Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015

Đề tài: Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 1.1. TỔNG QUAN VỀ DÂN SỐ, LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM 1.1.1.Các khái niệm 1.1.1. 1. Dân số 1.1.1.2.Nguồn lao động 1.1.1.3.Việc làm 1.1.2.Tổng quan về thị trường việc làm 1.1.2.1.Cung việc làm 1.1.2.2.Cầu việc làm 1.1.2.3. Giải quyết việc làm và thất nghiệp 1.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm 1.2.1.Các điều kiện về tự nhiên 1.2.2.Các điều kiện về phát triển kinh tế 1.2.2.1.Về tăng trưởng kinh tế 1.2.2.2.Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.2.2.3.Về mặt tiến bộ xã hội 1.2.3.Các điều kiện về chính sách của Nhà nước về lao động và việc làm 1.2.4.Các điều kiện khác 1.3. Sự cần thiết giải quyết việc làm cho lao động 1.3.1.Giải quyết việc làm cho LLLĐ là tác động tới phát triển kinh tế 1.3.2.Giải quyết việc làm cho LLLĐ làm giảm bớt các tệ nạn xã hội 1.3.3.Giải quyết việc làm cho LLLĐ góp phần xóa đói giảm nghèo CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2005 – 2009 2.1.Giới thiệu tổng quan vể tỉnh Thái Nguyên 2.1.1.Các điều kiện tự nhiên – xã hội 2.1.1.1.Vị trí địa lý 2.1.1.2.Điều kiện về khí hậu 2.1.1.3.Đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên 2.2.2. Về phát triển kinh tế 2.2.2.1. Về tăng trưởng kinh tế 2.2.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2.2.2.3. Điều kiện về tổng vốn đầu tư xã hội 2.2.Thực trạng việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.1.Số lượng và chất lượng của nguồn lao động trên địa bàn của tỉnh 2.2.1.1. Số lượng của nguồn lao động 2.2.1.2. Chất lượng của nguồn lao động 2.2.2.Thực trạng việc làm của tỉnh 2.2.2.1. Số người lao động làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế 2.2.2.2. Số người lao động làm việc phân theo loại hình kinh tế 2.2.2.3. Số người lao động làm việc phân theo vị thế công việc 2.2.3.Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm 2.2.4.Nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm và thất nghiệp 2.2.4.1. Do thiếu đất canh tác 2.2.4.2. Do yếu tố mùa vụ ở nông thôn 2.2.4.3. Do thiếu vốn sản xuất kinh doanh 2.2.4.4. Do trình độ tay nghề của lao động 2.2.4.5. Các nguyên nhân khác 2.2.5.Các chương trình tạo việc làm cho người dân tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện 2.2.5.1. Chương trình giải quyết việc làm: Chương trình 120 2.2.5.2. Chương trình đào tạo nghề 2.2.5.3. Chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia 2.2.5.4. Chương trình tín dụng cho người dân để sản xuất kinh doanh CHƯƠNG III : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 3.1.Các quan điểm giải quyết việc làm của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình 3.1.1. Về phía Nhà nước hay chính quyền địa phương 3.1.2. Về phía các doanh nghiệp 3.1.3. Về phía cá nhân, hộ gia đình 3.2. Các giải pháp, các chính sách trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 3.2.1. Tổng quát các chương trình đã thực hiện để giải quyết việc làm 3.2.2. Nhóm giải pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội 3.2.2.1 Theo từng khu vực địa lý của tỉnh 3.2.2.2. Theo nhóm ngành kinh tế của tỉnh 3.2.3. Nhóm giải pháp về thị trường lao động 3.2.4. Quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm 3.2.5. Về sử dụng nguồn lực cho giải quyết việc làm của tỉnh KẾT LUẬN 71

doc79 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4640 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 12,47 82.543 2006 638.960 13,65 86.100 2007 651.600 15,99 102.970 2008 663.420 18,32 120.450 2009 674.210 20,66 138.560 Nguồn: Sở Lao động – TBXH Thái Nguyên, 2008. Theo số liệu đã thống kê của tỉnh thì chương trình đào tạo nghề đạt được những kết quả: Số lượng người lao động qua đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng qua các năm. Năm 2005 chỉ có 82.543 người được đào tạo thì năm 2009 đã có tới 138.560 người được đào tạo. Như vậy, số người được đào tạo nghề năm 2009 đã tăng gấp 1,7 lần so với năm 2005, tính bình quân hàng năm có khoảng trên 17.649 người được đào tạo. Số lượng này tương đối lớn, riêng đối với lao động qua đào tạo nghề thì trong nền kinh tế đang phát triển như nước ta thì khá phù hợp. Chính vì thế mà đến năm 2008 số lao động qua đào tạo nghề không giảm đi do ảnh hưởng của kinh tế như chính sách trên mà số lao động qua đào tạo lại cao hơn năm 2007 là 102.970 người thì năm 2008 là 120.450 người, tăng lên 17.480 người so với năm trước. Tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề đến năm 2008 là 18,32% và tăng lên năm 2009 là 20,66% trong khi đó các năm trước tỷ trọng này thấp: năm 2005 là 12,47%; năm 2006 là 13,65%; năm 2007 là 15,99%. Qua đó ta thấy việc dạy nghề ngày càng trở lên phổ biến hơn do có những ưu điểm của chương trình đào tạo nghề phù hợp với hoàn cảnh tài chính của người lao động trong tỉnh như: chi phí thấp hơn so với việc học tại trường cao đẳng, đại học, thời gian ngắn hơn, ứng dụng thực tế cao hơn và có thể tự tạo được việc làm trong thời gian ngắn và phù hợp với trình độ đào tạo của người lao động. Các nghề đào tạo cơ bản gồm: các nghề về lao động mộc, chạm trổ, khắc gỗ, thêu ren, hàn điện, hàn hơi, chăn nuôi, thú y, trồng trọt, tin học, chế biến thủy hải sản,... Cơ cấu đào tạo nghề chia thành đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo nghề dài hạn, hầu hết các tỉnh ở nước ta phù hợp với đào tạo nghề ngắn hạn hơn vì những lợi thế mà quá trình đào tạo ngắn hạn mang lại về cả chi phí của quá trình và lợi ích mang lại. Bên cạnh đó, tỷ lệ người đào tạo nghề dài hạn lại không có nhiều thay đổi trong tổng số người lao động được đào tạo nghề. Tỷ lệ đào tạo dài hạn chung trong giai đoạn 2005 – 2009 chỉ đạt 22,64%. Trong thời gian tới, với mục tiêu đào tạo nghề để đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH, tỷ lệ người đào tạo nghề hệ dài hạn rất được nâng cao hơn nữa. Thái Nguyên là một trong những tỉnh trọng điểm được Bộ LĐTBXH và Tổng cục dạy nghề đầu tư cho các trung tâm dạy nghề theo chương trình Mục tiêu Quốc gia giáo dục đào tạo dạy nghề và Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề. Trong thời gian qua, kinh phí cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí đào tạo của trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã tăng lên đáng kể là khoảng trên 6 tỷ đồng trong đó tập trung cho hai năm là 2005 và năm 2006 (với kinh phí đầu tư là 4,4 tỷ đồng chiếm 73,33%). Phần lớn số kinh phí dành cho đào tạo nghề được lấy từ nguồn ngân sách và sự huy động nguồn vốn ngoài ngân sách chiếm với một tỷ trọng nhỏ Trong chương trình đào tạo này, tỉnh Thái Nguyên có đào tạo nghề cho lực lượng lao động nghèo miễn phí chi phí đào tạo: Theo thông tư liên tịch số 102/2007/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 20/08/2007 của Liên Bộ Tài chính và Bộ LĐ – TB & XH thì người nghèo trong độ tuổi lao động có đủ sức khỏe, chưa qua đào tạo nghề, phải chuyển đổi nghề nghiệp và người lao động có nhu cầu học nghề được cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội giới thiệu đến cơ sở dạy nghề hoặc các doanh nghiệp để học nghề ngắn hạn (đào tạo một lần) và người được đào tạo không phải trả học phí. Mức hỗ trợ bao gồm hai phần: Hỗ trợ cơ sở dạy nghề gồm có cả doanh nghiệp có cơ sở dạy nghề thực hiện dạy nghề cho người nghèo theo hợp đồng đào tạo nghề ký với cơ quan LĐ – TB & XH với mức 300.000 đồng/ người/ tháng để chi cho các nội dung sau: Tuyển sinh, khai giảng, bế giảng, cấp chứng chỉ nghề. Tiền công cho các giáo viên dạy lý thuyết và giáo viên hướng dẫn thực hành nghề Hỗ trợ nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu học nghề. Chi phí để thuê lớp học, thuê thiết bị dạy nghề chuyên dụng (nếu cần). Chỉnh sửa, biên soạn lại chương trình, giáo trình (nếu có). Chi cho công tác quản lý lớp học không quá 5% tổng số kinh phí cho lớp đào tạo. