Điều khoản Hardship

LỜI NÓI ĐẦU: Khi mà giao lưu thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì việc kí kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh là vấn đề cần được quan tâm. Hợp đồng là công cụ không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh. Một khi được ký kết hợp đồng chính là luật của các bên tham gia, thể hiện một hoàn cảnh cụ thể với những bên cụ thể, những mong muốn cụ thể. Trong thực tiễn ký kết hợp đồng thương mại quốc tế khi các bên tham gia tại thời điểm ký kết thì lợi ích kinh tế của các bên đều ở thế cân bằng. Tuy nhiên hầu hết các hợp đồng này thường có thời hạn khá dài vì vậy những người kinh doanh thường phải đối mặt với những rủi ro thường trực_những điều không chắc chắn trong tương lai. Những rủi ro này hiển nhiên sẽ làm cho một trong hai bên được lợi nhiều hơn và phía bên kia sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, làm thế quân bình của hợp đồng bị xáo trộn nghiêm trọng, thậm chí một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng. Nói cách khác, trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh, hoặc xuất hiện những sự kiện mới khiến việc thực hiện hợp đồng trở thành gánh nặng cho một bên khiến mục đích ban đầu của hợp đồng không thể đạt được. Trong hợp đồng thì nguyên tắc thiện chí được đề cao, nghĩa là theo đó yêu cầu các bên trong hợp đồng không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm đến lợi ích của đối tác để cả hai cùng có lợi và bình đẳng ở góc độ nào đó xuất phát từ nhận thức các bên tham gia sẽ chỉ ký hợp đồng nếu có lợi. Tuy nhiên để nguyên tắc này hiện thực hóa trong đời sống của pháp luật hợp đồng khi bối cảnh thực tế thay đổi so với bối cảnh khi ký kết hợp đồng để cân bằng lợi ích các bên thì cần có các quy định cụ thể, những điều khoản sử dụng cho phép điều chỉnh nội dung hợp đồng. Trong luật hợp đồng cổ điển đối với những trường hợp mà bối cảnh hợp đồng thay đổi quá bất lợi cho một trong hai bên thường thì người ta dựa trên điều khoản bất khả kháng cho phép bên vi phạm chấp dứt hợp đồng và được miễn trách, tuy nhiên thực tế sau này cho thấy cách giải quyết này không còn phù hợp dẫn đến các tác động xấu như nhu cầu của các bên chưa được thỏa mãn, mục đích hợp động chưa đạt được, mối quan hệ thương mại xấu đi, bên cạnh đó chi phí ký kết hợp đồng bỏ ra không thu lại được, không đảm bảo sự công bằng cho các bên. Vì vậy để có được cách giải quyết tốt hơn trong việc đảm bảo lợi ích các bên nhằm tái lập vị thế cân bằng của hợp đồng, không trái với nguyên tắc thiện chí, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế đã đưa vào hợp đồng một số điều khoản cho phép các bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia thương lượng lại hợp đồng.

