Đề tài Tình hình Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v. • Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7854 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tình hình Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại  Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp. Chức năng Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác Các nguyên tắc cơ bản Không phân biệt đối xử Đãi ngộ quốc gia MFN: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tương tự trong nước. Đãi ngộ tối huệ quốc NT: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO. Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v.. Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh. Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, công bằng Nguyên tắc ưu đãi Tiến trình gia nhập WTO của VN 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. 31/1/1995: Đại hội đồng WTO đã thành lập Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập  8/1996: Việt Nam gửi tới Ban thư ký WTO "Bị Vong lục về Chế độ ngoại thương Việt Nam". Sau đó, Ban Công tác đã tổ chức 9 phiên họp để đánh giá tình hình chuẩn bị của Việt Nam và tạo điều kiện để Việt Nam trực tiếp giải thích chính sách. Đầu 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và Bản chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán từ năm 2002 - 2006. 4/2004: Bản chào 4 với những cam kết đột phá 10/2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất. 2005: Năm bản lề của đàm phán song phương (kết thúc được đàm phán song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ) Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại. 13/5/2006: Kết thúc đàm phán song phương thứ 13 với Mỹ tại Washington - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26/10/2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng. Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7/1998 đến tháng 10/2006. 7/11/2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Phần 2. Cơ hội - Thách thức và Giải pháp Cấp độ quốc gia Nền kinh tế hiện nay của tất cả các quốc gia đều hướng về một nền kinh tế mở và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và nó là một tất yếu khách quan phát triển của một nền kinh tế hiện đại. Dù nước lớn hay nước nhỏ, bất kể nền kinh tế nào dù lớn đến đâu cũng không thể tự mình đảm đương hết tất cả các quá trình kinh tế. Chính vì thế, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế tất yếu cho mọi quốc gia. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng đang tích cực hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới một cách rõ nét. Từ một nền kinh tế đóng của những năm trước đổi mới 1986, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể để chuyển biến nền kinh tế thành một nền kinh tế mở, hội nhập vào thị trường quốc tế rộng lớn. Gia nhập WTO chính là một minh chứng rõ nét nhất cho những nỗ lực cũng như thành tựu và tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam. Hội nhập kinh tế thế giới có thể ví như một chiếc thuyền nhỏ từ khe suối con sông nhỏ hẹp đi ra biển cả, đại dương. Đại dương rất rộng lớn nên thuyền có thể tự do đi ngược đi xuôi rất thuận lợi. Nhưng đại dương cũng là nơi nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với con sông, con suối. Cũng tương tự như thế, bất kể nền kinh tế hội nhập nào cũng có được những thuận lợi và phải đối mặt với những khó khăn của riêng mình. Gia nhập WTO là gia nhập sân chơi chung, “đại dương” của cả 150 nước thành viên WTO nên đương nhiên là đi kèm với nó sẽ là những cơ hội và thách thức. Có thể nói cơ hội hay thách thưc luôn đi cùng nhau và nhiều khi chúng gắn chặt lẫn nhau hoặc chuyển biến lẫn nhau. Nếu chúng ta biết tận dụng thì những khó khăn có thể trở thành động lực để ta có thể cải thiện điểm yếu của mình và phát triển. Cơ Hội: Để nói về cơ hội đối với nền kinh tế nước ta, có rất nhiều cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Phần trình bày này sẽ đi từ góc độ kinh tế vĩ mô hay cấp độ quốc gia. Do vậy, sẽ có 4 cơ hội rõ ràng nhất. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang 149 nước thành viên (hiện tại) và cả các thành viên gia nhập tiếp sau Việt Nam và với tư cách là một thành viên bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Tại sao lại nói rằng gia nhập WTO, nước ta có khả năng mở rộng được thị trường xuất khẩu? Đó là do: Thứ nhất, khi đã là thành viên của WTO, việc thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên sẽ không bị hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu. Số lượng được cung ứng sẽ dựa trên nhu cầu của người dân nước đó đối với hàng hóa nước ta chứ không phải như trước đây, rất nhiều mặt hàng như may mặc, giày da… đều phải chịu hạn ngạch nhập khẩu, dẫn đến việc các doanh nghiệp phải mua bán quota để có thể xuất khẩu. Thứ hai, khi đã là thành viên WTO, hàng hóa xuất khẩu của Việt nam sang thị trường các nước thành viên khác cũng sẽ ít bị vấp phải hàng rào thuế quan. Theo các chuyên gia kinh tế, khi chưa là thành viên của WTO, thuế suất áp dụng đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường có thể lên tới 30-40%; thậm chí nếu bị cáo buộc bán phá giá, có khi lên tới 50-70%. Nhưng, khi đã là thành viên của WTO, mức thuế này sẽ hạ xuống còn 0-5% (nếu không có tranh chấp thương mại). Như vậy, có thể thấy rằng, gia nhập WTO sẽ rộng mở cánh cửa xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Không những thế, chúng ta còn được bảo vệ bởi các quy chế của WTO nếu xảy ra tranh chấp thương mại. là một thành viên bình đảng như cấc thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các nguyên tắc cơ bản của tổ chức như: nguyên tắc không phân biệt đối xử (Đãi ngộ quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc), tự do thương mại, các quy chế, quy định thương mại phải được công bố công khai, thực hiện ổn định… Những điều này rất có lợi cho Việt Nam mỗi khi xảy ra những tranh chấp thương mại với các thành viên khác, đặc biệt là những nước lớn vì Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ. Trước đây khi xảy ra các tranh chấp này như những vụ kiện bán phá giá cá da trơn, hàng may mặc (cùng với Trung Quốc)…, thông thường nước ta thường là người phải chịu thiệt thòi, phải bắt buộc chấp nhận những mức thuế trừng phạt do những nền kinh tế lớn áp đặt. Ngày nay với việc được bảo vệ trong những quy định của WTO, lợi ích của chúng ta sẽ được bảo đảm nhiều hơn trong các cuộc tranh chấp thương mại này. Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng hoàn thiện và thông thoáng. Hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường. Như đã nói ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế như là con tàu đi vào đại dương. Đại dương là của rất nhiều người và nó có những luật lệ chung mà mọi chiếc thuyền muốn hoạt động được trong đó đều phải tuân theo. Do vậy, nền kinh tế muốn hội nhập được phải tuân thủ những luật lệ ấy, không thể tùy tiện dùng cách hành xử theo thói quen của mình. Tất cả các lĩnh vực từ văn bản pháp quy, bộ máy hành chính, tổ chức doanh nghiệp… cũng phải cải thiện để phù hợp với các tiêu chuẩn mà WTO đưa ra. Chính từ nguyên nhân đó mà chính phủ khi ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô trong thời gian tới sẽ phải luôn xem xét để không vi phạm những nguyên tắc chung của tổ chức WTO. Điều này giúp cho việc định hướng xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô sẽ càng ngày càng trở nên thống nhất với những luật lệ và quy tắc chung trong thương mại quốc tế, giúp cho môi trường đầu tư đối với những nhà đầu tư nước ngoài sẽ thông thoáng và dễ dàng hơn rất nhiều. Chính sự thông thoáng và minh bạch đó bản thân đã là một sự hấp dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Không chỉ có môi trường đầu tư được cải thiện, nền kinh tế cũng tiến dần tới một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Nền kinh tế hiện nay chủ yếu là gồm những nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường, do vậy những chuẩn mực chung thông nhất trong nền kinh tế thế giới cũng là những quy luật của nền kinh tế thị trường. Chúng ta tôn trọng và không xâm phạm những quy tắc chung ấy chính là ta đã gián tiếp thực hiện và tôn trọng sự tồn tại của những quy luật kinh tế thị trường. Do vậy, cơ chế thị trường điều tiết nền kinh tế ngày càng rõ nét hay thể chế thị trường trong nền kinh tế nước ta sẽ ngày càng được hoàn thiện. Huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để có thể phát triển và phát triển bền vững nền kinh tế. Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo động lực phát triển kinh tế. Quá trình phát triển nền kinh tế nhất là trong thời đại hiện nay đòi hỏi rất nhiều những nguồn lực khác nhau cả về vốn, kĩ thuật và nhân lực. Hiện nay, chúng ta không đơn thuần chỉ có những nguồn lực trong nước có thể được dùng để phát triển kinh tế mà với sự tự do di chuyển của các nguồn lực trên phạm vi thế giới, chúng ta hoàn toàn có thể huy động thêm những nguồn lực nước ngoài trong công cuộc phát triển kinh tế. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc sẽ gặp ít những rào cản hơn trước, di chuyển dễ dàng hơn nên việc huy động những nguồn lực nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu phát triển sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Chẳng hạn như hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm, đồng thời cũng đã tạo ra được những sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm quản lý cho người điều hành quá trình sản xuất. Kết quả là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã vào Việt Nam ngày một tăng trong hơn 10 năm trở lại đây. Riêng 4 tháng đầu năm 2006, con số này là trên 2,3 tỷ đô la Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Chủ động hơn trong việc tham gia xây dựng các chính sách thương mại tòa cầu như các thành viên khác và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của đất nước, của doanh nghiệp và người lao động. Là một thành viên bình đẳng như những thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ được góp tiếng nói của mình trong việc đưa ra những quyết sách chung của WTO. Cũng nhờ đó mà nước ta có thể chủ động hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình trước những chính sách không hợp lí và bình đẳng giữa tất cả các quốc gia thành viên. Việt Nam có thể bỏ quyền phủ quyết đối với những quyết định bất hợp lí trên. Điều này khác hoàn toàn so với trứơc đây khi chúng ta chưa là thành viên, chúng ta phải chấp nhận mọi quyết định áp đặt. Thách thức Đi đôi với những cơ hội kể trên là những thách thức không hề nhỏ. Hiện nay, rất nhiều ngành kinh tế đang lo lắng trước áp lực cạnh tranh của các nước, đặc biệt là những ngành nông nghiệp, công nghiệp… Cũng có 4 thách thức chủ yếu đối với nền kinh tế nước ta sau khi gia nhập tổ chức WTO. Sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh Khi gia nhập WTO, chúng ta phải tuân thủ những nguyên tắc chung của tổ chức, cắt giảm các mức thuế xuống còn từ 0-5%, đói xử với hàng hóa trong nước và nước ngoài phải bình đẳng. Nói một cách khác, chúng ta phải mở toang cửa đối với hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Một khi không còn hàng rào thuế quan bảo hộ, sức ép cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài sẽ thể hiện rõ rệt nhất. Sức ép cạnh tranh mạnh thể hiện trên cả 3 cấp độ : sản phẩm – sản phẩm; doanh nghiệp – doanh nghiệp; nhà nước – nhà nước. năng lực cạnh tranh nói chung của toàn bộ nền kinh tế vẫn được đánh giá là yếu kém nên nếu không có những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền sản xuất trong nước thì Việt Nam sẽ thua ngay trên chính sân nhà chứ chưa nói dến thị trường nước ngoài. Cạnh tranh không chỉ trong việc giảm thuế quan bảo hộ mà trên thực tế, chúng ta còn thiếu kiến thức và thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế (chất lượng sản phẩm, quy trình quản lý chứng nhận chất lượng sản phẩm, vấn đề bảo vệ môi trường...) cũng như về các cách thức tiếp cận thị trường và các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh từ các nước nhập khẩu. Điều này rất dễ làm sản phẩm của nước ta không theo kịp những tiêu chuẩn chung của thê giới và rất dễ vấp phải những hàng rào bảo hộ mới như hàng rào kỹ thuật… sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam trên thị trường quốc tế. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa Toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho tất cả mọi người nhưng không phải ai cũng có thể nắm bắt và tận dụng được cơ hội giống nhau. Tùy thuộc vào năng lực của từng người mà mức độ thành công hay thất bại của mỗi người sẽ khác nhau. Đứng trên phương diện toàn xã hội, điều này làm cho một bộ phận dân cư sẽ không những không được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế quốc tế mà sẽ còn phải chịu thiệt thòi; một bộ phận doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng rõ giữa các vùng, các miền ngày càng tăng là một tác động tiêu cực cần phải được giải quyết để đảm bảo an ninh trật tự, công bằng xã hội. Phụ thuộc biến động của nền kinh tế thế giới Chấp nhận một nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập chung vào sân chơi lớn là thị trường thế giới đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Giờ đây mỗi quốc gia đang dần trở thành một mắt xích trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Những biến động từ bất kì một mắt xích nào cũng đều có thể dẫn đến những biến động lớn đối vớ những mắt xích còn lại. tác động này sẽ càng lớn và càng rõ rết đối với những nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt Nam. Bất kì một diễn biến bất thường nào từ trong dây chuyền sản xuất ấy đều có thể ảnh hưởng tiêu cực lớn đến tình hình phát triển kinh tế chính trị, xã hội của nước ta. Nếu không kiểm sóat và xử lý đúng sẽ dẫn đến rối loạn thị trường, thậm chí khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy nên chúng ta cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực trên. Chất lượng nguồn nhân lực Về chất lượng của nguồn nhân lực thì đây cũng là một điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam. Hiện tại, chát lượng nguồn nhân lực của nước ta hãy còn thấp, trình độ lao động chưa thể đảm bảo đáp ứng được với nền sản xuất với dây chuyền công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng có những bất cập. Các chương trình đào tạo tại bậc đại học hiện nay nhìn chung đều bị đánh giá là nặng về lí thuyết, nguồn nhân lực sau đào tạo thường không đáp ứng được nhu cầu thực tế cuả công việc mà thường là cần phải được đào tạo lại mới có thể làm đuợc việc. Nguồn nhân lực đối với bất kể nền kinh tế nào, dù lớn hay nhỏ, đếu có vai trò rất quan trọng tới sự phát triển của nền kinh tế đó. Chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ trở thành sức ì và lực cản đối với sự phát triển của nền kinh tế. Giải pháp Hoàn thiện hệ thống luật và nhận thức rõ vai trò của mình Đối với Nhà nước, điều cấp thiết là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả bốn nội dung: Luật chơi, người chơi, cách chơi và sân chơi. Trong đó, “luật chơi” - là hệ thống pháp lý và các chuẩn mực; “người chơi” - là chủ thể kinh tế thị trường chính, bao gồm cả tập thể, cá nhân, các thành phần kinh tế; “cách chơi” - chính là cơ chế để thực thi quy tắc; và “sân chơi” - các thị trường, yếu tố cơ bản phải gấp rút hoàn thành. Vai trò chủ yếu của nhà nước là xây dựng môit trường vĩ mô để các doanh nghiệp trong và ngòai nước có thể hoạt động và hoạt đông thuận lợi trong đó. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải phân định được vai trò quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không phải là chủ thể tham gia hoạt dộng trực tiếp trên thi trường mà là người quản lý và điều tiết thị trường. Các chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ Năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất hiều vào trình độ của công nghệ sản xuất. Trong bối cảnh hiện nay, công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, nhà nước cần phải có những chính sách thích hợp để khuyến khích việc chuyển giao công nghệ từ các quốc gia phát triển như Nhật, Mĩ… Đi tắt đón đầu về công nghệ để có thể nâng cao trình độ của công nghệ sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ chỉ là một giải pháp ngoại sinh, Nhà nứoc cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của nền khoa học kĩ thuật trong nước. Những hoạt động nghiên cứu và triển khai R&D cần phải được đẩy mạnh để có thể làm chủ được công nghệ ngoại nhập và cải tiến, tạo ra những đột phá công nghệ mới. Kết hợp giữa các viện nghiên cứu với các doanh nghiệp sản xuất để nhanh chóng ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Sửa đổi trợ cấp Dỡ bỏ hàng rào thuế quan bảo hộ nhưng đồng thời các nước thành viên lại xây dựng nên những hàng rào kỹ thuật, phi thuế quan để bảo hộ cho một số ngành mà quốc gia đó mong muốn bảo hộ. Đồng thời, các quốc gia vẫn tìm nhiều cách để hỗ trợ cho những ngành sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh của những ngành đó. Đó là một thực tế đang