Du lịch sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ

- Kịp thời thực hiện công tác quy hoạch ngành để thuận lợi trong công tác quản lý. - Tăng cường cải cách hành chính theo cơ chế một cửa để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch. - Phổ biến, hướng dẫn pháp luật về du lịch cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhằm phát hiện, xử lý những vi phạm trong hoạt động kinh doanh du lịch như hoạt động sai chức năng, kinh doanh trái phép từng bước đưa hoạt động tổ chức kinh doanh của các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch vào trật tự, tạo môi trường kinh doanh ổn định. - Tăng cường công tác bình ổn giá, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết đối với các khu vực phục vụ du lịch như Khu du lịch 30/4. Cần phải chú trọng công tác đảm bảo niêm yết giá bán các mặt hàng đặc sản một cách triệt để, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng cho du khách.

doc41 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7622 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Du lịch sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tháng 9 đến tháng 10). Bên cạnh đó còn có điều kiện về cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú và nhiều di tích lịch sử văn hóa, tạo điều kiện để hình thành và phát triển một số loại hình kinh tế mới như: kinh tế du lịch, dịch vụ,... Đây cũng được xác định là thế mạnh của Huyện Cần Giờ trong những năm tới. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: chủ yếu gia công hàn tiện, sản xuất nhỏ đạt 79 tỷ đồng, tăng 17,5% so vời cùng kỳ và tăng 20,7% kế hoạch; khu vực kinh tế quốc doanh đạt 108 tỷ đồng đạt 49,8% kế hoạch do sản lượng sản xuất mặt hàng cá philê, nghêu đạt thấp (51,6%). Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tăng 5%, công nghiệp cơ khí đạt 86%, công nghiệp xay xát lượng thực, chế biến gỗ đạt 73% so với kế hoạch. Các sản phẩm sản xuất chủ yếu đạt khá so với cùng kỳ gồm: muối thô 86.860 tấn (tăng 1.381 tấn), nước đá 26.550 tấn (tăng 2.450 tấn), bột cá 762 tấn (tăng 202 tấn). Thương mại - Dịch vụ: Hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn không ngừng phát triển, từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ. Khu du lịch 30 tháng 4 là một trong những điểm du lịch chủ yếu thu hút khách du lịch của huyện có số lượng ngày càng tăng, trong năm 2004 đã đón tiếp 390 ngàn lượt khách, doanh thu đạt trên 10 tỷ đồng. Doanh thu bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ 9 tháng đầu năm 2005 đạt 817,8 tỷ đồng, tăng 11,4% so với cùng kỳ và đạt 63% kế hoạch. Hệ thống giao thông: - Đường bộ: Hiện nay Huyện Cần Giờ chỉ có một trục đường bộ chính là tuyến đường Rừng Sác dài 36km, bắt đầu từ bến phà Bình Khánh đến vòng 30.04 Huyện Cần Giờ. Ngoài ra còn các nhánh đường khác rẻ vào các xã Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Xã Lý Nhơn... Đường Rừng Sác rộng từ 30m - 120m , có 6 làn xe, tổng vốn đầu tư 1.561 tỉ đồng, bắt đầu thi công từ năm 2002 và hoàn thành vào ngày 22.1.2011. - Đường thủy: Huyện Cần Giờ có một mạng lưới sông rạch chằng chịt, diện tích sông rạch chiếm khoảng 32% tổng diện tích tự nhiên. Vì vậy đây tuyến đường giao thông quan trọng, huyết mạch để vận chuyển hàng hóa từ cửa Biển Cần Giờ vào cảng sài gòn.Trong đó Sông Lòng Tàu là đường giao thông thủy chính, cho phép các tàu biển có trọng tải 20.000 tấn ra vào cảng Sài Gòn. Ngoài ra Cần Giờ có các sông chính như: Sông Xoài Rạp, Đồng Tranh, Lòng Tàu, Ngã Bảy, Gò Gia.... Vai trò rừng ngập mặn Cần Giờ Rừng ngập mặn (RNM) có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, là "lá phổi xanh" rất quan trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó còn như những "bức tường xanh" có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng biển.Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng gió lớn, dù là đê biển được đắp từ đất nện, trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố bằng bê tông hoặc kè đá nhưng RNM bị chặt phá để chuyển sang nuôi tôm thì bị tan vỡ. RNM có tác dụng làm giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức biến đổi từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m. theo một số nghiên cứu rừng trồng 6 tuổi với chiều rộng 1,5 km đã giảm độ cao của sóng từ 1 m ở ngoài khơi xuống còn 0,05 m khi vào tới bờ đầm cua và bờ đầm không bị xói lở. Còn nơi không có RNM ở gần đó, cùng một khoảng cách như thế thì độ cao của sóng cách bờ đầm 1,5 km là 1 m, khi vào đến bờ vẫn còn 0,75 m và bờ đầm bị xói lở. Rừng ngập mặn (RNM) có tác dụng làm chậm dòng chảy và phát tán rộng nước triều. Nhờ hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất của các loài đước, vẹt, mắm, và bần cản sóng cát tích lũy phù sa cùng mùn bã thực vật tại chỗ nên chúng có tác dụng làm chậm dòng chảy và thích nghi với mực nước biển dâng. Nhờ các trụ mầm (cây con) và quả, hạt có khả năng sống dài ngày trong nước nên cây ngập mặn có thể phát tán rộng vào đất liền khi nước biển dâng làm ngập các vùng đất đó. RNM hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm. Nhờ có nhiều kênh rạch cùng với hệ rễ cây chằng chịt trên mặt đất làm giảm cường độ của sóng nên hạn chế dòng chảy vào nội địa khi triều cường. Duy trì nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của các loài sinh vật trong rừng ngập mặn: hàng năm Rừng ngập mặn cung cấp một sản lượng rơi rụng khá lớn để làm giàu cho đất rừng và vùng cửa sông ven biển kế cận. Lượng rơi rụng của bản thân cây rừng khoảng 08 - 20 tấn/ha, trong đó 79,7% là lá (Hồng và cộng sự - 1998), qua quá trình phân hủy làm nguồn thức ăn hữu cơ cho