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3754 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều khoản Hardship, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tiểu luận môn luật hợp đồng thương mại quốc tế Đề tài: Điều khoản Hardship. I/ LỜI NÓI ĐẦU: Khi mà giao lưu thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì việc kí kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh là vấn đề cần được quan tâm. Hợp đồng là công cụ không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh. Một khi được ký kết hợp đồng chính là luật của các bên tham gia, thể hiện một hoàn cảnh cụ thể với những bên cụ thể, những mong muốn cụ thể. Trong thực tiễn ký kết hợp đồng thương mại quốc tế khi các bên tham gia tại thời điểm ký kết thì lợi ích kinh tế của các bên đều ở thế cân bằng. Tuy nhiên hầu hết các hợp đồng này thường có thời hạn khá dài vì vậy những người kinh doanh thường phải đối mặt với những rủi ro thường trực_những điều không chắc chắn trong tương lai. Những rủi ro này hiển nhiên sẽ làm cho một trong hai bên được lợi nhiều hơn và phía bên kia sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, làm thế quân bình của hợp đồng bị xáo trộn nghiêm trọng, thậm chí một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng. Nói cách khác, trong trường hợp có sự thay đổi về hoàn cảnh, hoặc xuất hiện những sự kiện mới khiến việc thực hiện hợp đồng trở thành gánh nặng cho một bên khiến mục đích ban đầu của hợp đồng không thể đạt được. Trong hợp đồng thì nguyên tắc thiện chí được đề cao, nghĩa là theo đó yêu cầu các bên trong hợp đồng không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm đến lợi ích của đối tác để cả hai cùng có lợi và bình đẳng ở góc độ nào đó xuất phát từ nhận thức các bên tham gia sẽ chỉ ký hợp đồng nếu có lợi. Tuy nhiên để nguyên tắc này hiện thực hóa trong đời sống của pháp luật hợp đồng khi bối cảnh thực tế thay đổi so với bối cảnh khi ký kết hợp đồng để cân bằng lợi ích các bên thì cần có các quy định cụ thể, những điều khoản sử dụng cho phép điều chỉnh nội dung hợp đồng. Trong luật hợp đồng cổ điển đối với những trường hợp mà bối cảnh hợp đồng thay đổi quá bất lợi cho một trong hai bên thường thì người ta dựa trên điều khoản bất khả kháng cho phép bên vi phạm chấp dứt hợp đồng và được miễn trách, tuy nhiên thực tế sau này cho thấy cách giải quyết này không còn phù hợp dẫn đến các tác động xấu như nhu cầu của các bên chưa được thỏa mãn, mục đích hợp động chưa đạt được, mối quan hệ thương mại xấu đi, bên cạnh đó chi phí ký kết hợp đồng bỏ ra không thu lại được, không đảm bảo sự công bằng cho các bên. Vì vậy để có được cách giải quyết tốt hơn trong việc đảm bảo lợi ích các bên nhằm tái lập vị thế cân bằng của hợp đồng, không trái với nguyên tắc thiện chí, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế đã đưa vào hợp đồng một số điều khoản cho phép các bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia thương lượng lại hợp đồng. II. NHỮNG ĐIỀU KHOẢN THƯỜNG SỬ DỤNG CHO PHÉP ĐIỀU CHỈNH NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG: 1. Điều khoản về chào hàng cạnh tranh: Điều khoản này được thể hiện trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau: Trong thời gian thực hiện hợp đồng, nếu bên mua nhận được một bản chào hàng hấp dẫn hơn từ một đối thủ cạnh tranh của bên bán thì người mua có quyền yêu cầu người bán điều chỉnh lại nội dung của hợp đồng, và nếu người bán đồng ý điều chỉnh lại hợp đồng theo bản chào hàng của đối thủ cạnh tranh thì nội dung của hợp đồng sẽ được các bên thay đổi và các bên sẽ thực hiện hợp đồng theo nội dung mới của bản hợp đồng này. Nếu bên bán từ chối và không đồng ý điều chỉnh lại nội dung của hợp đồng thì bên mua có quyền hủy hợp đồng và ký kết hợp đồng với bên đối thủ cạnh tranh. Ví dụ: công ty A có ký hợp đồng giao một lô hàng gồm 100 laptop với công ty B, trong hợp đồng giá thỏa thuận của công ty A và công ty B là 8 triệu/laptop với cấu hình máy theo yêu cầu của bên B. Và trong hợp đồng có ký kết điều khoản về chào hàng cạnh tranh. Trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty C- là một đối thủ của công ty A- đã chào hàng công ty B về việc giao cùng số lượng laptop và có cấu hình tương tự tuy nhiên giá chào hàng chỉ là 7,8 triệu/laptop. Khi đó công ty B có quyền yêu cầu công ty A điều chỉnh lại nội dung của hợp đồng theo bản chào hàng của công ty C. Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp các công ty vì mục tiêu cạnh tranh vơi đối thủ đã có những hành động làm ảnh hưởng đến việc ký kết hợp đồng của công ty đối thủ. Ví dụ như, theo ví dụ trên, công ty C thực tế không có khả năng cung cấp laptop với số lượng và giá đã đưa ra hay là có sự thông đồng của công ty B và công ty C. Vì vậy,khi ký kết hợp đồng và đưa vào hợp đồng điều khoản này thì các bên nên có thêm một thỏa thuận về cách xác định tính chân thực của những sự kiện này. 2. Điều khoản khách hàng ưu đãi nhất: Điều khoản này có nghĩa là khi đã ký kết điều khoản này thì trong thời gian thực hiện hợp đồng, nếu bên bán dành cho những người mua khác sự ưu đãi hơn so với nhũng điều kiện đã ký kết với bên mua trước đó, thì bên bán cũng phải cam kết dành cho bên mua được hưởng những ưu đãi đó kể từ khi những ưu đãi đó được dành cho người khác. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét hoàn cảnh ký kết hợp đồng với khách hàng ưu đãi có giống với hoàn cảnh ký kết hợp đồng với người mua hay không. Vì thế tốt nhất nên để cho một người thứ 3 xác định vấn đề này. Và tốt hơn nữa là các bên cần thỏa thuận thêm thời gian đàm phán lại hợp đồng, càng ngắn càng tốt tránh tốn kém. 3/ Harship: a) Harship là gì? Hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật đối với các bên từ thời điểm giao kết mà các bên không được tự ý sửa đổi, hoặc hủy bỏ. Đây chính là yêu cầu mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng và là nội dung cơ bản của nguyên tắc hiệu lực bất biến trong lĩnh vực hợp đồng. Tuy nhiên, xã hội luôn vận động kéo theo sự thay đổi của nhiều thứ, hợp đồng cũng không cũng nằm ngoài quy luật đó. Vì thế mà cần có một cơ chế điều chỉnh khi mà trong quá trình thực hiện hợp đồng có những điều kiện thay đổi gây trơ ngại hoặc khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng. Vì thế mà xuất hiện điều khoản gọi là hardship. Khái niệm “hardship” và các khái niệm tương tự cũng đã được thừa nhận trong nhiều hệ thống pháp luật, như “force majeure”, “commercial impracticability”, “frustration of purpose” hay “change of circumstances” trong Thông luật, “Wegfall der Geschaftsgrundlage” trong tiếng Đức, hoặc được các học giả người Đức dùng với thuật ngữ khác là “the foundation of the transaction” . Nhưng thuật ngữ “hardship” được sử dụng trong bảng tiếng Pháp của Bộ nguyên tắc UNIDROIT đã được chấp nhận rộng rãi trong thực tiễn thương mại quốc tế. =>Hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống, và: a) các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; b) bên bị bất lợi đã không thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; c) các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và d) rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu. (điều 6.2.2. muc2 chương 6 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004.) Hardship: hiểu nôm na là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế, tới mức gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém. Theo đó, điều khoản hardship quy định những cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án điều chỉnh hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế. b) Nội dung cơ bản của điều khoản hardship: Nội dung cơ bản của điều khoản hardship quy định về ba vấn đề: khái niệm và các điều kiện của hoàn cảnh được coi là hardship, hạn chế áp dụng, các hệ quả pháp lý của việc áp dụng điều