diễn ra. Trợ cấp hay hỗ trợ từ chính phủ vẫn có nhưng dưới nhiều những hình thức khác nhau. Hỗ trợ từ chính phủ là cần thiết với nhiều ngành nhưng vấn đề là ở chỗ phải xây dựng được những hỗ trợ hợp lí và phù hợp, không vi phạm những nguyên tắc chung của WTO. Đây không phải là công việc dễ dàng mà cần phải hết sức cẩn thận để có thể “né” luật, “lách” luật. Tuy nhiên, cách trợ cấp của Việt Nam hiện nay có nhiều điểm không phù hợp. WTO yêu cầu việc trợ cấp phải có chương trình cụ thể, tiêu chí rõ ràng. Trong khi đó, Việt Nam lại thường xử lý theo tình huống và ứng phó ngắn hạn với thị trường, không đảm bảo tính minh bạch. WTO cũng quy định hỗ trợ trực tiếp cho nông dân nhưng Nhà nước thường hỗ trợ thông qua doanh nghiệp. Nông dân chỉ là người hưởng lợi gián tiếp. Đây chính là những điểm cần sửa đổi khi xây dựng chính sách trợ cấp trong WTO. Các chuyên gia cũng cho rằng gia nhập WTO, Việt Nam chỉ bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa, các loại trợ cấp “đèn vàng”, “đèn xanh” vẫn được duy trì theo những phương thức hợp lý. Cụ thể các chương trình đầu tư hạ tầng, hỗ trợ phát triển vẫn được phép. Vì vậy, Nhà nước chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa trước đây sang phát triển thủy lợi, kiện toàn giao thông nông thôn, nâng cao chất lượng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thủy sản và kho đệm để dự trữ lúa, cà phê cho bà con nông dân, tránh để họ phải bán ồ ạt khi vào vụ... hoàn toàn không vi phạm và không ai cấm. Các hình thức trợ cấp là rất đa dạng và đại đa số các hình thức mà Việt Nam đang áp dụng được phép theo quy định của WTO. Vấn đề là chọn loại nào, hỗ trợ mang tính bền vững thay cho cách làm mang tính tình thế để vừa thúc đẩy được sản xuất nhưng cũng nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một quá trình khá đồng bộ. Chất lượng cần phải được nâng lên không chỉ cả ở thể lực mà còn cả trình độ, năng lực. Điều này đòi hỏi các chế độ dinh dưỡng, chính sách y tế, sức khỏe mà cả giáo dục đào tạo. Quan trọng nhất chính là vấn đề giáo dục và đào tạo. Chuơng trình đào tạo phải hướng đến nhu cầu thực tế, phải đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc, tiêu chuẩn của khu vực và tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn nhân lực có phát triển thì mới đảm bảo nhân tố phát triển nền kinh tế bền vững, bảo đảm có thể sử dụng được hiệu quả công nghệ sản xuất tiên tiến. Cấp độ ngành Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Gia nhập WTO có cả cơ hội và thách thức đối với cả 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Giữa các ngành có quan hệ mật thiết, do vậy sự chuyển dịch, phát triển của 1 ngành sẽ tác động trực tiếp đến những ngành còn lại. Tuy nhiên, không thể áp dụng chính sách giống nhau tuỳ tiện, cứng nhắc cho các ngành. Ví dụ cụ thể, ngành nông nghiệp được xem là ngành dịch chuyển chậm nên cần có một lộ trình là hoàn toàn phù hợp. Trong khi đó, việc đặt lộ trình hàng chục năm cho ngành công nghiệp ôtô đang là vấn đề được quan tâm bởi lẽ quyết định này chỉ bảo hộ sản xuất ôtô trong nước mà gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng Việt Nam. Phải nói thêm, ngành công nghiệp sản xuất ô tô ở nước ta không chỉ đến hiện tại mới được bảo hộ mà đã được bảo hộ hàng chục năm nay trước sức ép cạnh tranh gay gắt của ô tô nguyên chiếc nước ngoài nhưng chủ yếu cho tới nay, các doanh nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc lắp ráp linh kiện nhập khẩu mà chưa có được những bước phát triển như mong đợi. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hiện nay phải hướng vào hội nhập và dựa vào hội nhập để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang công nông nghiệp, từ công - nông nghiệp sang dịch vụ. Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam phải tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và liên tục nâng vị thế của mình trong chuỗi để có thể giành được những vị trí sản xuất mang lại giá trị gia tăng cao hơn.Với đặc trưng có nguồn lao động phổ thông dồi dào với mức lương thấp, vốn (tài chính) khan hiếm, dự trữ đất đai, tài nguyên có hiện tượng bị suy thoái, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam nên ưu tiên những ngành sử dụng nhiều lao động, cần vốn đầu tư ít và định hướng xuất khẩu cao làm chủ lực. Biểu 1: Dự báo cơ cấu kinh tế ngành Việt Nam: (%) Năm 2010 Năm 2020 Nông – lâm - thuỷ sản 15 – 16 10 Công nghiệp – xây dựng 42 – 43 40 Dịch vụ 41 – 42 50 ( Nguồn: Tông cục Thống kê Việt Nam ). Biểu 2: Dự báo gia tăng sản lượng theo kịch bản WTO đồng thời cải cách trong nước: (%) Năm 2000 Năm 2010 Năm 2020 Gạo 3,4 4,8 7,1 Nông sản khác 2,4 3,7 6,3 Dệt may 4,7 31,1 62,9 Công nghiệp chế biến 9,4 19,8 50,0 Dịch vụ 18,0 38,0 81,76 ( Nguồn: Tông cục Thống kê Việt Nam ). Ngành Nông nghiệp Về nông nghiệp, đây là sẽ lĩnh vực chịu nhiều sức ép cạnh tranh hơn cả, nhất là trong điều kiện nông nghiệp nước ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, công nghệ lạc hậu, năng suất kém, chất lượng sản phẩm không cao, bình quân đất nông nghiệp trên một lao động thấp (0,3 ha/hộ). Bên cạnh đó, hiện nay, người nuôi trồng không được hưởng phần lớn lợi nhuận mà người được hưởng lợi nhiều nhất lại là người chế biến, tiêu thụ. Điều này là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi Việt Nam phải tăng giá trị vào hàng nông sản xuất khẩu, hay chính là phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản. Đứng trước thách thức trên, nền nông nghiệp nước ta cần phải có được những thay đổi mạnh mẽ thì mới đảm bảo có thể hội nhập thành công trong điều kiện mới. Một số giải pháp đã được đưa ra nhằm nâng cao năng lực sản xuất cũng như sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp: Một là đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn; từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ; đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn; phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn.  