hàng, một tổ chức tài chính mới nắm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân mình nhất, hiểu rõ những khó khăn, những rủi ro mà mình gặp phải trong quá trình hoạt động. Những quy định chung của NHNN hay Chính phủ ban hành nhằm mục đích hạn chế 36 những rủi ro hệ thống và những tổn hại tài chính có thể xảy ra trong thị trường. Nhưng nếu chỉ tuân thủ những chỉ tiêu đó cũng không hẳn là hoàn toàn an toàn, bởi trong các thực thể doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng luôn tồn tại các rủi ro phi hệ thống bên cạnh những rủi ro thị trường.  Nâng cao sản phẩm, dịch vụ: Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại. Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng. Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng và tăng cường phát triển mạng lưới.Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng. Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây dựng 37 một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên. Nâng cao năng lực quản trị điều hành, cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời, xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp. 38 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Quản trị ngân hàng, Khoa Ngân hàng Trường đại học kinh tế TPHCM. 2. GS.TS. Dư ơng Thị Bình Minh, TS.Sử Đình Thành, Giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ – NXB Thống kê. 3. Nguyễn Văn Nguyên, Khủng hoảng thanh khoản và những giải pháp ngắn hạn. 4. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số: 47/2010/QH12). 5. Một số website tham khảo: - www.vneconomy.vn - www. sbv.gov.vn - www.thesaigontimes.vn - www.cafef.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_3_ngan_hang_dem_2_k22_de_tai_tinh_hinh_thanh_khoan_he_thong_ngan_hang_viet_nam_gd_2008_2012_8524.pdf
Luận văn liên quan