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo tham gia học nghề: Tiền ăn trong thời gian học nghề ở các cơ sở là 10.000 đồng/người/ngày. Tiền đi lại: người nghèo học nghề ở xa nơi cư trú từ 15 km trở lên được hỗ trợ tiền đi lại theo giá phương tiện giao thông công cộng và số tiền tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa học. Nguồn kinh phí từ Trung ương hỗ trợ, sau quá trình đào tạo nghề 100% lao động nghèo của tỉnh sẽ được tham gia tư vấn và giới thiệu việc làm. Toàn tỉnh với hộ số nghèo cũng còn cao, số lao động nghèo tập trung chủ yếu ở các xã huyện miền núi và hiện nay đã có trên 80% học viên tốt nghiệp tìm được việc làm ổn định tại địa phương. Chương trình đã mang lại hiệu quả thiết thực không chỉ cho người lao động nghèo mà cả những lao động khác trong tỉnh có nhu cầu làm việc. Cơ cấu đào tạo thay đổi theo xu thế phù hợp với cơ cấu kinh tế: một số nghề tiếp tục phát triển, thu hút được nhiều học viên như ngành điện xí nghiệp, sữa chữa cơ khí, nguội, lái xe, kế toán... còn một số ngành nghề ít người học hơn như ngành mộc, đánh máy chữ... Bên cạnh đó, chương trình cũng có những hạn chế: cơ cấu các ngành nghề đào tạo còn ít chưa đáp ứng được nhu cầu học. Số lượng cơ sở dạy nghề phân phối trên địa bàn tỉnh chưa đồng đều, thường thì tập trung nhiều nhất ở thành phố Thái Nguyên. Các cơ sở dạy nghề khác thì ở 1 địa phương có 1 đến 3 cơ sở dạy nghề là nhiều. Cơ sở vật chất nhiều cơ sở còn nhỏ bé, manh mún và lạc hậu. Số lao động nghèo được đào tạo nghề chưa được nhiều, mỗi năm chỉ có khoảng 300 lao động được miễn phí chi phí đào tạo nghề trong khi nhu cầu của lao động nghèo lại rất lớn. Kinh phí thực hiện cũng chưa được sử dụng hết hiệu quả của nó và còn xảy ra nhiều thất thoát, người nghèo đa phần lại sống ở các huyện nên việc tham gia học nghề thường gặp trở ngại. Chương trình giảng dạy còn chưa đồng bộ, nặng về lý thuyết, đặc biệt là chưa có sự gắn kết giữa các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp. Một số còn bất lợi cho công tác đào tạo nghề. Chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia. Phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế, lao động của tỉnh cũng có sự chuyển dịch theo các ngành nghề. Song song với việc phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người dân, tỉnh Thái Nguyên đã đang thực hiện tốt hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đưa lao động của tỉnh sang các tỉnh khác làm việc nhằm giảm nhu cầu làm việc trong tỉnh. Hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh Thái Nguyên cũng có nhiều khởi sắc trong thời gian qua. Tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm năm đạt 6.081 người, đặc biệt số lao động đi xuất khẩu lao động tập trung chủ yếu vào hai năm 2005 và năm 2006: năm 2005 đạt là 2214 người và năm 2006 đạt 2945 người, số người đi ra khỏi tỉnh làm việc tăng hơn rất nhiều so với các năm trước như năm 2001 là 226 người. Xu hướng tăng lên do người lao động làm việc ở môi trường nước ngoài đạt được thu nhập cao hơn so với làm việc trong nước và qua đó người lao động học hỏi được nhiều kinh nghiệm làm việc và kinh nghiệm quản lý của các nhà kinh tế nước bạn. Hoạt động cung ứng lao động trong và ngoài tỉnh cũng góp phần quan trọng trong thành công chung của lĩnh vực lao động việc làm. Tổng số lao động được giải quyết việc làm trong giai đoạn 2005 – 2006 đạt là 14635 người (bình quân mỗi năm 2.727 người/năm). Với sự ra đời của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài làm việc đã tuân theo đúng pháp luật trong nước, của nước bạn., của quốc tế. Lao động trong tỉnh hay xuất khẩu sang các nước bạn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, khu vực Trung Đông, lao động sang các nước Châu Âu, Mỹ còn có rất ít... Chính sách về đầu tư cho đào tạo lao động về tay nghề, về ngoại ngữ, kiến thức pháp luật đã được xây dựng, việc đào tạo lao động và chuyên gia xuất khẩu được đưa vào chương trình đào tạo hàng năm của tỉnh. Thông qua chính sách này mà chất lượng của lao động từng bước được nâng cao: trên 50% lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo nghề và 90% được giáo dục. Tỉnh đã tạo mọi điều kiện cho những lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài như hỗ trợ nguồn vốn cho lao động đi xuất khẩu, cho lao động vay vốn để đi đào tạo trước khi đi làm ở nước ngoài. Và ở tỉnh chỉ có hoạt động lao động đi làm ở nước ngoài theo hợp đồng với mức thời gian ngắn hạn (thường là 2 năm đến 3 năm) và dài hạn nhất là 10 năm. Năm 2008 số lao động ra nước ngoài làm việc giảm hơn so với nước khác vì tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước bạn cũng gặp khó khăn nên nhu cầu về lao động cũng giảm dần. Kết quả là có khoảng 2582 người lao động năm 2009 được xuất khẩu, làm giảm đi áp lực về cung ứng việc làm của tỉnh đi nhiều nhưng tụt giảm đi trên 700 người so với năm 2008. Hơn thế, mỗi năm số người lao động đi xuất khẩu đã đem về cho tỉnh một nguồn ngoại tệ, tạo điều kiện cho tỉnh tăng trưởng kinh tế của tỉnh do nguồn vốn tăng lên từ thu hút tiết kiệm của dân cư. Nguồn thu nhập này là nguồn tài chính đáng kể cho gia đình làm vốn sau khi đi xuất khẩu về làm nguồn vốn để đầu tư hoặc làm vốn để tự tạo việc làm, ứng dụng được những kinh nghiệm đã học hỏi được về tăng năng suất lao động hơn. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: số đơn vị trong tỉnh trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu lao động còn ít, hầu như chủ yếu là do các doanh nghiệp ngoài tỉnh phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng trong tỉnh thực hiện, điều này dẫn đến khả năng chủ động trong chiến lược xuất khẩu lao động của tỉnh bị hạn chế, chất lượng lao động xuất khẩu còn thấp nên hiệu quả kinh tế từ xuất khẩu lao động chưa cao, các thông tin thị trường xuất khẩu lao động còn chưa đầy đủ, kịp thời. Chương trình tín dụng cho người dân để sản xuất kinh doanh. Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm được thành lập từ 11/4/1992 theo Nghị quyết số 120/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về: “Chủ trương phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong những năm tới thông qua tín dụng”. Để từng bước tháo gỡ khó khăn về vốn trong sản xuất kinh doanh, tăng cung việc làm lên trong nền kinh tế thì tỉnh đã thực hiện chương trình cho vay vốn để sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi. Chương trình này đã thu được những kết quả: Khi nền kinh tế tỉnh ở giai đoạn 2005 – 2010 nguồn vốn không dồi dào như ở giai đoạn 1996 – 2000 khi nền kinh tế có nhiều khởi sắc hơn. Với tổng số tiền là 380 tỷ đồng đã tạo việc làm trung bình cho khoảng 15 -17 ngàn lao động hàng năm trong giai đoạn 2006 – 2009. Cung cấp tín dụng ưu đãi, chủ yếu là tín dụng qui mô nhỏ cho các hộ gia đình nghèo vay vốn để tự sản xuất kinh doanh với thủ tục vay vốn và thu hồi vốn đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng và phù hợp với người lao động cần vốn vay. Trong các năm qua, nguồn vốn này của tỉnh thường xuyên được bổ sung để nâng số tiền có trong quỹ lớn hơn thực hiện cho vay hàng nghìn lượt với hàng nghìn các dự án. Áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay, chủ yếu là tín chấp thông qua hình thức nhóm tín dụng – tiết kiệm hoặc các nhóm tương trợ tự nguyện của những người mất việc. Món vay và chu kỳ vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh để tăng số vòng quay thu hồi vốn vay góp phần đưa doanh số cho vay hàng năm lên 22 – 24 tỷ đồng. Với đối tượng trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các làng nghề, trang trại, hợp tác xã, tổ hợp sản xuất và hộ gia đình góp phần tạo việc làm thiết thực và việc làm đúng đối tượng cho người dân trên địa bàn tỉnh. Mang lại hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả kinh tế cao vì hiệu quả của nguồn vốn được thể hiện ngay ở hoạt động sản xuất nhiều hơn so với trước – quy mô nền kinh tế được mở rộng, số lao động làm việc tăng lên (tận dụng được lao động nhàn rỗi trong gia đình và lao động trong nông thôn), thu nhập bình quân đầu người của người dân tăng lên. Bình quân mức vay khoảng 1 triệu đến 3 triệu trên một lao động và các hộ gia đình còn tự đầu tư thêm khoảng 6 triệu/ lao động để hoạt động sản xuất kinh doanh, tự tạo việc làm và thu hút số ít lực lượng lao động khác trên địa bàn tỉnh. Nguồn vốn của chương trình này lấy chủ yếu từ ngân sách Nhà nước hay chính là NHCSXH của tỉnh Thái Nguyên nên các chương trình cho vay thường xuyên được kiểm tra, giám sát để đảm bảo nguồn vốn vay sử dụng đúng mục đích. Các cán bộ của tỉnh phối hợp cùng các Ban ngành khác liên quan đã cử những cán bộ, kỹ sư nông nghiệp hay người có chuyên môn đi theo nguồn vốn cho vay để hướng dẫn những người dân vay vốn sản xuất cách làm ăn, cách sản xuất như: kỹ thuật chăm sóc cây trồng, vật nuôi như thế nào, phương pháp sản xuất, sử dụng thế nào đúng mục đích nguồn vốn để mang lại thu nhập cho người dân cải thiện đời sống người dân rồi từ đó ổn định đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cho toàn tỉnh. Không những thế tỉnh còn tạo thêm nhiều kênh dẫn vốn đến với người dân chưa có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Như hiệ nay, Thái Nguyên cũng thực hiện chương trình của cả nước thực hiện chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên và với các sinh viên, học sinh có điều kiện khó khăn đang theo học tại các trường Đại hoc, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và tại cơ sở đào tạo nghề. Các đối tượng học sinh, sinh viên này là lực lượng dự trữ hàng năm gia nhập vào thị trường lao động khoảng 40.000 người, mức vay là 800.000đ/tháng/học sinh, sinh viên. Vì thế việc thực hiện chương trình tín dụng với các đối tượng này rất tốt và mang lại hiệu quả lâu dài: khuyến khích họ học tập tốt hơn bổ sung kiến thức nâng cao chất lượng cho lao động sau khi ra trường. Mang lại cơ hội lớn hơn cho các sinh viên tìm kiếm được việc làm và đúng với yêu cầu của nhà cung ứng việc làm. Bên cạnh những hiệu quả luôn có những hạn chế của chương trình: Nguồn vốn từ Trung ương đến địa phương rồi đến tay người vay vốn là cả một quá trình vì thế còn có những thất thoát và kéo dài thời gian cấp vốn cho người dân. Trên thực tế của tỉnh thì các thủ tục cho vay vẫn chưa hề đơn giản như mức cần thiết. Vì thế vẫn còn gây khó khăn cho người đi vay vốn. Việc tuyên truyền về nội dung chính sách cho vay đến với người dân chưa thường xuyên, các tỉnh vùng sâu vùng xa,miền núi chưa được tiếp cận nhiều. Khi nguồn vốn đã được giải ngân thì những khó khăn từ phía người đi vay lại xuất hiện như: sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích, không hoạt động sản xuất kinh doanh mà để đáp ứng một số nhu cầu trước mắt như sắm sửa một số dụng cụ trong nhà, chi cho khám chữa bệnh hay học hành của con cái... gây ra sử dụng vốn kém hiệu quả. Với nhiều các chương trình khác nhau mà UBND tỉnh Thái Nguyên cùng người dân trong tỉnh đã thực hiện để nhằm giải quyết cho các lao động không có việc làm và những lao động được làm việc theo nhu cầu. Các chương trình này đã mang lại kết quả tốt cho tỉnh mặc dù có những hạn chế nhưng trong thời gian tới tỉnh sẽ vẫn tiếp tục các chương trình đã và đang thực hiện, tiếp tục phát huy các thành tựu mà các chương trình mang lại. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN Các quan điểm giải quyết việc làm của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình. Về phía Nhà nước hay chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương của tỉnh đã kết hợp với nhiều các cơ quan liên quan thực hiện các chương trình tạo việc làm trên địa bàn tỉnh. Với các chương trình việc làm thông qua sử dụng nguồn vốn quốc gia (chương trình 120): Theo quyết định phân bổ từ Quỹ Quốc gia về giải quyết việc làm, trong năm 2010 Thái Nguyên có trên 21,68 tỷ đồng phục vụ cho công tác giải quyết việc làm (tạo việc làm mới cho 2600 lao động trong tỉnh). Số vốn này được Ngân hàng Chính sách – Xã hội tỉnh cân đối để phân bổ về cho các huyện, thành, thị trong đó ưu tiên cho một số địa phương như: TP Thái Nguyên, các huyện Phổ Yên, Định Hóa, Đại Từ, Phú Bình và một số hộ thuộc diện khó khăn, thu hồi đất sản xuất... Với nguồn vốn ít nhưng số lao động cần giải quyết việc làm tương đối lớn nên các địa phương ưu tiên cho những dự án giải quyết việc làm được nhiều nhất, nhất là đối với lao động nông thôn, tập trung vào các cơ sở sản xuất có quy mô và các doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Các lãnh đạo của tỉnh của các ban ngành tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động được tiếp cận với nguồn vốn một cách dễ dàng nhất, phát huy tính sáng tạo của đội ngũ cán bộ tín dụng, các ngành liên quan của tỉnh cần tăng cường kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn này để xử lý kịp thời những bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện. Với các chương trình đào tạo: Chính quyền địa phương tiếp tục tổ chức nhiều các chương trình đào tạo nghề cho người lao động với nhiều loại nghề hơn, chi phí thấp hơn. Cơ cấu về chi ngân sách, tăng tỷ trọng chi ngân sách của tỉnh cho đào