Hai là tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Giảm mạnh sự đóng góp của nông dân. Đầu tư mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nước. Phát triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã. Phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư cho nông dân. Khuyến khích nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Nghiên cứu để hình thành cơ chế gắn việc thu hút lao động trong nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động với việc chuyển giao, cho thuê lại ruộng đất để đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất. Gia nhập WTO là một quá trình tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp với không ít thuận lợi và khó khăn. Đã có nhiều giải pháp, chương trình hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn được xây dựng nhưng vấn đề là nhanh chóng hiện thực hóa các chính sách, giải pháp trợ giúp cho người dân, doanh nghiệp để tăng cường năng lực sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm nông nghiệp của các nền kinh tế khác. Khi đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp sẽ tiếp tục trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Ví dụ sinh động từ Trung Quốc cho thấy, trái ngược với dự báo của các chuyên gia kinh tế về một sự suy sụp trong ngành nông nghiệp nước này khi gia nhập WTO, một số ngành nông sản tăng vọt xuất khẩu, đe doạ cả nông sản Hoa Kỳ. Hiện Trung Quốc đang tiếp tục tăng cường đầu tư mạnh vào nông nghiệp về cơ sở hạ tầng, vốn, kỹ thuật, bãi bỏ thuế và giảm phí nhằm tạo ra một nền kinh tế nông nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong WTO. Ngành Dịch vụ Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa 110/115 ngành dịch vụ. Nhóm ngành dịch vụ của Việt Nam hiện nay gần như mới chỉ đang ở giai đoạn sơ khai, chưa thực sự phát triển. Những ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế như là ngành tài chính vẫn còn đang ở giai đoạn định hình khi mà hệ thống các ngân hàng tài chính Việt Nam chưa phát triển đồng bộ và còn tồn tại nhiều yếu kém, chủ yếu lượng vốn tài chính của nền kinh tế đang ở trong tay các ngân hàng thương mại của nhà nước, vai trò của các ngân hàng thương mại tư nhân chưa thực sự rõ rệt; thị trường chứng khoán dù đã hoạt động được hơn 5 năm nhưng chưa trở thành một kênh huy động vốn đích thực và hiệu quả. Chính với 1 xuất phát điểm thấp như vậy nên dù cũng sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh như các ngành nghề khác thì đây có thể cũng vẫn sẽ là những ngành có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Với thực trạng như trên, những giải pháp cho ngành dịch vụ trong thời gian tới phải mang tính định hướng phát triển để ngành dịch vụ có thể đi đúng hướng, phát huy được những lợi thế sẵn có về nguồn lao động và thị trường trong nước cũng như tận dụng được những tiến bộ phát triển của ngành dịch vụ từ các nước phát triển mà chắc chắn sẽ được đầu tư ồ ạt vào nước ta trong thời gian tới. Một số giải pháp có thể kể ra ở đây như: Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao (dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch…), các loại dịch vụ tư vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán; nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển ngành dịch vụ nước ta. Dự báo trong những tháng cuối năm 2007, năm đầu tiên trở thành thành viên của WTO, nhiều ngành dịch vụ sẽ có những thành sự tăng trưởng đáng kể so với cùng thời điểm này năm ngoái. Tổng hợp phân tích của các bộ, ngành chức năng cho thấy trong ba tháng cuối năm, các ngành dịch vụ, tài chính sẽ tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, với loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng và mức giá hấp dẫn, trong bối cảnh giá cả hàng hóa nói chung đang tăng cao. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Thị trường chứng khoán trong giai đoạn cuối năm sẽ tiếp tục xu hướng hồi phục cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, nhất là vào tháng 12 khi các công ty bắt đầu công bố báo cáo tài chính quý IV và cả năm. Mức vốn hóa thị trường chứng khoán ước tính sẽ đạt khoảng 25-27% GDP vào cuối năm nay. Thị trường bảo hiểm dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu khoảng 10%, trong đó thị trường bảo hiểm nhân thọ có mức tăng trưởng 5,5% và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là 17%. Trong quý 4 này, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ sẽ đạt 180.000 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và nâng tổng mức bán lẻ của cả năm lên mức 689.600 tỷ đồng, tăng hơn 18,7% so với năm 2006. Ngành dịch vụ du lịch cũng sẽ gặt hái nhiều thành công. Dự báo tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2007 sẽ đạt khoảng 4,3 - 4,5 triệu lượt khách, tăng 26% so với năm trước, và lượng khách du lịch nội địa ước sẽ đạt khoảng 10,5 triệu lượt khách, tăng gần 6% so với năm 2006. Cuối năm cũng là thời điểm bận rộn của ngành giao thông vận tải. Các đơn vị hàng không, đường sắt và vận tải đường bộ đã lên kế hoạch tăng ca, tăng chuyến để cố gắng đáp ứng đủ nhu cầu của hành khách trong dịp này. Do giá xăng vẫn được đảm bảo sẽ ổn định từ nay đến cuối năm nên nhiều khả năng giá dịch vụ vận tải, cước xe sẽ không biến động nhiều. Ước tính khối lượng hành khách vận chuyển của toàn ngành giao thông vận tải trong năm nay sẽ tăng tới 9,5% và khối lượng hàng hóa tăng 9,8% so với năm