khoản này. Có thể xem xét ba nội dung này trong PICC và PECL sau đây: Theo định nghĩa của UNIDROIT trong PICC 2004, “hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống…” và thỏa mãn bốn điều kiện được quy định trong đoạn tiếp theo của Điều 6.2.2: các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; bên bị bất lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; các sự kiện đó nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và, rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu. Tuy vậy, PICC cũng không thừa nhận một cách dễ dãi quyền đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi đặc biệt. Những người soạn thảo văn kiện này khá khắt khe, bởi điều 6.2.1 PICC quy định “Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, trừ các quy định liên quan dưới đây về hardship”. Điều này cho thấy, việc áp dụng hardship để cho phép điều chỉnh lại hợp đồng là một giải pháp ngoại lệ của nguyên tắc pacta sunt servanda và phải được áp dụng rất hạn chế. Cũng theo UNIDROIT tại Điều 6.2.3 PICC, hệ quả của việc áp dụng điều khoản hardship cho phép: (i) bên bị bất lợi được đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng (một cách không chậm trễ và có căn cứ) và nếu đã yêu cầu đàm phán lại hợp đồng thì không được tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ; (ii) nếu các bên không thể thỏa thuận lại được hợp đồng trong thời gian hợp lý thì mỗi bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết; tòa án nếu xét thấy hợp lý thì có thể hoặc cho chấm dứt hợp đồng theo điều kiện và thời điểm do tòa ấn định, hoặc cho sửa đổi nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng. Điều khoản hardship được thể hiện trong Bộ nguyên tắc luật hợp đồng chung Châu Âu (PECL phiên bản 1999 – 2002), với tên gọi “Sự thay đổi hoàn cảnh” (change of Circumstances) tại Điều 6: 111. Theo đó, “mỗi bên phải hoàn thành các nghĩa vụ của mình, ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, do chi phí thực hiện tăng hoặc do giá trị của khoản thanh toán giảm” (khoản 1), và khoản 2: “Tuy nhiên, nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn cảnh, các bên buộc phải tiến hành thoả thuận với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng, với điều kiện là: (a) Việc thay đổi hoàn cảnh xảy ra sau thời gian ký kết hợp đồng; (b) khả năng xảy ra sự thay đổi về hoàn cảnh không phải là một trong những tình huống mà các bên buộc phải tính đến khi ký kết hợp đồng; và (c) rủi ro về sự thay đổi không phải là một tình huống, theo như hợp đồng, bên bị ảnh hưởng bị yêu cầu là phải gánh chịu”. PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng quy định về sự thay đổi hoàn cảnh, như quy định tại Điều 6:111, khoản 3: “Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong khoảng thời gian hợp lý, toà án có thể: (a) chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện do toà án xác định; hoặc (b) sửa đổi hợp đồng nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo một cách thức công bằng và bình đẳng. Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi thường thiệt hại mà bên kia phải gánh chịu”. Như vậy, mặc dù trong PECL, điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi được sử dụng với tên gọi khác với PICC, nhưng vấn đề được quy định trong hai văn kiện này tương đối đồng nhất về khái niệm, phạm vi áp dụng, cũng như xử lý hệ quả của nó. So với PICC, quy định trong PECL có phần đầy đủ và hợp lý hơn vì khoản 3 Điều 6: 111 quy định trách nhiệm các bên phải điều chỉnh hợp đồng trước, và chỉ khi các bên không điều chỉnh thì tòa án “cho chấm dứt” hoặc “sửa đổi hợp đồng theo một các thức công bằng”. Theo nhận xét của Michel Trochu thì “Các nguyên tắc của pháp luật hợp đồng Châu Âu cũng có những quy định gần giống, nhưng rộng hơn” khái niệm hardship trong Bộ nguyên tắc Unidroit. c) Điều khoản hardship trong pháp luật các nước và tập quán thương mại quốc tế: Khái