các loài sinh vật trong Rừng ngập mặn phát triển. Bảo đảm ổn định và phát triển nguồn lợi thủy sản cho địa phương, gìn giữ được nguồn gien các loài động thực vật quý hiếm như: Cóc đỏ, Rái cá, cá Sấu.... Tạo ra địa điểm nghỉ ngơi, giải trí, du lịch sinh thái cho cư dân trong và ngoài Thành phố. Trong những năm gần đây, Rừng ngập mặn Cần Giờ đã trở thành điểm tham quan, du lịch sinh thái cho người dân, cho du khách trong và ngoài nước nhờ cảnh quan tươi đẹp, môi trường trong lành. Việc phát triển du lịch tại địa phương đã góp phần nâng cao đời sống người dân, khai thác được giá trị của Rừng ngập mặn Cần Giờ, Là địa điểm nghiên cứu khoa học hiện nay, hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ là nơi được ví như một phòng thí nghiệm tự nhiên to lớn, là nơi lý tưởng cho các nhà khoa học, sinh viên, học sinh đến nghiên cứu, học tập. Trong những năm qua, hàng năm Ban quản lý Rừng phòng hộ đã tiếp đón hàng trăm sinh viên học sinh, các nhà khoa học trong và ngoài nước đến nghiên cứu, học tập. Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã góp phần phục vụ cho công tác quản lý và phát triển Rừng ngập mặn Cần Giờ ngày càng bền vững. TIỀM NĂNG RỪNG NGẬP MẶN Rừng ngập mặn Cần Giờ với diện tích 37.162,53 ha, chiếm hơn ½ diện tích tự nhiên toàn huyện. Sau 30 năm phục hồi và phát triển, hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ ngày càng đa dạng, phong phú về thực vật cũng như động vật; tài nguyên thiên nhiên của rừng ngập mặn không ngừng tăng lên, tạo nên môi trường sinh thái trong sạch “lá phổi xanh”, “bức tường xanh” của thành phố, có ý nghĩa quan trọng trong việc điều hòa khí hậu. Rừng có chức năng chính là phòng hộ nhưng đồng thời cũng mở ra những triển vọng to lớn về du lịch sinh thái, năm 2000 rừng ngập mặn Cần Giờ đã được UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới”. Thực vật. Tổng quan về thực vật. Việc khôi phục RNM được tiến hành liên tục bền bỉ cho đến ngày hôm nay. Một số loài cây đã biến mất trong và sau chiến tranh nay đã xuất hiện trở lại như gõ Biển, Dà Vôi, Bần, Mắm trắng, Sú, vẹt, ... Theo công bố của các nhà khoa học thì hiện nay: Cây thực sự RNM CG có 33 loài thuộc 19 chi, 15 họ Cây nhập cư RNM CG có 128 loài thuộc 80 chi, 47 họ. Hệ thực vật vùng ngập mặn Cần Giờchiếm đa số là cây đước có nguồn gốc phát tán từ Inđônêsia và Maylaysia; gồmnhiều kiểu phụ thổ nhưỡng nước mặn, nước lợ và phụ thứ sinh nuôi trồng nhântạo. Thành phần các loài cây này tương đối đơn giản và có kích thước các thể ởdạng trung bình. Hệ thực vật rừng tự nhiên khoảng 12.000 ha bao gồm: Chà là, Ráng, Giá, Mấm, Dà Vôi… tất cả đều sống trên vùng đất ít ngập nước. Trong đó, Ráng thường được hỗn giao với Chà là, Cóc kèn mọc trên đất gò, ít ngập nước. Mấm điển hình là các loại trắng, đen mọc ven sông đất trũng, bãi bồi cao hơn 0,2m so với mực nước biển; Dà vôi, Mấm phân bố trên đất sét chặt, ẩm. Hệ thực vật rừng trồng hơn 20.000 ha, bao gồm: bạch đàn, keo lá tràm trồng trên nền đất, dừa lá trồng ở vùng đất phèn mặn và nước lợ; đước được trồng thử nghiệm; chà là, phi lao, bạch đàn, keo lá tràm… được trồng dọc theo đường trục chính Rừng Sác và những giồng cát ven biển. Việc phục hồi lại RNM CG đã tạo điều kiện thuận lợi về môi trường sinh sống cho các loài động vật Rừng: Có nhiều nguồn thức ăn Do có nhiều thức các loại thủy sinh vật có điều kiện phát triển, thảm thực vật rộng lớn đa dạng thích hợp cho nhiều nhóm động vật rừng có tập tính khác nhau sinh sống. Các cây rừng ngập mặn thường có các đặc điểm thích nghi với môi trường ngập nước mặn như: Nhiều loài cây thuộc các chi Bần (Sonneratia), Vẹt (Bruguiera), Mắm (Avicennia) có rễ hô hấp mọc từ các rễ bên và đâm thẳng lên trên mặt đất. Rễ hô hấp có mô xốp, tầng bần phát triển và rất nhiều lỗ vỏ có tác dụng nhận và chứa không khí khi nước thủy triều xuống Rễ cây ngập mặn rất phát triển, giúp cây đứng vững trên lớp bùn mềm. Các cây thuộc chi đước (Rhizophora) hình thành nhiều rễ chống. Lá cây cứng, lớp hạ bì phát triển, đôi khi lá dày lên do có mô chứa nước phát triển. Lớp hạ bì và mô nước có tác dụng dự trữ nước làm giảm nồng độ muối trong lá. Một số cây thuộc chi mắm, sú có tuyến tiết muối thừa ra ngoài, góp phần làm giảm nồng độ muối trong mô lá. Thực vật đặt trưng. Cây đước (Rhizophora apiculata) Cây Đước mọc ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới trong vùng bùn lầy của bờ biển, cây thân gỗ nhỏ. Trên thế giới có 82 giống Đước. Đất lầy bãi biển quá nhão, thường xuyên bị thủy triều tấn công khiến cây cối khó sinh sống. Cây Đước nhờ có bộ rễ rất phát trên, trên thân cành lại có rất nhiều rễ trụ đan xen ngang dọc, rủ xuống bãi lầy, ngoài tác dụng chống đỡ cho cây, Đước còn có tác dụng thoáng khí và hô hấp. Rễ Đước chịu được mặn và hút được dinh dưỡng từ trong nước biển. Lá rất cứng, có màng sáp và bóng loáng phản quang để giữ nước. Trong lá có tuyến thải muối để thải muối thừa ra khỏi cơ thể. Người ta gọi Đước là cây "máy lọc nước biển thành nước ngọt màu xanh". Các nhà khoa học đang tìm hiểu nghiên cứu đặc điểm này của cây Đước để áp dụng vào công nghệ lọc nước biển. Rừng Đước không những bảo vệ bờ biển khỏi bị ăn lấn vào trong đất liền, mà còn mở rộng bờ biển. Đước còn có thể giữ được chất lắng đọng của nước biển, cùng với lá rụng và phân chim, lâu ngày sẽ thành đảo mới hoặc đất liền. Rừng Đước còn là nơi cư trú của nhiều loại chim, tôm, cá, cua, làm cân bằng sinh thái bờ biền. Cây vẹt - vẹt khang (Bruguiera cylindrica) Cây gỗ, cao tới 20m. vỏ thân nhẵn, có lỗ bi màu xám nhạt, cành nhỏ mảnh, màu xanh, mang vết rụng của lá; gốc có rễ chống hình nơm cao tới 1 - 1,2m. Loài phân bố ở Việt Nam, Thái Lan, Mianma, Malaixia và Inđônêxia … Ở nước ta cây mọc nhiều ven biển. Thường gặp trong rừng ngập mặn, trên những bãi cát bồi ngập hay vẫn bị ngập nước thủy triều. Cây mọc rải rác nhưng cũng có khi mọc thành đám lớn. Ra hoa tháng 5 - 6, có quả tháng 10 - 11. Gỗ màu đỏ, mịn, dùng đóng đồ thông thường, làm nhà cửa, trụ mỏ và đốt than hầm. Chồi non có thể ăn sống. Cây bần ổi (Sonneratia ovata Backer) Bần ổi thuộc loài thân gổ đại mộc, có nhiều cành. Chúng là các loài cây sống trong các cánh rừng tràm đước ven biển.. Cây gỗ cao 10-15m, có khi cao tới 20 m. Thân ốm, có đường kính khoảng 20 cm, da bị tróc nhiều lớp mỏng như thân cây ổi.Rể gốc mọc sâu trong đất cạn và ẩm, có ít rể thở (cạc bần/bấc) so với cây bần chua.