tạo nghề đặc biệt quan tâm đến đào tạo nghề cho người dân bị thu hồi đất canh tác. Chú trọng tăng dần tỷ trọng đầu tư cho đào tạo nghề dài hạn thay vì đầu tư chú trọng đào tạo nghề ngắn hạn vì hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề chuyển đổi nghề nghiệp của người nông dân. Trong thời gian tới, chính quyền địa phương thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề theo hướng khuyến khích việc xây dựng các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập được quản lý như một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, hỗ trợ về thuế, đất đai và các chính sách hỗ trợ khác. Tỉnh tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thành lập các cơ sở đào tạo nghề, liên kết đào tạo. Bên cạnh đó, tỉnh cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền và nâng cao hơn nữa vai trò của các đơn vị đoàn, hội tại các địa phương nhằm phổ biến chính sách ưu đãi của chính quyền tỉnh về hỗ trợ người dân học nghề, hiểu được công tác đào tạo nghề nhằm chuyển đổi nghề nghiệp. Với chương trình tín dụng: Tổ chức cán bộ tín dụng của chính quyền xuống các địa phương tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân muốn vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn về các thủ tục vay vốn để đơn giản nhất, thông báo về các quy định mức vay đối với từng đối tượng, giúp người dân sản xuất kinh doanh hoạt động tốt đi đúng mục đích của nguồn vốn, giám sát và kiểm tra tránh thất thoát nguồn vốn của Nhà nước. Tạo mọi điều kiện, môi trường tốt để chương trình thực hiện mang lại hiệu quả cao. Với chương trình xuất khẩu lao động của tỉnh: Làm việc với một môi trường mới và đòi hỏi ở ý thức của người lao động và đi theo đúng pháp luật của từng nước, từng địa phương mà người lao động đến làm việc. UBND tỉnh là cầu nối vững chắc nhất cho người lao động tìm hiểu về môi trường, điều kiện làm việc ở ngoài tỉnh để tránh những thiệt thòi, rủi ro cho các lao động đi làm việc ở nước ngoài. Chính quyền tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện nhiều cam kết hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu như: hoạt động cho vay vốn đi xuất khẩu, đảm bảo quyền pháp lý cho lao động tại nước bạn, hỗ trợ cho người lao động về nước an toàn khi gặp phải rủi ro, cam kết bảo lãnh. Và thực hiện nhiều hình thức hỗ trợ như miễn giảm tiền học phí, tiền học ngoại ngữ, tiền làm hộ chiếu, khám sức khỏe... Đối với chính quyền địa phương của tỉnh Thái Nguyên có vai trò chủ yếu là cơ quan tạo hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, các chính sách có liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, những điều kiện liên quan cả đến môi trường làm việc của người lao động, những quy định về an toàn lao động, khu làm việc an toàn, tạo môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là một bộ phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động. Về phía các doanh nghiệp. Về phía người sử dụng lao động bao gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế xã hội cần có thông tin thị trường đầu vào và đầu ra để không những tạo ra việc làm mà quan trọng còn phải duy trì và phát triển chỗ làm việc cho người lao động. Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cùng với các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm giải quyết việc làm cho người dân mất đất khi lấy đất làm dự án. Trong thời gian qua, trong quá trình thu hồi đất cho các dự án, đời sống người dân sau khi đất bị thu hồi được chú trọng. Những vấn đề liên quan đến đời sống, việc làm của người dân sau khi không còn tư liệu sản xuất thì vấn đề công ăn, việc làm sẽ được giải quyết như thế nào? Trước khi triển khai kế hoạch thu hồi đất, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp chuẩn bị hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương đó nên có những buổi tập huấn nâng cao nhận thức cho người dân về ảnh hưởng của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất như tư vấn định hướng nghề nghiệp và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, hướng dẫn họ sử dụng tiền đền bù có hiệu quả. Các doanh nghiệp là người trực tiếp chịu chi phí của viện đền bù cho người dân, nhưng hiện nay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn tồn tại tình trạng thiếu công bằng trong công tác đền bù làm ảnh hưởng đến cuộc sống, công ăn việc làm của người dân. Nhưng khi có số tiền đền bù thì người dân lại sử dụng vào việc sửa sang, xây dựng nhà cửa, mua sắm phương tiện đi lại, việc học tập cho con cháu. Rất ít gia đình dành khoản tiền đó cho việc học nghề của con cái, hoặc đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh, chuyển đổi nghề, nguy cơ thất nghiệp ở người dân mất đất là lớn vì họ khó học nghề mới. Chính vì thế, các doanh nghiệp trong tỉnh bắt đầu cũng có giải pháp là không giao hết số tiền đền bù cho người dân mà kết hợp với chính quyền địa phương tạo điều kiện cho người dân học nghề và làm việc cho chính các doanh nghiệp đó. Tạo ra một lợi ích lớn là người dân chuyển đổi được cơ cấu ngành nghề từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Với lao động trên 40 tuổi các chính quyền còn cấp cho họ 3-4m2 đất ở gần hoặc trong khu công nghiệp của tỉnh để họ tự tổ chức hoạt động dịch vụ như bán hàng tạp hóa, quán ăn, dịch vụ sinh hoạt. Các doanh nghiệp có các giải pháp đào tạo lao động thông qua các chương trình đào tạo nghề, đào tạo trực tiếp cho nhân công của doanh nghiệp mình, tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu hút lao động ngày càng có tay nghề vào doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong tỉnh kết hợp với Sàn giao dịch việc làm của Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh để tổ chức hội chợ việc làm, đa dạng hóa thành các phiên giao dịch việc làm để lao động chủ động tìm đến các doanh nghiệp, biết đến các doanh nghiệp để từ đó đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng, còn các doanh nghiệp tìm được nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ, phù hợp với yêu cầu. Các doanh nghiệp thực hiện các chế độ ưu đãi như: bảo hiểm thất nghiệp, tiền lương tăng dần theo khối lượng làm việc, theo kinh nghiệm, các chính sách về bảo hiểm, an toàn lao động... nhằm thu hút lao động có chất lượng cao. Về phía cá nhân, hộ gia đình. Đối với hộ gia đình và cá nhân người lao động thì quan điểm về việc làm quá rõ ràng. Các hộ gia đình là nền tảng của xã hội, muốn xã hội bền vững thì các hộ gia đình cũng phải ổn định, cuộc sống được nâng cao. Hộ gia đình và cá nhân của một con người luôn mong muốn có một công việc tốt, ổn định, làm việc để đem lại một thu nhập để trang trải cuộc sống sinh hoạt của chính cá nhân mình và gia đình. Các hộ gia đình và người lao động thất nghiệp, không có việc làm tích cực tìm việc làm và tự tạo việc làm. Tham gia vào các hội chợ việc làm mà tỉnh kết hợp với các doanh nghiệp thực hiện để tìm việc làm phù hợp với bản thân. Tìm tòi, hỏi han các thông tin về nơi làm việc đang thiếu lao động, tự trau dồi kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Tham gia vào các chương trình đào tạo dạy nghề để vừa học hỏi được kỹ năng làm việc lại có cơ hội nhiều hơn để tiếp cận đến việc làm như: học viên học giỏi thì các doanh nghiệp sẽ đến đăng ký làm việc cho doanh nghiệp, được ưu tiên giảm học phí... Đối với nông dân là chủ yếu thì tự tạo việc làm bằng cách tập trung trồng xen canh, đầu tư vào nông nghiệp theo chiều sâu về công nghệ để đạt năng suất cao hơn với diện tích mặc dù ít hơn. Ở tỉnh Thái Nguyên cũng đã có người lao động tự tạo việc làm mở rộng chăn nuôi bò, gà, lợn... các mô hình trang trại phát triển hơn. Hoặc là phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống như đan mây tre tại nhà cho ra các sản phẩm bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh đem lại hiệu quả kinh tế. Đầu tư và phát triển các ngành nghề phụ trên địa bàn, hình thành các ngành nghề và vùng nghề thế mạnh như: Sản xuất mành cọ; làm gạnh thủ công ở Bảo Cường, Trung Lương, Bình Yên; dịch vụ buôn bán ở Chợ Chu, Trung Hội; khai thác cát sỏi, vật liệu xây dựng…Mô hình đồi chè xanh của thanh niên, phủ xanh đất trống đồi trọc đem lại hiệu quả kinh tế giải quyết việc làm cho người dân trung bình khoảng 7 lao động/1 năm/1 xã. Một con số không lớn nhưng đã người lao động đã giúp chính bản thân mình và người khác có việc làm, có mục đích sống. 3.2. Các giải pháp, các chính sách trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tổng quát các chương trình đã thực hiện để giải quyết việc làm. UBND tỉnh Thái Nguyên đề ra kế hoạch trong năm năm tiếp theo 2010 – 2015: Vẫn tiếp tục lấy kinh phí từ nguồn Ngân sách Trung ương để thực hiện tiếp các chương trình của tỉnh đã thực hiện để thu được các kết quả tốt hơn. Tổng kết lại các chương trình để học hỏi kinh nghiệm thực hiện tốt các chương trình mở rộng trong thời gian tới và hạn chế nhỏ nhất những bất cập của các chương trình. Các chương trình 120 của Trung ương được tiếp tục thực hiện theo cấp trung ương vì nguồn vốn của chương trình là từ Ngân sách Trung ương phát ngân vêc ngân sách của tỉnh, của địa phương. Triển khai tốt Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, đảm bảo thuận tiện cho người vay vốn và cơ quan quản lý Quỹ. Ngoài phần Ngân sách do Trung ương hỗ trợ, tỉnh cần trích Ngân sách tỉnh lập Quỹ hộ trợ việc làm địa phương. Chỉ đạo các thị xã, huyện thuộc tỉnh xây dựng Chương trình việc làm của địa phương có các giải pháp đào tạo hướng dẫn cách làm ăn để người dân mạnh dạn đầu tư tạo việc làm. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động và cung ứng lao động cho các tỉnh khác thông qua các chương trình dạy nghề, cho vay vốn hỗ trợ người lao động về thủ tục hồ sơ, thủ tục hành chính. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành trong tỉnh cũng như ở Trung ương để xây dựng các chương trình mục tiêu về xuất khẩu lao động. Gắn hoạt động xuất khẩu lao động với các công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề để đảm bảo các yêu cầu về trình độ, tác phong và ngoại ngữ. Tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở xuất khẩu lao động để tiết kiệm kinh phí đào tạo cũng như đảm bảo các phẩm chất khác của người lao động. Xây dựng các cơ chế chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh tham gia vào việc đào tạo và xuất khẩu lao động cũng như đảm bảo việc làm cho người lao động sau khi về nước Chú trọng các chính sách, giải pháp nhằm thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ các nơi khác tới làm việc tại tỉnh. Nhóm giải pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Với mục tiêu về kinh tế phấn đấu đến năm 2020 Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp của cả nước, với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt bình quân hàng năm là 12 – 13% trong giai đoạn năm 2010 – 2020. Trong đó, ngành nông nghiệp của tỉnh tăng trưởng khoảng 5 – 5,5%, ngành công nghiệp tăng khoảng 13,5% - 14,5%, ngành dịch vụ tăng khoảng 12% - 13% trong cả giai đoạn. GDP/người tính theo USD giá hiện hành đạt trên 800 USD vào năm 2015 bằng khoảng 77% mức bình quân cả nước (1.050 USD) và khoảng 2.200 – 2300 USD vào năm 2020, bằng bình quân cả nước. (Theo số liệu dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Theo từng khu vực địa lý của tỉnh. Các hướng mà tỉnh hướng tới được phân theo từng khu vực trên địa bàn tỉnh. Đối với khu vực miền núi, phải thực hiện hiệu quả chính sách di dân, định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc. Giải quyết việc làm theo hướng đẩy mạnh cây công nghiệp dài ngày và cây công nghiệp hàng năm. Chú trọng giao đất, giao rừng cho đồng bào miền núi. Phát triển chăn nuôi theo hướng cải tạo giống cây trồng vật nuôi và nâng cao chất lượng gia súc, gia cầm, chú trọng phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh đó cần tập trung hướng dẫn đồng bào miền núi kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, tạo điều kiện cho hộ vay vốn trên cơ sở đó tự giải quyết việc làm. Đối với khu vực đồng bằng và nông thôn, phải chú trọng giải quyết việc làm theo hướng phát triển sản xuât nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, kết hợp với chế biến nông sản, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Cần chú trọng xây dựng các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng về điều kiện tự nhiên và lợi thế của từng vùng, khuyến khích mở rộng, phát triển tiểu thủ công nghiệp tập trung đào tạo nghề truyền thống. Đối với khu vực thành thị, cần chú trọng giải quyết việc làm theo hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung, sản xuất công nghiệp quy mô lớn phù hợp với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, cũng như các ngành nghề thuộc khu vực công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển khu vực dịch vụ (dịch vụ sản xuất, dịch vụ sinh hoạt, tài chính, hạ tầng cơ sở... ). 3.2.2.2. Theo nhóm ngành kinh tế của tỉnh Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển các ngành mà tỉnh có ưu thế sau: Phát triển ngành công nghiệp luyện kim như sản xuất thép, sản xuất thiếc, sản xuất kẽm... Phấn đấu đến năm 2020 trở thành tỉnh dẫn đầu về sản xuất thép cả về số lượng và chất lượng, đóng góp vào GDP của tỉnh cao nhất trong ngành công nghiệp. Trong thời gian tới, ngành công nghiệp luyện kim cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở: khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có, nâng cao giá trị chế biến tinh khoáng sản sau khai thác, khuyến khích mọi thành phần kinh tếm huy động mọi nguồn lực xã hội, thu hút nhân tài và lao động chất lượng cao vào phát triển ngành luyện kim. Phát triển ngành cơ khí (sản xuất động cơ Diesel và các loại phụ tùng, linh kiện dùng cho xe máy và ô tô, phụ tùng máy mỏ và phụ tùng thiết bị khai khoáng, dụng cụ y tế...). Ngành công nghiệp cơ khí cần được phát triển trên cơ sở: Gắn phát triển công nghiệp cơ khí với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và với phát triển các ngành công nghiệp khác nói riêng. Phát triển