niệm hardship xuất hiện trong thực tiễn thương mại vào những năm 1960 và được trình bày lần đầu tiên trong các nghiên cứu của Marcel Fontaine, in trong quyển “Pháp luật hợp đồng quốc tế”, xuất bản năm 1989 . Nội dung của điều khoản hardship cũng được thể hiện trong các hợp đồng thương mại quốc tế, dưới nhiều dạng điều khoản khác nhau. Ở Đức: Bộ luật Dân sự của Đức (BGB) cũng có những điều khoản quy định gián tiếp liên quan đến vấn đề này, thể hiện trong quy định về “Disturbance of foundation of transaction” (Điều 313 BGB) hay “Performance in accordance with good faith” (Điều 242 BGB). Đây là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng liên quan đến sự khó khăn hoặc sự thay đổi hoàn cảnh, làm cho hợp đồng không thể thực hiện, hoặc nếu thực hiện thì chi phí lớn, hoặc làm bên có nghĩa vụ giảm thu nhập nghiêm trọng. Có thể xem các án lệ, như: RGZ 112, 329, 333-4; RGZ 119, 133(sale of land); RGZ 147, 286 (sale of cotton) … Trong Luật về những điều khoản chung của hợp đồng của CHLB Đức, một mặt, nhà làm luật cấm các bên bảo lưu “Điều khoản nhằm tăng khoản thù lao đối với hàng hóa hoặc dịch vụ đã được thực hiện trong vòng 4 tháng sau khi ký hợp đồng”. Nhưng “Quy định này không áp dụng cho những hàng hóa hoặc dịch vụ đã thực hiện trong phạm vi các quan hệ nghĩa vụ lâu dài, cũng như các dịch vụ có liên quan tới giá cả, áp dụng theo khoản 1 thuộc mục 99 Luật về hạn chế cạnh tranh không lành mạnh” . Ở Italia: Theo các Điều từ 1467 đến 1469 của Bộ luật Dân sự của ý, các cam kết hợp đồng có thể bị huỷ bỏ khi có sự kiện bất ngờ xảy ra một cách bất thường, không thể lường trước được, sau khi hợp đồng được ký kết và trước khi thực hiện hợp đồng; và sự kiện này làm cho việc thực hiện hợp đồng của một bên trở nên vô cùng khó khăn. Nhưng các bên cam kết có thể tránh việc huỷ bỏ hợp đồng bằng cách đề nghị chỉnh sửa hợp đồng một cách công bằng (Điều 1467 (3)). Tuy nhiên, các quy định này không bắt buộc, và các bên có thể thoả thuận với nhau không áp dụng chúng. án lệ của ý từng có phán quyết về vấn đề này . Ngoài ra, Điều 258 Bộ luật Dân sự Hà Lan cho phép thẩm phán chỉnh sửa các điều khoản của hợp đồng dựa trên sự thay đổi của hoàn cảnh mà không lường trước được. Điều 437 của Bộ luật Dân sự Bồ Đào Nha cũng quy định tương tự. Ở Anh: việc thay đổi hoàn cảnh không được xem là căn cứ để điều chỉnh hay đàm phán lại hợp đồng, “bởi lẽ ở Anh – theo quan điểm luật truyền thống thì người mắc nợ chỉ phải đảm bảo trả đủ cho chủ nợ một số tiền nào đó, chứ không phải thực hiện nghĩa vụ theo thực chất”. Richard Stone cũng có cùng quan điểm Nhưng điều này cũng không phải tuyệt đối. Theo Ewan McKendrick thì “người ta thường nói rằng luật Anh không khuyến khích việc chỉnh sửa việc thoả thuận trong trường hợp việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn. Điều này không hoàn toàn chính xác” . McKendrick cho rằng, trong những trường hợp này, tòa án Anh có thể cho phép điều chỉnh hợp đồng và chính các bên ký kết hợp đồng phải thực hiện việc chỉnh sửa. Toà án không thực hiện việc chỉnh sửa hợp đồng đã ký giữa các bên, cũng không đưa ra bất kỳ trở ngại nào khi các bên cố gắng chỉnh sửa thoả thuận của họ để phù hợp với hoàn cảnh thay đổi, như quyết định của Thượng viện trong vụ Walford v. Miles [1992] 2 AC 128. án lệ Anh cũng chấp nhận một cách hiếm hoi việc thay đổi hoàn cảnh dẫn đến chấm dứt hợp đồng, như phán quyết của Tòa Phúc thẩm, trong vụ Krell v. Henry [1903] 2 KB 740: Bị đơn thuê một căn hộ tại Pall Mall trong vòng 2 ngày. Mục đích khi ký kết hợp đồng là nhìn thấy lễ diễu hành đăng quang của Edward VII, mặc dù mục đích này không được nêu ra trong hợp đồng. Sau khi hợp đồng được ký kết, lễ đăng quang bị hoãn do nhà vua bị bệnh nên hợp đồng không thể thực hiện được. Tòa đã tuyên cho phép bên thuê được từ chối thực hợp đồng mà không phải bồi thường. Nhưng thực chất, phán quyết này không dựa trên điều khoản hardship