Ở Nam Bộ cây bần ổi chủ yếu được trồng. Cây bần chua (Sonneratia caseolaris) Cây gỗ cao 10 - 15m, có khi cao tới 25m. Cành non màu đỏ, nhánh non có 4 cạnh nhọn, phế căn đứng ( tên bình dân gọi cặc bần ) 50 – 90 cm cao, đường kính 30 cm, nhiều. vỏ màu xám, thô, phát sinh từ rể ngang, vượt lên trên mặt bùn khoảng 20 cm. Vì sống trong môi trường bùn mềm, nhiều acide mùn nên để thích ứng với môi trường đứng vững bám vào bùn giử phù sa và cần oxigène nên cây phát triển tạo ra hệ thống rể nạng lan rộng với diện tích khá rộng . Cây mắm đen (Avicennia officinalis L.) Cây cao 20m, đường kính đến 0,7m, thân hình trụ, tương đối suôn, có khi thẳng tốt với thân trụ cao 6 - 10m, cành non có lông tơ trơn, vỏ mỏng không nứt màu xám đen, rễ phổi hình đũa, thường chia đôi. Loại cây ưa sáng, sinh trưởng nhanh, thuộc loại chịu đất kiềm, thích nghi với các loại đất (bùn, cát, sét) và các độ mặn của nước (mặn, lợ, ngọt), cho chồi gốc. Ðất bùn có nước triều lên xuống hàng ngày là đất sinh trưởng, phát triển thích hợp của loài cây gỗ này. Cây cóc đỏ (Lumnitzera littorea) Cây Cóc đỏ có tên Khoa học là Lumnitzera littorea,  thuộc họ Bàng Combretaceae, bộ Sim Myrtales có chiều  cao khoảng 10- 20m, đường kính 40 - 50cm. Vỏ cây màu nâu thẫm, có vết nứt, mặt trong vỏ màu nâu đỏ, phần giác màu nâu vàng, lõi màu nâu thẫm. Cành nhánh cây Cóc Đỏ hình khúc khuỷu, vuông, khi non màu đỏ nhạt nhạt xám, có nhiều mắt do những vết sẹo của lá khi rụng để lại.Cóc Đỏ mọc ở nơi rừng ngập mặn của sông, ven biển, nơi chỉ ngập chiều cao hoặc ít ngập nước mặn, đất sét hơi chặt, thường mọc lẫn với các loại Giá (Excoecaria agallocha), Dà (Ceriops sp.), có khi mọc thành quần xã ưu thế hoặc gần như thuần loại với mật độ dày.  Động vật. Tổng quan về động vật. Hệ động vật rừng ngập mặn Cần Giờ có giá trị cao về mặt bảo tồn đa dạng sinh học với trên 200 loài động vật, trong đó có 11 loài bò sát có tên trong danh sách đỏ của nước ta. Cụ thể như sau: Khu hệ động vật không xương sống, thủy sinh: có 70 loài thuộc 44 họ:Cua biển, tôm Sú, tôm Thẻ Bạc, sò Huyết,… Khu hệ cá: có 137 loài thuộc 39 họ: cá Ngát, cá Bông Lau, cá Dứa,… Khu hệ lưỡng thê, bò sát: có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò sát: Kỳ đà nước, Hổ Mang chúa, trăn Gấm, cá Sấu Hoa cà,… Khu hệ chim: có 130 loài, 47 họ, 17 bộ: Bồ nông chân xám, Diệc xám, Vạc, Già Đẫy, Giang sen,… Khu hệ thú: có 19 loài, 13 họ, 7 bộ như Mèo Rừng, Khỉ đuôi dài, Cầy vòi đốm, Nhím,… Cần Giờ có bờ biển dài khoảng 20 km, rất đặc trưng, được gọi là biển phù sa vì thành phần chủ yếu là đất bùn sét. Biển Cần Giờ có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối khai thác kinh tế biển, phát triển du lịch sinh thái biển đảo và còn là nơi neo đậu tránh gió rất thuận lợi cho các tàu thuyền. Ven biển có nhiều cửa sông lớn như sông Lòng Tàu, Soài Rạp, Hà Thanh... Tiềm năng thủy sản vùng biển Cần Giờ là rất lớn, ngoài việc khai thác thủy sản mang lại giá trị sản lượng đáng kể, bãi biển Cần Giờ có khả năng nuôi các loại nhuyễn thể như nghêu, tôm, cua mang lại giá trị kinh tế cao; đồng thời góp phần tái tạo, bảo tồn thiên nhiên và sinh vật biển. Động vật đặc trưng. Cá thòi lòi Là cá nước lợ, cá thòi lòi xuất hiện tại nhiều khu rừng ngập mặn tại Cần Giờ, đất mũi Cà Mau, U Minh Thượng… Chúng lọt vào danh sách các loài động vật kỳ lạ bởi các đặc điểm có một không hai của mình. Ngay từ hình dáng, cá thòi lòi đã tỏ ra “dị hợm” so với các loài cá thông thường bởi đôi mắt lồi như mắt ếch, nhô hẳn trên đỉnh đầu. Cái tên gọi “thòi lòi” bắt nguồn từ chính đôi mắt này.  Nhưng điều lạ lùng khiến cá thòi lòi chẳng giống bất cứ loài cá nào là ở chỗ chúng có thể sống, chạy, nhảy và kiếm mồi ngay trên cạn một cách rất điêu luyện. Điều làm nên sự “phi thường” này chính là cấu tạo cơ thể khá đặc biệt, giúp chúng có thể trữ nước trong mang để hô hấp khi lên cạn, trao đổi khí qua da như ếch và đôi vây trước có hệ cơ phát triển đóng vai trò như một đôi “tay”. Cũng nhờ cấu tạo cơ thể đặc biệt mà cá thòi lòi còn có một khả năng hi hữu khác là… leo cây. Điều này khiến chúng mang thêm một tên gọi khác là “cá leo cây” Vào ngày quốc tế về Trái đất vừa qua, Tổ chức Sinh vật Thế giới đã đề cập đến một số con vật kỳ lạ mà hiểu biết của con người về chúng còn khá sơ sài. Đáng lưu ý, trong số 6 con vật “kỳ lạ nhất hành tinh” được nêu danh có cá thòi lòi, một loài vật khá quen thuộc ở nhiều vùng tại miền Nam Việt Nam. Nếu các nhà khoa học trên thế giới quan tâm đến cá thòi lòi như một hình mẫu đặc biệt về tiến hóa thì người Việt Nam lại “mê” loài cá này làm… món nhậu khoái khẩu.  