cơ khí đáp ứng cơ bản các nhu cầu của tỉnh về thiết bị máy móc phục vụ nông nghiệp, áo dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, thực hiện đầu tư có trọng điểm. Phát triển công nghiệp khai thác khoáng sản: Ngành này cần được ưu tiên phát triển theo hướng tập trung khai thác các khoáng sản có giá trị kinh tế cao, trữ lượng lớn, đầu tư công nghệ hiện đại để tăng sản lượng, giảm giá thành, bảo vệ môi trường, đa dạng hóa quy mô khai thác khoáng sản trên cơ sở không lãng phí tài nguyên dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước. Phát triển ngành công nghiệp hóa chất: đây là ngành có nhiều tiềm năng của tỉnh vì đây là ngành có nhiều việc làm mà thu hút lực lượng lao động không đòi hỏi nhiều về chất lượng và trình độ chuyên môn, phù hợp với thực trạng lao động hiện nay của tỉnh Thái Nguyên. Phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng: vì ngành sẽ thu hút được nhiều lao động vào ngành với quy mô thị trường của ngành lớn, nhu cầu việc về vật liệu xây dựng trong tỉnh ngày càng tăng dựa trên lợi thế về nguồn nguyên liệu có sẵn phong phú. Phát triển ngành công nghiệp dệt may: vì ngày này đang có tốc độ phát triển khá cao và có xu hướng là nhu cầu với sản phẩm dệt may đang tăng khá nhanh nhưng lại có đòi hỏi về yêu cầu chất lượng sản phẩm nên giải pháp đầu tư trong ngành này là cải tiến trang thiết bị để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, chú trọng đầu tư mới các nhà máy sợi, dệt, nhuộm, chú trọng đầu tư đào tạo nâng cao tay nghề của công nhân, chú trọng phát triển thị trường.... Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản: phát triển vùng nguyên liệu ổn định, đàu tư thay thế dần các trang thiết bị, công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng các cơ sở chế biến tập trung, giảm dần các sản phẩm sơ chế, tăng nhanh các sản phẩm chủ lực (bia, rau quả, chế biến thịt hộp...) Phát triển các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp tập trung: Thái Nguyên có các điều kiện để hình thành và phát triển nhanh chóng các khu, cụm công nghiệp tập trung. Vì thứ nhất là quỹ đất của tỉnh có thể bố trí cho phát triển công nghiệp khá lớn (khoảng 5342 ha). Thứ hai là hệ thống giao thông khá phát triển, đảm bảo giao thông thuận lợi giữa Thái Nguyên với bên ngoài. Thứ ba là hạ tầng cơ sở ngày càng được củng cố và nâng cấp. Cuối cùng là tỉnh có nguồn nhân lực phong phú và có chất lượng Phát triển các làng nghề mà tỉnh Thái Nguyên có tiềm năng, lợi thế về nguồn nguyên liệu, vật liệu, nhân Mặc dù cơ cấu tỷ trọng lao động và GDP trong nông nhiệp của Thái Nguyên đang ngày càng giảm. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm nói riêng và trong phát triển kinh tế của tỉnh nói chung. Khu vực nông nghiệp cần phát triển một cách đa dạng, bền vững theo hướng sản xuất gắn với công nghiệp chế biến: công với các sản phẩm chủ lực như: các sản phẩm về mây đan tre, nguyên liệu từ sản phẩm nông nghiệp. Trong nông nghiệp Phát triển trồng trọt: hình thành các vùng sản xuất và rau quả tập trung, chất lượng cao tại các huyện có điều kiện như các huyện Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Thị xã Sông Công, tổ chức thâm canh ở trình độ cao tại các vùng chủ động được nước tưới, áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật. Khai thác tối đa lợi thế trồng các loại rau ôn đới, phát triển mạnh gieo trồng các loại cây công nghiệp ngắn hạn và dài ngày tạo thành các vùng nguyên liệu tập trung phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Phát triển chăn nuôi: ổn định và phát triển các loại gia súc gia cầm, trong đó ưu tiên phát triển đàn lợn, đàn bò... Tận dụng những lợi thế về đặc điểm điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng thủy sản tại các huyện có hồ lớn. Lựa chọn và áp dụng các hình thức nuôi, kỹ thuật nuôi cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước cho các hộ nuôi trồng thủy sản ở vùng sâu, vùng xa, trợ giá cho các cơ sở sản xuất giống thủy sản, hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản gặp rủi ro. Đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông – khuyến lâm phát triển sản xuất.. Các hoạt động này trang bị kiến thức và kỹ năng ra quyết định sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với thị trường, điều kiện tự nhiên và lợi thế cạnh tranh của địa phương. Cung cấp kiến thức và kỹ năng về khuyến nông, lâm, ngư nghiệp thông qua áp dụng khuyến nông có sự tham gia của người dân, gắn kết chặt chẽ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật với giới thiệu phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản chế biếnm hạch toán kinh tế và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ việc hình thành các tổ chức khuyến nông tự quản, cung cấp các thông tin khoa học kỹ thuật và thị trường cho nông dân, nhất là người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số. Đến hết năm 2010, có khoảng 45.000 lượt nghèo được tập huấn, tham gia mô hình, hội nghị về khuyến nông lâm ngư nghiệp và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, có trên 70% số xã có cán bộ khuyến nông cơ sở, nhu cầu vốn khoảng 30 tỷ đồng trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 25 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 3 tỷ đồng và huy động cộng đồng là 2 tỷ đồng. Phát triển các làng nghề: Thái Nguyên đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 tăng thêm 59 làng nghề để toàn tỉnh có 180 làng nghề, đủ sức làm đòn bẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu cụ thể được xác định là từ nay đến năm 2010 sẽ tăng thêm 22 làng nghề, đến năm 2015 tăng thêm 22 làng nghề nữa và năm 2020 sẽ tăng thêm 15 làng nghề. Trong đó, mở mới 20 làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ và 20 làng nghề trồng nấm, thu hút gần 8.300 hộ với trên 18.000 lao động. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các nghề truyền thống của Thái Nguyên như sản xuất chế biến chè, chế biến thực phẩm, nghề đan lát... đã phát triển khá mạnh, tạo bước khởi đầu thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Toàn tỉnh có khoảng 13.300 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề với gần 26.500 lao động, thu nhập từ ngành nghề đạt gần 210 tỷ đồng. Tuy nhiên, mới chỉ có 12 làng nghề được công nhận, còn lại 109 làng nghề chưa được công nhận vì quy mô còn quá nhỏ, giá trị sản xuất và số lao động còn ở mức khiêm tốn, các sản phẩm của làng nghề chưa có thương hiệu, chất lượng không cao, mức độ tiêu thụ còn hạn chế. Qua khảo sát điều tra ở một số làng nghề cho thấy, những năm qua, các làng nghề đã chú ý hơn đến việc áp dụng máy móc, thiết bị vào sản xuất nhưng vẫn còn ở mức độ thấp, giữa các ngành và các vùng chưa đồng đều, vấn đề ứng dụng và đổi mới công nghệ còn gặp nhiều khó khăn về vốn, nhân lực... Các ngành nghề có số làng nghề chiếm tỷ trọng cao trong tổng số làng nghề ở Thái Nguyên như mây tre đan, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, chế biến chè, đồ gỗ mỹ nghệ... có mức