trước. Doanh thu toàn ngành năm 2007 ước đạt trên 25.400 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 2006. Dịch vụ bưu chính viễn thông cũng tăng trưởng nhanh, với chất lượng ngày càng được cải thiện và giá cước giảm dần. Dự kiến từ tháng 12 tới, giá cước di động của các mạng thuộc Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) sẽ được giảm tới 20-25% so với hiện nay. Dự kiến số thuê bao điện thoại mới trong năm nay sẽ đạt tới con số 12,5 triệu, nâng tổng số thuê bao điện thoại của cả nước lên gần 47,9 triệu máy (khoảng 56 máy/100 dân), trong đó có 73% là thuê bao di động. Tổng số thuê bao Internet quy đổi mới ước đạt 1,3 triệu, nâng tổng số thuê bao Internet quy đổi trên mạng là 5,4 triệu, đạt mật độ 6,33 thuê bao/100 dân. Ngành công nghiệp Nhìn lại tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm vừa qua, chúng ta đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm tự do hoá các hoạt động kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước; xoá bỏ dần chế độ hai giá, từng bước tiến tới thiết lập chế độ một giá; mở cửa thị trường, đẩy mạnh việc thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; tiến hành sửa đổi bổ sung và điều chỉnh kịp thời các chính sách và văn bản pháp quy; tăng cường việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Cơ hội: Cơ hội lớn nhất mà ngành công nghiệp Việt Nam có được là đã mở thêm được nhiều thị trường mới. Với việc ký kết Hiệp định Thương mại mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area-AFTA), Việt Nam có cơ hội tiếp cận với thị trường được đánh giá là năng động nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trung bình hàng năm trên 7%. Thông qua Chương trình hợp tác Công nghiệp ASEAN (ASEAN Industrial Cooperation Scheme-AICO), các doanh nghiệp Việt Nam có thể có được các ưu đãi về hưởng mức thuế quan ưu đãi từ 0-5% trong việc buôn bán các sản phẩm công nghiệp giữa các doanh nghiệp tham gia, được công nhận tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm và được hưởng các ưu đãi phi thuế quan khác do các nước nội khối quy định. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement - BTA) năm 2001 cũng đã góp phần tích cực vào việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam. Gia nhập WTO tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm, đồng thời cũng đã tạo ra được những sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm quản lý cho người điều hành quá trình sản xuất. Kết quả là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã vào Việt Nam ngày một tăng trong hơn 10 năm trở lại đây. Riêng 4 tháng đầu năm 2006, con số này là trên 2,3 tỷ đô la Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Thách thức Việc gia nhập WTO sẽ làm giảm đáng kể hàng rào bảo hộ từ phía chính phủ, tăng áp lực cạnh tranh cho các mặt hàng, ngành hàng. Mặt khác, chúng ta sẽ phải đối mặt với các vụ kiện có thể xảy ra do các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... Trên thực tế, chúng ta còn thiếu kiến thức và thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế (chất lượng sản phẩm, quy trình quản lý chứng nhận chất lượng sản phẩm, vấn đề bảo vệ môi trường...) cũng như về các cách thức tiếp cận thị trường và các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh từ các nước nhập khẩu nên sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Hạn chế về vốn và công nghệ cũng làm giảm sức cạnh tranh của các mặt hàng công nghiệp Việt Nam và giảm thiểu khả năng nắm bắt các cơ hội thị trường của doanh nghiệp trong nước. Công nghiệp lắp ráp đang là chủ công của công nghiệp Việt Nam, trong khi công nghiệp chế tạo chưa có quy hoạch phát triển đồng bộ. Bên cạnh đó, các sản phẩm của Việt Nam còn phải cạnh tranh với sản phẩm các quốc gia khác, không chỉ tại trị trường thứ 3, mà trong một số trường hợp lại ở chính thị trường nội địa do thua kém về chất lượng và mẫu mã. Giải pháp Để có thể tận dụng mọi cơ hội khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, ngành công nghiệp Việt Nam đã, đang và sẽ phát triển theo hướng có chọn lọc, tập trung phát triển những ngành hàng, nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh, huy động tối đa mọi nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới với đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, áp dụng rộng rãi các phương pháp quản lý tiên tiến để tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm... Cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công nghiệp; đẩy mạnh việc xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp theo hướng ổn định, minh bạch; quan tâm xây dựng hệ thống chính sách về phát triển khoa học-công nghệ trong ngành công nghiệp. Triển khai thực hiện Đề án tổng thể sắp xếp đổi mới các Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ; tăng cường tổ chức các hội thảo, các chương trình đào tạo kiến thức cơ bản về thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng sự hợp tác, trao đổi với các nước và các tổ chức quốc tế để tìm hiểu và tham khảo những bài học về hội nhập. Chuyển dịch cơ cấu ngành khi gia nhập WTO còn là một nội dung của quá trình CNH – HĐH. Đằng sau của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thời cuộc đổi mới chính là sự phân bổ lại các nguồn lực cho hiệu quả như: huy động vốn, phân bổ thị trường… Để đạt được cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu trong trước bối cảnh cạnh tranh của 149 thành viên WTO thì cần có lộ trình cụ thể và khôn ngoan. Công nghiệp chính là đòn bẩy giúp nông nghiệp thoát khỏi lạc hậu, vì nông nghiệp không thể tự lo thị trường, máy móc, kỹ thuật hiện đại được… Công nghiệp phải phát triển trước, dùng công nghiệp, dịch vụ để