Cá thòi lòi thường chọn nơi “hiểm” để đào hang trú ẩn như các lùm cây, kẹt rễ um tùm. Hang của chúng có thể sâu đến 2m với nhiều ngóc ngách. Chúng cũng rất tinh ranh và nhanh nhẹn trong việc trốn thoát khỏi sự tấn công của kẻ thù. Nhưng cá thòi lòi vẫn không có đường thoát trước những bàn tay đầy kinh nghiệm của người dân miền sông nước. Là sản vật của vùng nước ngập mặn, thịt cá thòi lòi rất mềm và thơm ngon. Điềm đặc biệt là thịt cá sau khi chế biến để nguội vẫn không có mùi tanh. Các món được làm từ cá thòi lòi rất phong phu, khi điểm qua có thể khiến ngoài sành ẩm thực thèm… nhỏ dãi, như cá thòi lòi nướng chấm mắm, lột da kho tiêu, hấp cách thuỷ, cuốn bánh tráng rau sống, canh chua cá thòi lòi… Ngày nay, cá thòi lòi đang trở thành đối tượng bị săn lùng ráo riết để phục vụ thu cầu của thực khách tại các nhà hàng miền Nam. Theo người dân tại các vùng có cá thòi lòi sinh sống thì những con cá thòi lòi to cỡ 300-400g càng ngày càng hiếm gặp do tốc độ đánh bắt quá nhanh. Nếu không có những biện pháp kiểm soát, trong tương lại không xa loài cá này có thể đối mặt nguy cơ suy giảm số lượng ở Việt Nam.  Rái cá (Lutrinae). Là một nhóm động vật có vú ăn thịt sống dưới nước hay đại dương, thuộc một phần của họ Chồn(Mustelidae), họ bao gồm chồn, chồn nâu, lửng, cũng như một vài loài khác. Với 13 loài trong 7 chi, rái cá phân bố khắp nơi trên thế giới. Trong tiếng Anh, danh từ tập hợp romp trong tiếng Anh được dùng để chỉ một nhóm các rái cá. Rái các có lớp lông trong dày (1.000 lông/mm²) và mịn được bảo vệ bởi lớp lông ngoài giữ cho chúng khô ráo dưới nước và giữ lại một lớp không khí để giữ ấm. Tất cả các loài rái cá có thân dài, mỏng và thuôn linh động uyển chuyển; chân ngắn và có màng chân. Phần lớn có vuốt sắc để chụp con mồi, nhưng rái cá vuốt ngắn của Nam Á chỉ có vuốt dấu tích còn lại và hai loại rái cá châu Phi có mối quan hệ gần gũi không có vuốt: các loài này sống ở các con sông đầy bùn của châu Phi và châu Á và xác định vị trí con mồi bằng xúc giác. Phần lớn rái cá ăn cá làm thức ăn hàng đầu trong thực đơn của chúng, ngoài ra chúng còn ăn bổ sung ếch nhái, tôm và cua; một số còn chuyên ăn sò còn loại khác thì lại ăn động vật có vú nhỏ hoặc chim. Kỳ đà (water monitor (Wn)) Là 1 loại bò sát lớn trong các loài monitor lizard, nó có thể đạt tới 3,21 mét chiều dài (tức 10,5 feet), chiều dài trung bình của các cá thể trưởng thành là 1,5 mét tức 4f 11i. Về cân nặng thì mỗi con có thể nặng tối đa là 25kg tức 55lb nhưng hầu hết tất cả đều chỉ đạt được phân số kg đó khi đã trưởng thành. Cơ thể của chúng rắn chắc với những bắp thịt với chiếc đuôi dài ngang nén, đầy sức mạnh. Wm là 1 trong các loài monitor lizard được tìm thấy ở khắp Châu Á, từ Sri Lanka, Ấn Độ, Đông Dương, bán đảo Malai, và nhiều quần đảo ở Indonesia và chúng sống nơi có nhiều nguồn nước. Phân loại Water monitor : Gồm có năm loại : 1. Asian Water Monitor (Kì đà nước Châu Á) 2. Andaman Islands Water Monitor (Kì đà nước Đảo Andaman) 3. Two-Striped Water Monitor (Kì đà nước 2 Vạch) 4. Black Water Monitor (Kì đà nước Đen) 5. Southeast Asian Water Monitor (Kì đà Đông Nam Á) Tính cách và chế độ dinh duỡng của chúng : - Wm có thể được bảo vệ qua việc dùng đuôi hay móng vuốt và cả chiếc hàm to khỏe của chúng khi chúng đánh nhau .Chúng cũng là những vận động viên bơi lội rất cừ khôi , chúng bơi rất giỏi qua việc sự dụng những cái vảy nổi ở đuôi chúng , chúng đảm nhận nhiệm vụ như bánh lái cảu tàu khi chúng ở dưới nước. - Wm là loài lizard ăn thịt với thực đơn thật đa dạng như: cá , ếch , chim , cua , rắn , các loài gặm nhắm ,côn trùng và trong thực đơn cũng có cá sấu con , trứng cá sấu hay rùa và cũng giống như rồng komondo chúng cũng ăn cả xác chết của các loài khác như người , chim , chó , mèo ... - Chúng có thể có đầy đủ chất dinh dư ỡng qua khẩu phần ăn của chúng như các loài gặm nhắm và các con vật sống khác. - Chúng luôn luôn có thể nhận được đủ calcium và vitamin D3 qua khẩu phần ăn. Rắn hổ mang (Naja atra) Là một loài rắn độc thuộc Họ Rắn hổ (Elapidae), bộ Có vảy (Squamata). Rắn hổ mang có cỡ lớn, đầu liền với cổ(còn gọi là hổ đất) không có vảy má, có khả năng bạnh cổ khi bị kích thích. Khi đó ở phía trên cổ trông rõ một vòng tròn màu trắng (gọi là gọng kính). Lưng có màu nâu thẫm, vàng lục hay đen, hoặc đồng màu hoặc có những dải hoa văn như những vạch ngang đơn hoặc kép sáng màu hơn. Chiều dài cơ thể tới 2m. Rắn trưởng thành ăn chuột, cóc, rắn... rắn non ăn ếch nhái là chủ yếu. Rắn giao phối vào tháng 5 và đẻ trứng vào tháng 6, đẻ 9 - 22 trứng, kích thước 59-62 / 29-29mm và có hiện tượng con cái canh giữ trứng. Trứng nở vào tháng 8. Con non mới nở dài 200-350mm và có khả năng bạnh cổ. Rắn hổ mang chúa được cho là một món ăn có nhiều giá trị bổ dưỡng nên hay bị săn bắt, Rắn hổ mang là loài rất quý hiếm rất cần được bảo vệ.Dùng nhiều trong dược liệu, thực phẩm, thương mại. Cá sấu Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của khu vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ,Nam Mỹ và châu Đại Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước chảy chậm, thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú sống hay đã chết cũng như cá. Một số loài, chủ yếu là cá sấu nước lợ ở Úc và các đảo trên Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa ngoài biển. Những loài cá sấu lớn có thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá sấu nước lợ và cá sấu sông Nin là những loài nguy hiểm nhất, chúng đã giết chết hàng trăm người mỗi năm ở các khu vực Đông Nam Á và châu Phi. Cá sấu mõm ngắn và có thể cả cá sấu caiman đen (là loài đang nguy cấp trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài gây nguy hiểm cho con người. Cá sấu rất nhanh nhẹn khi khoảng cách ngắn, thậm chí ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép chặt, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông Nin mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Tất cả những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe. Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng. Là động vật ăn thịt có máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn và thậm chí cả cá mập. Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Chi Dơi quạ (Pteropus) Là một chi dơi thuộc họ cùng tên và phân bộ Dơi lớn. Chúng bao hàm những loài dơi có kích thước lớn nhất trên quả đất. Một số tên thông dụng khác của chúng là dơi ăn quả hay cáo bay. Chúng sống ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt của châu Á (bao hàm cả Ấn Độ), Úc, Indonesia, các đảo ở vùng Đông Phi (nhưng không nằm ở trên lục địa châu Phi) và một số đảo trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Có ít nhất 60 loài dơi nằm trong chi này. Tất cả các loài dơi quạ chỉ sống nhờ mật hoa, phấn hoa và các loại hoa quả, vì vậy chúng chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới. Chúng không có khả năng định vị bằng tiếng vọng như các loài dơi trong phân bộ Dơi nhỏ nhưng có tầm nhìn và thính giác rất tốt. Chúng có thể kiếm ăn trong khu vực bán kính lên tới 40 dặm. Khi tìm thấy thức ăn, tỉ như trái cây, chúng lao thẳng vào "mục tiêu" và dùng chân chụp lấy nó. Ngoài ra, dơi qua cũng có thể ăn trong khi đang treo mình ngược trên cành cây, sử dụng một trong hai chân sau hoặc móng tay của chân trước/cánh để kéo các hoa quả vào gần miệng. Phần lớn các loài dơi quạ có kích thước nhỏ hơn nhiều và cân nặng không vượt quá 600 g (21 oz). Những thành viên nhỏ con nhất, loài Dơi quạ mang mặt nạ (P. personatus), Dơi quạ Temminck (P. temminckii), Dơi quạ Guam (P. tokudae) và Dơi quạ lùn (P. woodfordi) đều có cân nặng không quá 170 g (6,0 oz). Dơi quạ có bộ lông dài, mượt với lớp lông lót dày và không có đuôi. Dung mạo của dơi quạ khá giống loài cáo với đôi tai nhỏ và mắt lớn, vì vậy chúng có cái tên "cáo bay". Con cái có hai vú nằm ở ngực. Hình dạng tai tương đối đơn giản (dài và nhọn) với phần viền ngoài liền mạch chứ không đứt rời như các thành viên thuộc phân bộ Dơi nhỏ. Móng chân có các ngón cong và sắc. Nhiều loài dơi quạ hiện nay đang bị đe dọa tuyệt chủng, nhất là vùng Thái Bình Dương nơi chúng bị săn bắt quá mức để lấy thịt. Ở quần đảo Mariana, thịt dơi được xem là một đặc sản và có tầm quan trọng lớn về mặt kinh tế. Vào năm 1989 tất cả các loài thuộc chi Dơi quạ đều được xếp vào phần Phụ lục II của Hiệp định Mậu dịch Quốc tế về các loài Động vật và Thực vật bị đe dọa (CITES). Phân loài P. hypomelanus maris tại đảo Maldives được đánh giá là đang bị đe dọa do phân bổ bị hạn chế cũng như mức độ chọn lọc cao. Tuy nhiên việc săn bắn và buôn bán dơi quạ vẫn tiếp tục theo con đường bất hợp pháp hoặc bằng cách lách qua các khe hở của luật pháp - vốn được đánh giá là chưa đủ mạnh tay trong việc hạn chế nạn săn bắn. Nông dân và các điền chủ cũng tấn công dơi quạ vì chúng hay ăn quả trong các vườn cây của họ, và tại một số địa phương người dân tin rằng thịt dơi có thể chữa được hen suyễn. Các thiên địch của chúng ngoài con người còn có thể có chim săn mồi, rắn và một số động vật khác. Khỉ đuôi dài. Cần Giờ còn có những cánh rừng ngập mặn với những hậu duệ của Tôn Ngộ Không tinh khôn, nghịch ngợm đủ trò… thật thú vị.  Nằm trong Khu Du lịch sinh thái Lâm Viên, xã Long Hoà huyện Cần Giờ, đảo khỉ là 1 trong 24 tiểu khu của rừng ngập mặn Cần Giờ. Khu Du lịch sinh thái Lâm Viên không chỉ thu hút du khách bằng không khí trong lành chan hòa gió biển, những câu chuyện cảm động và ấn tượng về căn cứ Cách mạng Rừng Sác, Bảo tàng Cần Giờ. Ở đó còn có những cánh rừng ngập mặn với những “hậu duệ” của Tôn Ngộ Không tinh khôn, láu lỉnh, nghịch ngợm đủ trò…   Để gây dựng được “Vương quốc” khỉ như hôm nay là cả câu chyện dài với nhiều công sức, thời gian và đặc biệt nhờ có lòng yêu thiên nhiên, niềm đam mê công việc, ý thức trách nhiệm về việc giữ rừng, bảo vệ rừng của những người trong Tổ bảo tồn động vật tại Đảo khỉ. Bước qua cổng, du khách liền được các “cư dân” Vương quốc khỉ chào đón, nào là khỉ đực, khỉ cái, khỉ con... Nhiều con “đón” khách ngay giữa đường, con khác thì leo cây đánh đu chào mừng, con thì thoắt ẩn thoắt hiện quanh các gốc đước gây sự chú ý của mọi người. Cuộc sống, sinh hoạt của khỉ cũng có nhiều nét giống người. Chúng làm đủ trò: tranh giành đồ ăn, cũng chụm đầu vào nhau “buôn dưa lê”,  ghẹo nhau, “bắt chí” cho nhau rất thân thiện ngay trên mặt đường, bắt chước những hành động của con người... Chúng cũng như những kẻ hiếu chiến, “uýnh nhau” tranh giành đồ ăn và thể hiện sức mạnh bằng sự xâm chiếm lãnh thổ của bầy khác. Vì thế, có con mình mẩy đầy sẹo, con thì cà nhắc, con bị hỏng mắt, con cụt đuôi, cụt tay… Những con khỉ ở Cần Giờ rất dạn dĩ và tinh quái. Chúng như những hầu đạo tặc nhan nhản trên đảo. Nhanh như cắt, chúng lao vào cướp thức ăn hoặc những món đồ của du khách nếu thấy họ sơ hở. Mặc dầu đã được cảnh báo, nhưng nhiều người vẫn bị lũ siêu trộm cướp “mượn” điện thoại di động, máy ảnh, đồ ăn, nước uống… đang cầm trên tay. Nhất là các bà, các cô càng được chúng “quan tâm” hơn. Đi dạo trong rừng đước yên ả, mát mẻ, hít thở không khí trong lành, ngắm các “trò khỉ” của khỉ, cười vang cùng bạn bè giúp mọi người tạm quên những lo toan, ưu phiền và bộn bề của cuộc sống thường nhật quả là điều thật thú vị. Du lịch Tiềm năng du lịch của rừng ngập mặn Cần Giờ là rất lớn. Trước đây các hộ dân sống quanh rừng khá nghèo, họ chỉ có nguồn thu nhập chính là các sản phẩm nông sản trồng theo hạ lưu sông Đồng Nai. Tuy nhiên khi chính quyền nhận thấy tiềm năng du lịch đã cho phép mở các chuyến du lịch tham quan tìm hiểu rừng