độ cơ giới hoá còn nhỏ bé, chủ yếu chỉ ở khâu sơ chế ban đầu như chẻ tre, cưa, xẻ gỗ.... Nhưng hiện nay sản xuất ở làng nghề còn nhỏ, manh mún – đây là hạn chế của làng nghề tại tỉnh Thái Nguyên. Trong thương mại, dịch vụ. Vẫn là tận dụng phát triển các ngành mà tỉnh có những lợi thế trước: ưu tiên đầu tư phát triển mạnh ngành du lịch, tập trung khai thác các thị trường trong nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... cũng như thị trường nước ngoài như thị trường Tây Âu, Nhật, Trung Quốc, khu vực ASEAN... Đối với ngành này phát triển theo đa dạng hóa các loại hình và sản phẩm du lịch (du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch vui chơi giải trí thể thao, du lịch văn hóa...). Thực hiện các chính sách nhằm thu hút đầu tư mạnh mẽ vào du lịch, tạo ra hệ thống cơ sở vật chất du lịch có chất lượng cao, đồng bộ tạo nhiều sản phẩm du lịch đặc thù có khả năng cạnh tranh, bảo vệ tôn tạo và phát triển các nguồn tài nguyên và cải thiện môi trường du lịch. Phát triển thương mại: phấn đấu đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm giao dịch thương mại, bán buôn bán lẻ, xúc tiến thương mại và vận động đầu tư lớn của vùng trung du và miền núi phía Bắc. Trong thời gian tới Thái Nguyên cần: Xây dựng 2 – 3 trung tâm thương mại lớn có chức năng vừa là trung tâm giao dịch thương mại, vừa là nơi cung cáp văn phòng cho các công ty, văn phòng đại diện cho thuê, xây dựng các trung tâm thông tin tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp, hoàn thiện mạng lưới bán buôn và bán lẻ hàng hóa dịch vụ, thực hiện các chương trình chính sách hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, xúc tiến thị trường, lập các văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài, khuyến khích phát triển các dịch vụ trọn gói... Đây là thị trường tốt và ngày càng được mở rộng thu hút nhiều lao động vào ngành này. 3.2.3. Nhóm giải pháp về thị trường lao động. Tuyên truyền làm chuyển đổi nhận thức của xã hội về vấn đề việc làm và phương thức giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường. Với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước đứng ra trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động. Nhưng với cơ chế thị trường như hiện nay thì Nhà nước đóng vai trò tạo dựng môi trường pháp luật, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư tạo mở rộng việc làm, khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác. Tổ chức thông tin thị trường lao động: nắm bắt diễn biến cung cầu lao động nhằm điều chỉnh, di chuyển lao động từ nơi thừa sang nơi thiếu, thu hút lao động các ngành nghề đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao mà tỉnh không đáp ứng được từ nơi khác đến, đồng thời hỗ trợ người lao động trong tỉnh đi làm việc ở địa bàn khác phù hợp với nguyện vọng, kỹ năng họ có. Tại tỉnh Thái Nguyên, công tác này nên tập trung vào các đơn vị có liên quan như các trung tâm Giới thiệu việc làm, phòng quản lý lao động. Thị trường lao động được xã hội hóa, Nhà nước cần có biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực. Cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát điều chỉnh quan hệ cung cầu lao động thông qua hệ thống cơ chế chính sách pháp luật để đảm bảo công bằng và trợ giúp cho người lao động nói chung và nhóm lao động yếu thế nói riêng. Tổ chức tốt hoạt động Giới thiệu việc làm trong những năm tiếp theo, tổ chức nhiều các Hội chợ việc làm trong tỉnh nhằm tạo dựng mối liên kết giữa người lao động, người sử dụng lao động, cơ sở đào tạo nghề và cơ sở giới thiệu việc làm. Khắc phục những hạn chế của tổ chức trong những năm vừa qua đã nêu ở trên, tạo nhiều thuận lợi và đem lại lợi ích cho người lao động cũng như nhà sử dụng lao động. Quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh. Quan sát lại chức năng của các trung tâm giới thiệu việc làm theo hướng tăng cường chức năng tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin và phân tích thị trường lao động, trợ giúp người thất nghiệp, giảm dần chức năng dạy nghề. Củng cố mạng lưới giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, chú trọng mạng lưới các trung tâm Giới thiệu việc làm tại những vùng có tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nhanh, các huyện chưa có trung tâm Giới thiệu việc làm. Tăng cường khả năng giới thiệu việc làm, mục tiêu tới trong năm 2015 có 2000 – 2500 người lao động tìm được việc thông qua kênh giới thiệu việc làm của trung tâm, dự báo giai đoạn 2015 – 2020 con số này là 3000 – 3500/năm. Từ năm 2006 đến năm 2010, đầu tư củng cố năng lực đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn hóa các giáo trình, chương trình và chức năng nghề đào tạo. Tập trung đào tạo một số nghề ngắn hạn chủ yếu, mỗi cơ sở từ 2 – 3 nghề. Nâng cao năng lực cho các Trung tâm Giới thiệu việc làm trong thông tin và phân tích thị trường lao động, đánh giá nhu cầu đào tạo và việc làm của người lao động và người sử dụng lao động. Đẩy mạnh việc xây dựng các mối quan hệ giữa các trung tâm Giới thiệu việc làm với các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề nhằm nắm bắt được diễn biến về cung cầu lao động trên địa bàn tỉnh. Tiến tới việc thực hiện nối mạng thông tin giữa các trung tâm Giới thiệu việc làm. Thực hiện điều tra, thu thập thông tin và công bố định kỳ các thông tin về thị trường lao động. Trong năm năm tiếp theo 2010 – 2015, chuyển dần các chương trình đào tạo nghề cho bộ phận chịu trách nhiệm dạy nghề, nhằm tập trung hơn nữa vào chương trình giới thiệu, giải quyết việc làm. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức quản lý cho cán bộ trung tâm. Tổ chức giới thiệu, tham quan tìm hiểu kiến thức và trao đổi kinh nghiệm giữa các trung tâm trong địa bàn tỉnh cũng như với các trung tâm tại các địa phương khác. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành có liên quan để xây dựng các chương trình mục tiêu về giới thiệu việc làm hàng năm cũng như trong từng kế hoạch cho các năm tiếp theo của tỉnh. Mở các trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, quy mô nền kinh tế không mở rộng nên cung việc làm tạo ra không đủ với nhu cầu về việc làm ngày càng tăng của người dân. Nhưng có những doanh nghiệp có cung việc làm lại không tìm được cầu của người lao động phù hợp. Hệ thống các Trung tâm giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh có vai trò là nơi kết nối giữa các doanh nghiệp với người lao động. Trung tâm giới thiệu việc làm đã tư vấn nghề và việc làm cho hàng ngàn người dân mỗi năm. Hệ thống dịch vụ việc làm của tỉnh đã hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tư vấn, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động của mình. Trong giai đoạn 2001 – 2005, tổng số lao động trong và ngoài độ tuổi lao động của toàn tỉnh được tư vấn việc làm và tư vấn nghề thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm đạt trên 90 ngàn lượt người (bình quân trên 18.923 lượt người/năm). Và thông qua đó các nhà tuyển dụng biết tìm nguồn