mà lại căn cứ vào điều khoản không thể thực hiện hợp đồng do mục đích của hợp đồng không còn tồn tại (Frustration of purpose). Ở các nước thuộc Châu Phi như Ai Cập, Syrie, Algérie đều có những quy phạm điều chỉnh các hợp đồng, công hoặc tư, trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi bất ngờ. Những điều khoản do các bên thỏa thuận trái với các quy phạm này đều vô giá trị d) Thực tiễn pháp lí Việt Nam về điều khoản hardship: Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành chưa chấp nhận cơ chế hardship quy định việc đàm phán lại để điều chỉnh nội dung của hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh có sự thay đổi làm mất cân bằng kinh tế nghiêm trọng giữa các bên. Tuy vậy, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các chính sách điều hành của Chính phủ, điều kiện hardship cũng đã được đề cập đến ở một mức độ nhất định. Có thể kể đến một số quy định cụ thể, như quy định cho phép điều chỉnh phí bảo hiểm khi xảy ra những biến cố làm tăng mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (Điều 20); quy định cho phép các bên thỏa thuận thay đổi giá bán trong hợp đồng khi có những thay đổi của Nhà nước về chính sách tiền lương, chính sách giá các mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá trong Luật Đấu thầu 2005 (Điều 50 (2) và 57); hoặc trường hợp Chính phủ cho phép điều chỉnh giá tiền mua hóa giá nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước do giá vàng tăng đột biến ; hay việc cho phép điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng hình thức “giá cố định” và hình thức “giá trọn gói” do “giá vật liệu xây dựng biến động ngoài khả năng kiểm soát của chủ đầu tư và nhà thầu” … Tuy nhiên, đây chỉ là những quy định tương đối đặc thù để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng chuyên biệt, nên không được xem là căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng khác. Về thực tiễn, có nhiều vụ tranh chấp phát sinh trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, nhưng do quy định về vấn đề này trong luật thực định còn thiếu sót, nên đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên liên quan trong việc áp dụng pháp luật. Sau đây là một số vụ tranh chấp điển hình có liên quan đến việc thay đổi hoàn cảnh ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng và đã làm cho các bên liên quan, các nhà tư vấn và cả tòa án trở nên lúng túng. Vd: Tổng Công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco – gọi là bên B) kiện đòi Công ty Liên doanh Xi măng Holcim Việt Nam (MSC – gọi là bên A) bồi thường gần 5, 5 triệu USD, do Tòa Phúc thẩm – Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chsi Minh đã xét xử ngày 17/01/2007. Vụ kiện đã kéo dài gần 10 năm và đây là phiên tòa thứ 6. Năm 1995, bên A thuê bên B đào một luồng tàu và một vũng quay tàu tại dự án xây dựng Nhà máy xi măng Sao Mai ở Hòn Chông, Kiên Giang. Hai bên còn lập hai bản phụ lục, quy định rõ “trong khi thi công nếu thiết bị của DI (nhà thầu phụ của B) gặp phải sỏi đá và san hô/đất sét cứng gây thiệt hại máy móc, tăng phí tổn thì DI được trả thêm chi phí căn cứ vào kết luận giám định của Giám định viên độc lập”. Thực tế khi thực hiện hợp đồng, thì “hệ thống nạo vét luồng gặp sự trở ngại, hao mòn nặng cho máy móc và đường ống dẫn cũng như giảm năng suất thi công”. Theo B và DI, sự cố này thuộc trường hợp được nêu trong phụ lục nói trên, nên bên B đã phải thuê và mua sắm thêm các thiết bị mới, chuyên dụng hơn để tiếp tực thực hiện hợp đồng, nên đã làm phát sinh chi phí thêm so với cam kết ban đầu trong hợp đồng, với số tiền được bên B nêu ra là 2.866.650 USD. Văn kiện thỏa thuận tăng giá thành giữa B với nhà thầu phụ DI được đại diện của A xác nhận. Sau khi thực hiện xong hợp đồng, bên B yêu cầu bên A thanh toán chi phí phát sinh này, nhưng bên A từ chối. B khởi kiện A ra tòa, nhưng yêu cầu này của B đều đã bị cả tòa sơ thẩm