Sác. Nó thu hút được rất nhiều du khách trong và ngoài nước, không chỉ vì hệ động thực vật thiên nhiên đa dạng mà nơi đây còn là nơi lưu trữ những di tích kỷ niệm và câu chuyện về cuộc chiến tranh lịch sử của người Việt Nam vì vậy sẽ đem lại nguồn lợi du lịch rất lớn cho chính quyền và người dân địa phương. Các cơ sở hạ tầng được dựng lên, nhiều chuyến du lịch thú vị được tổ chức như tour du lịch đến khu vực của loài dơi, đi du lịch ngắm cảnh trên sông Đồng nai… Rừng ngập mặn Cần Giờ được Tổ chức Giáo dục - khoa học và văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên của Việt Nam vào năm 2000. Việc phát triển du lịch sinh thái cũng là hình thức tận dụng lợi thế thiên nhiên để bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường. Theo các nhà khoa học, rừng Cần Giờ chứa đựng rất nhiều giá trị về lịch sử, khảo cổ, văn hóa tín ngưỡng. Trong rừng Cần Giờ hiện có nhiều khu vực bảo tồn động vật có giá trị như khu Lâm Viên - Đảo khỉ với hàng ngàn cá thể khỉ đuôi dài; khu Vàm Sát với khu bảo tồn chim rộng hơn 600 hécta có hơn 7 ngàn cá thể chim các loại và khu bảo tồn dơi nghệ với hàng ngàn con. Đặc biệt, nằm sâu trong những cánh rừng ngập mặn nơi đây còn có căn cứ cách mạng Chiến khu rừng Sác. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI 4.1 Định hướng tiềm năng phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ là một vùng đất có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái: rừng, biển, thủy hải sản, giao thông thủy, cảnh quan thiên nhiên, truyền thống lịch sử cách mạng, văn hoá, lễ hội dân gian,…, và không quá xa trung tâm thành phố; là huyện duy nhất của thành phố có rừng ngập mặn gắn với mạng lưới sông rạch quanh co uốn khúc, khu di tích lịch sử cách mạng Rừng Sác, khu du lịch Lăng Cá Ông, bãi biển 30/4, khu nhà vườn cây trái và nuôi trồng thủy hải sản, và khu Lâm viên Cần Giờ với nhiều khả năng thu hút khách du lịch. Trong đó rừng và biển là hai yếu tố hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái nói riêng và phát triển kinh tế – xã hội của huyện Cần Giờ nói chung. Một lợi thế khác nữa của khu vực này là tuyến đường Rừng Sác là tuyến đường chính xuyên suốt từ phà Bình Khánh đến mũi Cần Giờ đã được nâng cấp đạt chất lượng cao. Tiềm năng rừng ngập mặn Nói đến du lịch Cần Giờ, yếu tố đầu tiên hấp dẫn du khách là cảnh quan tuyệt vời của khu rừng ngập mặn (RNM) Cần Giờ. Cảnh quan này không chỉ nổi tiếng từ rất lâu mà ngày nay nó còn là niềm tự hào, niềm vinh dự lớn lao của hàng triệu người dân thành phố. Ngày 10/12/2000, Rừng ngập mặn Cần Giờ đã chính thức được UNESCO công nhận đưa vào danh sách Khu dự trữ sinh quyển thế giới với diện tích 10.734,95 ha. Đây là khu dự trữ sinh quyển đầu tiên ở Việt Nam và là một trong 368 khu dự trữ sinh quyển của toàn thế giới. Từ trước đến nay, vùng đất ngập nước ven biển Cần Giờ luôn là nơi sinh trưởng, phát triển của nhiều loài thủy sản đa dạng và quý giá. Rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng, là nơi cung cấp thức ăn, nơi cư trú, nuôi dưỡng và sinh sản của các loài thủy sinh và nhiều nhóm động vật có xương sống trên cạn. Với vị trí trung gian giữa trên cạn và dưới nước, giữa nước ngọt và nước mặn, vùng ven biển trở thành nơi hứng đọng chất dinh dưỡng và sản sinh ra lưới thức ăn đa dạng, phong phú, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của sinh vật trên cạn và dưới nước, duy trì nguồn tài nguyên sinh học giàu có, đặc biệt là tài nguyên thủy sản: cá, tôm, cua, nghêu, sò, … Về mặt môi trường, hệ sinh thái RNM vùng cửa sông Sài Gòn, Đồng Nai vừa là “lá phổi xanh”, góp phần đáng kể vào việc thanh lọc không khí cho khu vực và giảm thiểu ô nhiễm nước thải từ thượng nguồn, đồng thời là lá chắn phòng chống lũ lụt và nước triều dâng xâm nhập từ biển Đông. Tiềm năng Biển Cần Giờ có bờ biển dài 13 km từ mũi Cần Giờ đến mũi Đồng Tranh. Mũi Cần Giờ cách mũi Nghinh Phong Vũng Tàu 10km đường biển băng qua vịnh Ghềnh Rái. Từ bờ biển nhìn ra là một bãi triều rộng hàng cây số khi triều thấp với khoảng cách từ bờ trên 4 km ở phía mũi Cần Giờ và trên 1 km ở phía mũi Đồng Tranh. Nhìn chung toàn bãi Cần Giờ là một bãi bồi rộng đến trên 100km2. Mô hình dự án Khu du lịch Biển Cần Giờ Cũng cần phải nói thêm rằng, bãi Cần Giờ là đoạn bờ biển phía Đông .cuối cùng của dải bờ biển Việt Nam (tính từ Bắc vào Nam) có khả năng cải tạo phục vụ du lịch, tắm biển. Đi xa hơn xuống phía Nam, bờ biển bị sình lầy khống chế và ít có giá trị phục vụ du lịch – nghỉ ngơi – giải trí. Với tiềm năng và lợi thế sẵn có, trong những năm qua, huyện Cần Giờ đã đẩy nhanh tốc độ phát triển một số lĩnh vực kinh tế then chốt như: nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, sản xuất muối, thu hút du lịch, nông nghiệp và một số dịch vụ, nhằm đưa dân chúng thoát ra khỏi sự nghèo đói và từng bước đuổi kịp các quận huyện khác của thành phố. Nhịp độ phát triển kinh tế khá cao của huyện trong những năm qua và quá trình đô thị hóa đang từng bước được hình thành tại một số vùng trong huyện, đã gây sức ép nặng nề lên tài nguyên rừng – biển và xuất hiện những dấu hiệu, những nguy cơ đe dọa đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn và cảnh quan thiên nhiên trên địa bàn. Định hướng phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ Thách thức Mặc dù tiềm năng du lịch ở Cần Giờ là rất lớn, song nếu chúng ta chỉ biết dừng lại ở việc khai khác tiềm năng sẵn có thì ngành du lịch khó có thể phát triển so với các điểm du lịch khác trong và ngoài nước. Thách thức lớn cho ngành du lịch Cần Giờ là chúng ta chưa tạo ra được các dịch vụ du lịch đi kèm, do đó chỉ giữ khách trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, sản phẩm quà tặng du lịch của Cần Giờ không đa dạng, chất lượng chưa cao. Các sản phẩm quà tặng, quà biếu được mua bán, trao đổi chủ yếu từ các điểm buôn bán nhỏ, lẻ, tự phát, chưa tạo ra được một hệ thống để quản lý các mặt hàng quà tặng du lịch đồng bộ về chất lượng cũng như giá cả. Cơ sở hạ tầng phụ vụ du lịch không nhiều, các dịch vụ vui chơi, giải trí còn hạn chế vì nhiều lý do như thiếu vốn đầu tư; hệ thống các dịch vụ phục vụ du lịch còn thô sơ, chưa đảm bảo tiện nghi và an toàn cho du khách. Chưa cải tạo được bãi tắm Cần Giờ, hiện tại, bãi tắm này chưa được khai thác một cách triệt để. Tỷ lệ bùn trong nước quá cao làm cho nước biển khu vực này rất đục. Hơn nữa, do cường độ khai thác và nuôi trồng thủy hải sản cao mà công tác vệ sinh môi trường ở đây không được đảm bảo nên thường xuyên bị ô nhiễm. Ngoài ra, công tác kết nối tour du lịch với các công ty lữ hành để đưa khách xuống Cần Giờ bị hạn chế, khách du lịch chủ yếu đi tự túc và hầu hết là ít nghỉ lại đêm vì không có các loại hình phục vụ giải trí về đêm, tạo cho du khách tâm lý buồn chán và ít muốn quay lại Cần Giờ lần thứ 2. Quan điểm Khai thác đúng mức lợi thế, các yếu tố tiềm năng của rừng ngập mặn, biển, sông nước, truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa lễ hội dân gian… để phát triển khu du lịch sinh thái. Phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ phải đảm bảo tính bền vững và gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, gìn giữ và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên rừng ngập mặn; Thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹthuật phục vụ phát triển bền vững khu du lịch sinh thái Cần Giờ – Đô thị du lịch sinh thái rừng – biển của Thành phố Hồ Chí Minh .Ý tưởng biến huyện Cần Giờ trở thành đô thị du lịch sinh thái rừng – biển là ý tưởng có bước đột phá trước hết là của lãnh đạo cấp cao của Chính phủ và sau đó được cụ thể hóa bằng Dự án “Hệ thống công trình lấn biển kết hợp với khu đô thị – du lịch biển Cần Giờ”. Dự án này đã được nghiên cứu khả thi chi tiết, đã được thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đang trong giai đoạn xúc tiến đầu tư. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 9,Môi trường và Tài nguyên – 2006. Định hướng không gian phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ Trong 5 – 10 năm tới, cần đầu tư phát triển hoàn chỉnh và tổ chức khai thác có hiệu quả không gian du lịch trên địa bàn huyện và trên cơ sở từng bước khép kín và kết nối với không gian du lịch trong khu vực bao gồm các tuyến, điểm, khu du lịch sinh thái trên địa bàn huyện. Các tuyến du lịch dự kiến phát triển như sau: Tuyến đường bộ từ trung tâm Thành phố xuống Cần Giờ. Tuyến đường sông từ Thành phố đi Đồng Đình, Cần Thạnh; từ Cần Thạnh Lâm Viên đi Vũng Tàu – Cần Đước – Mỹ Tho. Kết hợp đường bộ – đường sông. Các điểm du lịch có thể phát triển bao gồm: Khu du lịch bãi biển 30/4 xã Long Hòa. Khu du lịch hoang dã Lâm viên Cần Giờ (2.200ha) với khu căn cứ kháng chiến rừng Sác (tái hiện). Khu du lịch đặc công thủy rừng Sác (250 ha). Khu núi đá Giồng Chùa, xã Thạnh An (200 ha). Khu đô thị – du lịch lấn Biển Cần Giờ Khu đô thị mới theo qui hoạch của huyện. Các khu di chỉ khảo cổ: Trung tâm triển lãm, trưng bày, nghiên cứu hệ sinh thái rừng. ngập mặn tại các tiểu khu thuộc ban quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ. Khu du lịch nhà vườn (300ha) tại Long Hòa – Cần Thạnh. Trung tâm sinh hoạt dã ngoại thanh thiếu niên thành phố. Khu di tích lịch sử các căn cứ kháng chiến vùng rừng Sác. Bảo tàng sinh vật biển. Đình, chùa, lăng Ông Thủy Tướng. Nhìn chung, hình ảnh chung của khu đô thị – du lịch lấn biển Cần Giờ sẽ mang ý nghĩa đúng của khái niệm về du lịch sinh thái rừng - biển: đó là du lịch nhằm đưa du khách hiểu biết về hệ sinh thái gốc và tăng thu nhập của dân cư địa phương để bảo tồn hệ sinh thái gốc. Khu du lịch này không chỉ nhằm giảm thiểu sự quá tải trong khu du lịch trung tâm thành phố và tăng quỹ đất kết hợp du lịch. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch Hiện nay, khách du lịch đến với Cần Giờ chỉ với mục đích là nghỉ dưỡng vào cuối tuần, thưởng thức hải sản tươi sống… vì chưa có loại hình du lịch nào hấp dẫn. Vì vậy, việc đa dạng hóa sản phẩm du lịch để thu hút du khách là một việc làm hết sức cần thiết trong 05 năm tới. Các loại hình được ưu tiên phát triển như: Du lịch Nhà - Vườn: - Duy trì diện tích vườn cây ăn trái là 300ha, chủ yếu là cây xoài và mãng cầu. Hàng năm, nông sản thu được từ 900 - 1.000 tấn, trong đó, xoài chiếm 35% - 40%. Nông dân luôn được hỗ trợ về kiến thức và kỹ thuật trồng trọt để nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ du khách. - Xây dựng phương án và đề xuất các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân phát triển mô hình du lịch Nhà - Vườn. Từ đó, có thể chọn một số hộ dân làm mô hình thí điểm và tổ chức chuyến tham quan, học kinh nghiệm quản lý, phát triển, xây dựng mô hình du lịch nhà - Vườn ở các tỉnh miền Tây. Sau đó có thể áp dụng, cải tạo thành một mô hình mới phù hợp với địa phương. - Các cơ quan ban ngành huyện phối hợp với các Sở ngành chức năng của thành phố nghiên cứu giống xoài ra quả trái vụ kéo dài từ tháng 01 đến tháng 4 hàng năm nhằm tăng nguồn thu cho nông dân và kéo dài mùa du lịch Nhà - Vườn. Đồng thời, xây dựng thương hiệu sản phẩm xoài Cần Giờ, mắm tôm chua, khô cá dứa… trở thành món đặc sản nổi tiếng ở TP.HCM và cả nước. Du lịch đường sông: Tận dụng thế mạnh sông rạch chiếm 31,49% diện tích cả huyện, len lỏi trong rừng phòng hộ, thông thương