phá vỡ tình trạng nông nghiệp cũ lạc hậu. Cấp độ doanh nghiệp Doanh nghiệp là trung tâm của KTTT, lại càng là trung tâm của nền kinh tế trong mở cửa và hội nhập. Khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, đặt ra cho doanh nghiệp nhiều vấn đề để có thể hội nhập thành công. Cơ hội Mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp, thể hiện: Thứ nhất, tăng lượng thị trường xuất khẩu cho DN. Thứ hai, tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu ra các nước. Thứ ba, tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các DN thuộc ngành mà VN có ưu thế cạnh tranh. Nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Vì DN sẽ được tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên; được nhận một số sự bảo hộ từ phía chính phủ trong khuôn khổ quy định của WTO; và được sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp cong bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại QT. Hưởng lợi từ các chính sách cải cách trong nước. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý, quản trị kinh doanh , tiếp thị , xây dựng thương hiệu của nước ngoài. Thách thức Gia nhập WTO, doanh nghiệp VN phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn, nên phải đối mặt với những nguy cơ sau: Nguy cơ mất thị phần, thị trường Nguy cơ bị thu hẹp sản xuất, chuyển đổi sang lĩnh vực khác, thậm chí nhiều DN sẽ bị phá sản do không cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu. Nguy cơ bị các DN nước ngoài thôn tính, mua lại, thu hút mất các nhân viên giỏi.... Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam Số lượng doanh nghiệp ít. Doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 1/1/2004 là 72.012, giải quyết việc làm cho 5,175 triệu lao động. Hiện nay, nước ta có 245.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 1999, sử dụng 2,6 triệu lao động, đóng góp gần 40% GDP cả nước. Số lượng DN tăng là do các chính sách của Đảng và nhà nước khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Tuy nhiên , so với tiềm lực thị trường trong nước và xét về quy mô doanh nghiệp hiện nay thì số lượng DN VN là rất ít, đặc biệt là trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay. Số lượng DN ít sẽ làm tăng nguy cơ các DN thua ngay trên sân nhà, bị mất thị phần, thị trường, bị các công ty nước ngoài thôn tính... Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do các chính sách của chính phủ chưa thực sự khuyến khích các DN tư nhân phát triển. Qui mô nhỏ, vốn ít. Hiện nay , trong số các DN đang hoạt động thì có 96% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, huy động được gần 30 tỉ USD vốn đầu tư (lớn hơn tổng FDI cùng kỳ). Năm 2004, bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 72 lao động và 24 tỷ đồng tiền vốn. Năm 2000 thì số lao động là 84 và vốn là 26 tỷ đồng. Như vậy, xu hướng quy mô nhỏ ngày càng tăng, các doanh nghiệp mới chủ yếu là tư nhân với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm hơn 46%, từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm 35%. Về quy mô vốn, số doanh nghiệp dưới 10 tỷ đồng chiếm 86%, trong đó hơn một nửa là dưới 1 tỷ đồng. Do phần lớn doanh nghiệp có mức vốn thấp (dưới 10 tỷ đồng) nên khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức trang bị tài sản cố định cho 1 lao động ngoài quốc doanh là 50 triệu đồng, chỉ bằng 20% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra rằng, doanh nghiệp phát triển còn mang tính tự phát chưa có định hướng rõ ràng. Số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 77,5% số doanh nghiệp được thành lập từ năm 2000 trở lại đây, nhưng biến động tới gần 20% hằng năm. Nhiều tỉnh có hàng nghìn doanh nghiệp nhưng 70-80% trong số đó chỉ có 1-5 lao động và số vốn không quá 5 tỷ đồng như Long An, Đồng Tháp, Nam Định... Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển ổn định và có định hướng rõ ràng hơn, nhưng rất ít doanh nghiệp có quy mô lớn, đặc biệt VN chưa có một tập đoàn kinh tế mạnh nào. Trong khi xu hướng chung của TG ngày nay là các tập đoàn KT khổng lồ, có quy mô xuyên quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ VN khó cạnh tranh được. Mặt khác, nếu so sánh với các DN quy mô nhỏ và vừa trên TG thì các DN VN cũng là quá nhỏ và manh mún; như ở Nhật, các DN vừa và nhỏ của họ nằm trong mối liên kết chặt chẽ với trình độ phân công lao động cao, đảm bảo sự hỗ trợ lẫn nhau cao, sức cạnh tranh vì thế được nâng lên. Như vậy, DN vừa và nhỏ trên TG thực chất là những bộ phận của một công ty quy mô lớn hoặc nhỏ và vừa trong mối liên kết chặt chẽ với nhau. Còn ở VN, DN vừa và nhỏ thuần túy , manh mún , yếu thế... Ngoài ra, vấn đề vốn ít cũng là vấn đề lớn, vốn tự có của DN ít nên phải phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng để huy động vốn là chủ yếu, điều này làm DN khó nắm bắt các cơ hội kinh doanh... Trình độ công nghệ lạc hậu Chất lượng và giá cả hàng hóa là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bên cạnh những yếu tố khác. Tuy nhiên để có hàng hóa chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh lại phụ thuộc vào năng suất lao động và trình độ công nghệ. Khi đối chiếu logic này vào thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thấy vì sao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp rất yếu, không chỉ trên “sân khách” mà ngay cả ở “sân nhà”. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các DN vẫn theo lối tư duy truyền thống là dựa vào lợi thế sức cạnh tranh của nguồn tài nguyên phong phú và nhân công giá rẻ, mà không chủ động chuyển sang cạnh tranh bằng tăng năng suất lao động và áp dụng công nghệ tiên tiến; tức phải chuyển từ những sản phẩm “thô” với hàm lượng giá trị gia tăng thấp sang các sản phẩm “tinh” có hàm lượng chất xám cao. Điều này được phản ánh qua nhóm sản phẩm được đánh giá là có năng lực cạnh tranh của Việt Nam, hiện nay chủ yếu vẫn là những nông sản, khoáng sản chưa qua chế biến hoặc những sản phẩm gia công cho đối tác nước ngoài (như dầu thô, gạo, cà phê, tiêu, điều, dệt may, da giầy...); do đó, hầu hết các mặt hàng này khi phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến thất bại. Thực tế này cũng chỉ ra phần lớn lời giải cho những hạn chế kể trên nằm ở trình độ công nghệ của DN. Đơn cử như ở ngành điều, ông Hồ Ngọc Cầm, Chủ tịch Hiệp hội cây điều Việt Nam khẳng định: “Việt Nam là nước XK điều thứ 2 thế giới, tuy nhiên đến thời điểm này ngành công nghiệp điều của Việt Nam vẫn chưa có thiết bị cơ khí tự động hóa cho công đoạn cắt tách và bóc vỏ lụa mà phải làm thủ công. Chính công đoạn này đã làm tăng giá thành và làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm điều Việt Nam trên thị trường thế giới”. Năng lực quản trị kinh doanh yếu kém Phần lớn DN VN chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh, nghiên cứu thị trường, thiếu hiểu biết về khách hàng và đối thủ cạnh tranh, làm ăn còn chụp giựt, chưa có tầm nhìn chiến lược, lâu dài... Những vấn đề đặt ra Sức ép, quy mô cạnh tranh ngày càng lớn nên để đứng vững trên thị trường, nâng thế và lực của đất nước nói chung và của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng thì cần có những đơn vị kinh tế có quy mô lớn, khả năng cạnh tranh quốc tế cao và có hiệu quả. Một số doanh nghiệp (đặc biệt là DNNN) trước đây được bao cấp, bảo hộ, ưu đãi… từ nhà nước nên “sức đề kháng “ với môi trường mới là yếu, trong khi WTO là môi trường cạnh tranh quốc tế, không có sự phân biệt đối xử, đòi hỏi các nước thành viên phải tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nên vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp Việt Nam là làm thế nào để tăng “sức đề kháng “ trong môi trường mới. Thị trường mà WTO tạo ra là thị trường lớn với nhu cầu đa dạng, thay đổi nhanh, nên doanh nghiệp phải làm sao để phát triển , hội nhập theo xu hướng đó. Một số giải pháp Thứ nhất, chủ động tìm hiểu luật chơi WTO, nghiên cứu kĩ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp.Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được quyết định bằng việc giảm chi phí sản xuất, kinh doanh, đổi mới kĩ thuật công nghệ, cải tiến mẫu mã , nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm, chuyên nghiệp hóa dịch vụ theo hướng giao hàng đúng hạn, giá cả hợp lý …Muốn thế, doanh nghiệp phải đặt mình trong khối liên kết toàn cầu. Liên kết ở đây được hiểu là liên kết trong và liên kết ngoài, Liên kết trong là liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Liên kết ngoài là liên kết trong mạng toàn cầu, thể hiện dưới hình thức các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức…Tăng năng lực cạnh tranh không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu nội địa mà cả thị trường nước ngoài. Coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ hàng hóa cũng như sự biến động của thị trường Thế Giới. Coi thông tin như là LLSX trực tiếp. Đào tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực_ yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về nguồn lao dộng dồi dào, giá rẻ nhưng lợi thế này đang giảm dần vì tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, mới được ¼, ngoài ra cơ cấu lao động chưa hợp lý, chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp. Ngoài ra, nhà nước cần tạo điều kiện để khu vực tư nhân phát triển hơn nữa vì phát triển khu vực tư nhân chính là làm tăng số lượng DN VN . Trên đây là một số giải pháp chung cho các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Tuy nhiên, để hội nhập thành công thì điều quan trọng nhất là ý chí phấn đấu của bản thân doanh nghiệp.Các doanh nghiệp nên đề ra cho mình những mục tiêu cụ thể để hội nhập. Đối với DNNN thì cần đẩy nhanh việc sắp xếp đổi mới DNNN, CPH thực chất là nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các tập đoàn kinh tế nói riêng. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, theo thống kê, toàn quốc có trên 300.000 doanh nghiệp nhưng thực chất các cơ quan chức năng chỉ quản lý được một nửa số này , nghĩa là có tới 50% số doanh nhân có tư duy hoạt động nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết. Hơn nữa, hệ thông doanh nghiệp tư nhân nước ta còn quá mỏng và yếu. Tư duy quản trị cơ bản là cảm tính , thuận tiện. Khi hội nhập ta sẽ làm ăn với các doanh nghiệp mang tầm cỡ quốc tế nên cần có sự hỗ trợ giữa các ngành nghề , đặc biệt là các mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao như quần áo may săn, giầy dép, hàng nông sản. Ví dụ, để hội nhập thành công, Công Ty may Việt Tiến đã đề ra 5 mục tiêu: Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, không tập trung vào thị trường Mỹ mà phải chia ra các thị trường khác. Giảm tỉ lệ XK vào Mỹ từ 57% xuống còn 37%; Thị trường Nhật Bản từ 18% lên 30%; Thị trương EU từ 12% lên 18%... Để dảm bảo an toàn hệ thống sản xuất của CTy. Tiếp tục đầu tưcho hệ thống phân phối. Lấy thị trường nội địa làm nền tảng, lấy thị trường XK làm động lực phát triển Nâng cao năng suất lao động bằng cách đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ quản lý, chuyên gia kỹ thuật và công nhân có tay nghề Tiếp tục đầu tư trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, cải thiện đời sống cho công nhân, xây dựng kế hoạch phát triển cho công ty bền vững, bảo vệ môi trường và tham gia phát triển cộng đồng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docViệt Nam sau khi gia nhập WTO.doc
Luận văn liên quan