và phúc thẩm bác bỏ. Lý do: cách thức chứng minh trở ngại khách quan của B là không có căn cứ và giá trị tăng thêm nếu có phải do bên B chịu, chứ bên A không có nghĩa vụ phải thanh toán thêm vì trong hợp đồng không cam kết, cũng như theo pháp luật thì bên A không phải chịu trách nhiệm về những chi phí này. Có thể thấy, vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn và tăng chi phí thực hiện hợp đồng không phải là tình huống ít diễn ra trong thực tiễn pháp lý Việt Nam. Nhưng sự thiếu vắng các quy định loại này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã cho thấy sự phản ứng quá thận trọng (nếu không nói là quá chậm chạp) của nhà lập pháp Việt Nam, làm cho các tranh chấp loại này không có căn cứ pháp lý để giải quyết thỏa đáng. Đó cũng là nguyên nhân làm cho việc quyết vấn đề này của tòa án hiện vẫn còn chưa nhất quán. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với PGS.TS Phạm Duy Nghĩa khi ông cho rằng, sự thiếu sót trên đây có thể được xem như là một trong những biểu hiện của sự “lạc hậu” của pháp luật hợp đồng nước ta vì “không đáp ứng được nhu cần quản lý rủi ro thời nay” III. Kết luận và bài học kinh nghiệm: Mặc dù hợp đồng được giao kết có hiệu lực thì phải được tôn trọng và thực hiện đúng. Nhưng việc thực hiện hợp đồng là một quá trình có nhiều rủi ro mà các bên không lường trước được. Yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi chúng ta cần phải quy định bổ sung những cơ chế pháp lý cho phép điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp thay đổi hoàn cảnh dẫn đến khó khăn đặc biệt cho việc thực hiện hợp đồng, nhất là trong bối cảnh của toàn cầu hóa hiện nay, khi “chủ nghĩa đế quốc với nền kinh tế bất ổn đã làm gia tăng nhiều trường hợp khiến cho các bên khi thực hiện hợp đồng phải theo những điều kiện mới về thực chất mà các bên không thể lường trước được và càng không thể trù tính được vào lúc ký hợp đồng”, và khi mà việc tuân thủ vô điều kiện nguyên tắc ‘hiệu lực bất biến của hợp đồng’ có thể dẫn đến “quyết định sai lầm khiến một số người giàu lên bằng những tổn thất phi lý của người khác” (51), thì việc tìm cơ chế pháp lý thích hợp để giải quyết vấn đề này càng trở nên cách cấp bách hơn bao giờ hết. Không chỉ trong thực tiễn thương mại hay trong các tập quán thương mại quốc tế, mà có rất nhiều nước, cả trong luật thực định và trong án lệ, đã thừa nhận và áp dụng điều khoản hardship để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống pháp lý ở các nơi đó. Thậm chí, còn có ý kiến đề xuất “cần đưa điều khoản hardship trong PICC (của Unidroit) trở thành một phần của Bộ luật Dân sự toàn cầu (The Global Code)”. Vì vậy, việc đưa các quy định về hardship vào phần quy định chung trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam, là rất cần thiết. Nhưng cũng có một số điểm cần lưu ý là, quy định về điều khoản hardship trong pháp luật các nước và cả trong hai Bộ “pháp điển hóa” về pháp luật hợp đồng của Châu Âu (PECL) và của Unidroit (PICC) là không hoàn toàn giống nhau. Hơn thế nữa, quy định này trong PICC vàc PECL không phải không có bất cập. Ngay trong Điều 6.2.3. PICC quy định về điều khoản hardship, ngoài việc buộc các bên phải đàm phán lại hợp đồng, quy định này còn cho phép các bên yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Như vậy đã làm cho điều khoản hardship trở nên không còn khác biệt gì so với điều khoản bất khả kháng. Thiết nghĩ, quy định về hardship nên khác với điều khoản bất khả kháng, tức là nên ưu tiên quy định theo hướng tòa án có quyền buộc các bên đàm phán lại để duy trì việc thực hiện hợp đồng đã ký. Chỉ khi nào các bên không thể đàm phán lại thì mới tính tới việc giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ hợp đồng, nhưng giải pháp này phải thật hạn chế và phải được xem là “giải pháp cuối cùng”. Như vậy, quy định điều kiện áp dụng và cơ chế xử lý hậu quả giữa hardship và bất khả kháng đã