cung lao động ở đâu và đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng thì toàn tỉnh có là 4.433 người đã được tuyển dụng. Con số này vẫn còn thấp so với số lượng người được tư vấn, vậy hệ thống giới thiệu việc làm của tỉnh làm việc chưa đạt được hiệu quả. Tổ chức các hội chợ việc làm cho người lao động. Việc làm thực tế của các cơ quan lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên là mở các hội chợ việc làm, các sàn giao dịch việc làm để tạo điều kiện cho người có nhu cầu tìm kiếm việc làm tiếp cận được với các việc làm mà đang cần người lao động. Về mặt người đang tìm việc thì được nhiều sự lựa chọn phù hợp với trình độ tay nghề và sở thích công việc nào? Tạo ra được nhiều lợi thế vì qua đó người đang tìm kiếm việc làm sẽ biết được các yêu cầu của doanh nghiệp đang tìm kiếm để học tập, bổ sung thêm kỹ năng đáp ứng được những yêu cầu của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tuyển dụng được người lao động phù hợp với tiêu chí làm việc của doanh nghiệp, giảm bớt về mặt chi phí đào tạo thì công việc sản xuất kinh doanh tốt hơn. Về sử dụng nguồn lực cho giải quyết việc làm của tỉnh. Bên cạnh nguồn vốn to lớn và quan trọng nhất cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội ( qua đó tạo thêm chỗ việc làm mới), kinh phí dành cho lĩnh vực giải quyết việc làm bao gồm: Kinh phí cho vay vốn giải quyết việc làm từ nguồn vốn quỹ 120, ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức khác là khoảng 15 – 20 tỷ đồng. Mục tiêu hàng năm cho khoảng 4000 – 5000 lượt người được vay vốn, trong đó kinh phí từ ngân sách chiếm khoảng 90% - 95%. Thành lập quỹ hộ trợ xuất khẩu lao động để tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp và người lao động. Kinh phí từ nguồn quỹ dành cho xuất khẩu lao động, với mục tiêu hàng năm đưa khoảng 2000 – 2500 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó ưu tiên các đối tượng thuộc diện chính sách như bộ đội xuất ngũ, con em các gia đình chính sách, gia đình nghèo, lao động trong khu vực nông nghiệp nôg thôn. Nguồn kinh phí cần khoảng 40 – 45 tỷ đồng với mức vay bình quân một đối tượng từ 20 – 30 triệu đồng, toàn bộ nguồn kinh phí này là từ nguồn ngân sách Nhà nước. Ước tính kinh phí hoạt động hàng năm dành cho các trung tâm Giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh để đáp ứng được yêu cầu ra vào khoảng 1,5 – 2 tỷ/1trung tâm. Trong đó nguồn ngân sách cấp khoảng 65 -70%, còn lại huy động từ các nguồn khác. Như vậy, kinh phí hàng năm cho các trung tâm đầu tư trang thiết bị máy móc, nâng cấp cơ sở vật chất của các trung tâm vào khoảng 15 – 20 tỷ/năm. Kinh phí dành cho các hoạt động chuyên môn khác là 1,5 – 2 tỷ chiếm khoảng 80 – 90% để điều tra nắm bắt thông tin về lao động việc làm, tổ chức hội chợ việc làm, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ và các hoạt động khác có liên quan. Các ban lãnh đạo của tỉnh thực hiện một mục tiêu xuyên suốt đó là tăng trưởng kinh tế bền vững, nhân dân có việc làm để tạo thu nhập ổn định đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do đó mà có rất nhiều các giải pháp mà UBND tỉnh đã thực hiện nhằm mang lại kết quả như mong muốn. Kết hợp đồng bộ các giải pháp với nhau để đem lại hiệu quả cao nhất và tỉnh đã thu được những thành tựu như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước, việc làm cũng đã tạo ra nhiều hơn đáp ứng được nhu cầu việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống thấp dần... Nhưng đồng thời cũng có những hạn chế mà tỉnh chưa thực hiện tốt, chưa thực sự mang lại hiệu quả cao và không nằm khỏi sự tất yếu là hoạt động này khắc phục những hạn chế các hoạt động khác thì chính bản thân các hoạt động đó lại tạo ra các hạn chế khác. Chính vì thế trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm của tỉnh đã đề ra những mục tiêu, đã nêu ra những định hướng rõ ràng để hoạt động kinh tế xã hội diễn ra tốt, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế. KẾT LUẬN Với đề tài nghiên cứu về thực trạng việc làm của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 – 2009, thấy rõ được vai trò của việc giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động với mong muốn được làm việc tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế của một tỉnh. Việc làm được giải quyết trên tỉnh thể hiện được là tăng trưởng kinh tế của tỉnh là cao và ổn định, việc làm được phân công một cách cụ thể thì trình độ chuyên môn của tỉnh cũng được phân công một cách rõ ràng là cao và phổ biến. Khi lao động tỉnh Thái Nguyên có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa cao, nhưng toàn tỉnh đang có những biện pháp thiết thực để thực hiện nhằm nâng cao tay nghề của lao động, giảm tỷ lệ lao động không qua đào tạo xuống thấp nhất. Qua đó, quá trình chuyển dịch lao động trong nhóm ngành kinh tế, thành phần kinh tế cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý và đang đi đúng với xu thế. Góp phần nâng cao cuộc sống của người dân trong tỉnh, đặc biệt là người dân ở khu vực miền núi tự tạo việc làm, nâng cao mức thu nhập, giảm thời gian nhàn rỗi, cải thiện đời sống của chính bản thân người lao động. Không dừng lại ở đó tăng trưởng kinh tế cũng góp phần giải quyết việc làm một cách triệt để hơn vì quy mô nền kinh tế được mở rộng. Qua đề tài, cũng biết được trong thời gian qua tỉnh đã thực hiện những biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo của người lao động, tạo việc làm đáp ứng nhu cầu của người lao động. Đồng thời cũng tiếp tục phát triển các biện pháp mang lại hiệu quả tốt và định hướng tiếp trong thời gian tới tỉnh sẽ áp dụng những biện pháp nào phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, điều kiện phát triển của tỉnh để phát triển tỉnh Thái Nguyên bền vững, phấn đấu theo đúng kế hoạch đề ra của tỉnh đến năm 2020 tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp hàng đầu của cả nước. Trong đó, tỉnh sẽ phát triển mọi mặt của tỉnh cả về kinh tế lẫn mặt xã hội. Một lần nữa em xin cám ơn các anh chị của phòng Nghiên cứu dân số, lao động và việc làm của Viện Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ Lao Động Thương Binh Xã hội đã chỉ bảo, giúp đỡ em tìm tài liệu nghiên cứu về tỉnh Thái Nguyên. Và em xin cám ơn PGS.TS Vũ Văn Vận đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bản Quy hoạch tổng thể ngành lao động thương binh xã hội của tỉnh Thái Nguyên định hướng đến năm 2020. Báo cáo thực trạng lao động việc làm tỉnh Thái Nguyên. Vũ Thị Ngọc Phùng. Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB LĐ – XH Hà Nội năm 2005. Niên giám thống kê hàng năm tỉnh Thái Nguyên. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh. Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, NXB ĐHKTQD Hà Nội năm 2008. Tạp chí lao động việc làm các số hàng tuần. Các trang web kinh tế: www.http// kinh tế Việt nam www.http// cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐịnh hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015.doc
Luận văn liên quan