có sự khác nhau cơ bản. Mặt khác, điều khoản hardship trong nhiều trường hợp cũng không thích ứng với yêu cầu thực tiễn của một số loại hợp đồng có đối tượng là các công việc mang tính rủi ro cao và thường xuyên, như các hợp đồng liên quan đến các lĩnh vực tài chính dự án (Projet Financing) có mục đích chủ yếu là phân chia rủi ro, đánh giá rủi ro. Để có được nguồn vốn vay cần thiết từ ngân hàng, nhà đầu tư phải thuyết phục được ngân hàng bằng cơ chế phân chia rủi ro để ngân hàng được lợi và cảm thấy an toàn. Hơn nữa, khi đã xuất vốn cho vay để nhà đầu tư đưa vào công trình, chắc các ngân hàng sẽ không bao giờ muốn hợp đồng bị hủy bỏ hay chấm dứt. Bởi vậy, các quy định về hardship như hiện nay của PICC có thể sẽ không thích hợp cho các hợp đồng loại này, hoặc nếu có thì việc xử lý hậu quả theo một cách khác, phù hợp với mong muốn và bản đảm sự công bằng hơn giữa các bên trong loại hợp đồng này. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam về điều khoản hardship bước đầu được thể hiện trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Chính sự thiếu sót này đã làm cho cả cơ quan tư pháp lẫn các bên liên quan lúng túng khi giải quyết các tranh chấp liên quan vì thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết. Thực tiễn xét xử cũng có xuất hiện các tranh chấp loại này, nhưng cách giải quyết hiện nay giữa các tòa án là chưa nhất quán, cũng như chưa đề cập tới điều khoản hardship trong việc giải quyết tranh chấp này. Để hoàn thiện hơn pháp luật hợp đồng Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho ứng xử của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, và cho tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan, thiết nghĩ những thiếu sót này cần phải được bổ sung cụ thể, theo hướng: xác định rõ ràng về căn cứ, điều kiện, phạm vi áp dụng và hậu quả pháp lý của điều khoản hardship, như quy định cơ chế cho phép tòa án buộc các bên đàm phán lại hợp đồng hoặc tuyên chấm dứt hợp đồng nếu các bên không thỏa thuận lại được, khi xảy ra sự kiện khách quan, không lường trước được dẫn đến việc thực hợp đồng trở nên đặc biết khó khăn, tốn kém hay làm giảm cơ bản thu nhập từ hợp đồng của bên có nghĩa vụ. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà đối tượng hợp đồng là những mặt hàng có giá cả biến động mạnh với xu hướng khó nắm bắt, hoặc những hợp đồng có thời hạn thực hiện dài, các bên nên có điều khoản về điều chỉnh giá cả để tránh thiệt hại cho người bán và người mua cũng như các tranh tranh chấp có thể xảy ra. Dù trong hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá thì khi giá của hàng hóa biến động quá lớn (trường hợp hardship), các bên nên có thiện chí đàm phán lại giá nhằm xác định lại một mức giá hợp lý, cho phép đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giữ được mối quan hệ làm ăn hữu hảo. Lý thuyết về hardship là một lý thuyết mới trong pháp luật hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy lý thuyết này bắt nguồn từ các nước Common law và chưa được công nhận tại nhiều quốc gia Civil law nhưng thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy nhiều tòa án và trọng tài đã áp dụng lý thuyết này nhằm xử lý công bằng tranh chấp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cả hai bên trong hợp đồng mua bán, đặc biệt trong môi trường kinh doanh quốc tế phức tạp như hiện nay. IV. Tài liệu tham khảo. 1.Bộ luật dân sự Việt Nam 2.Giáo trình môn “luật hợp đồng thương mại quốc tế” 3. Bài viết“Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam” ThS. Lê Minh Hùng, Giảng viên Đại học Luật TP Hồ Chí Minh. 4.Bài viết “Điều chỉnh giá trong hợp đồng” TS. Lê Minh Hằng, Giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội. 4.Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004. 5.PECL, PECC 6.www.luathoc.vn/phapluat

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐiều khoản Hardship.doc
Luận văn liên quan