giữa TP.HCM với các tỉnh lân cận là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển du lịch đường sông, là mối quan tâm hàng đầu của các cấp chính quyền và người dân địa phương, cần phải: - Đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành trong công tác quy hoạch, xây dựng các dự án khả thi phát triển tour, tuyến du lịch đường sông. Cần phải chú trọng công tác xử lý tốt việc cấp thoát nước và chất thải của các cụm dân cư và các cơ sở sản xuất kinh doanh, khu vực nuôi chim yến… nằm sát bờ sông. - Căn cứ quy hoạch và các dự án khả thi phát triển du lịch đường sông ở các vùng trọng điểm du lịch, phối hợp với các ngành chức năng đẩy mạnh công tác hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng du lịch đường sông, trước mắt là xây dựng các bến tàu có đủ điều kiện để đón các tàu thuyền du lịch. - Tiếp tục xây dựng các chính sách khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch sông nước đặc thù, tạo ra những sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh cao để phát triển. - Tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch đường sông Cần Giờ, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch, tạo thị trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực này. - Phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thành phố cùng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành trên địa bàn thành phố khảo sát tuyến du lịch đường sông nhằm xác định những tuyến khả thi nhất để các đơn vị đưa vào khai thác trong năm 2011 và năm 2012. Du lịch tín ngưỡng: Phát huy đặc điểm một nền văn hóa lâu đời với kho tài nguyên nhân văn phong phú được chia thành các nhóm: di tích văn hóa khảo cổ như Giồng Am, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ và nhiều di tích văn hóa tín ngưỡng như đình, chùa, miễu, thánh thất… đặc biệt là Khu di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác và Lễ hội Truyền thống Ngư dân Cần Giờ. Với đặc điểm đó, việc nghiên cứu phát triển du lịch tín ngưỡng là một việc làm cần thiết nhằm phát huy thêm thế mạnh cho ngành du lịch Cần Giờ, cần phải: - Tập trung đầu tư, tôn tạo, nâng cấp các đình, chùa về tín ngưỡng, tôn giáo: Lăng ông Thủy Tướng; đầu tư nâng cấp Lễ hội Truyền thống Ngư dân Cần Giờ, các đình, chùa được công nhận di tích văn hóa trên địa bàn huyện. - Sau khi hoàn thành việc nâng cấp, trùng tu, sửa chữa các khu di tích, cần đưa các điểm trên để khai thác phục vụ du lịch bằng cách kết nối với các công ty lữ hành xây dựng các tour, tuyến điểm tham quan các di tích tín ngưỡng nhằm góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng sản phẩm du lịch. Du lịch sinh thái nông nghiệp: được quy hoạch phát triển tại 04 xã phía bắc, với diện tích khoảng 28.710ha đất nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển theo mô hình du lịch sinh thái nông nghiệp, đến nay đã có 07 doanh nghiệp lập dự án quy hoạch đầu tư với tổng diện tích 565ha, trong đó có 01 doanh nghiệp đã hoàn thành dự án đưa vào khai thác (điểm Du lịch sinh thái Cát Xanh), diện tích 2,3ha, thu hút được khoảng 6.000 lượt khách tham quan mỗi năm. Du lịch Mice (Hội nghị kết hợp nghỉ dưỡng): được thực hiện ở 02 khu Resort 03 sao (Resort Phương Nam và Resort Cần Giờ) đã thu hút được 2.500 khách đến hàng năm, trong đó có đoàn khách đến từ các nước Nhật, Anh, Hàn Quốc, Colombia. Loại hình du lịch này có chiều hướng phát triển tốt trong các năm tới nếu cơ sở hạ tầng huyện được đầu tư tốt. Tặng phẩm, hàng lưu niệm: ngày càng phát triển phong phú, đa dạng về mẫu mã, được sản xuất từ các sinh vật biển của các loài nhuyễn thể, ốc, đồi mồi… Các sản phẩm đặc trưng của huyện như thủy sản các loại, xoài, mãng cầu, khô cá dứa, mực và các loại khô hải sản khác được bày bán nhiều nơi đáp ứng nhu cầu mua sắm của khách tham quan. Ban Quản lý Rừng phòng hộ Cần Giờ đang thí điểm sản xuất một số mặt hàng mỹ nghệ phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách như bàn, ghế được chế tác từ cây rừng ngập mặn với nhiều kích cỡ và kiểu dáng khác nhau; các hàng hóa thủ công như hàng thủ công lắp ghép kiến trúc, hình ảnh được chế tác từ các nguyên vật liệu từ rừng như hình người, hình chim thú… nhằm giới thiệu đến du khách về môi trường, cảnh quan thiên nhiên Rừng phòng hộ Cần Giờ. Tuy nhiên, quy mô sản xuất còn nhỏ, chủ yếu phục vụ công tác giới thiệu, quảng bá đối với du khách đến tham quan rừng phòng hộ, chưa thực sự trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng Cần Giờ để phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách trên địa bàn huyện. Phát triển mô hình làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống mang tính đặc trưng tại địa phương: làng nghề cá (xã Thạnh An), nghề muối (xã Lý Nhơn), làng nuôi chim yến (xã Tam Thôn Hiệp)… việc đưa nét đặc trưng này để khai thác du lịch là một yếu tố quan trọng và cần thiết để đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Xây dựng các tour, tuyến đưa du khách tham quan mô hình du lịch sinh thái rừng ngập mặn kết hợp với tìm hiểu đời sống các hộ dân giữ rừng; du lịch sinh thái nông nghiệp với mô hình vườn - ao - du lịch kết hợp với tìm hiểu các làng nghề… Khu du lịch sinh thái Vàm Sát ở Cần Giờ Tổ chức Du lịch thế giới đã công nhận Khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của thế giới tại Việt Nam. Khu bảo tồn thiên nhiên này là nơi cư trú của nhiều loài chim nước, chim di cư và một số loài động vật lưỡng cư trên cạn. Thảm thực vật Cần Giờ phong phú với hơn 160 loài; là môi trường sinh sống của hơn 700 loài động vật thủy sinh không xương sống, 137 loài cá, trên 40 loài động vật có xương sống. Đặc biệt, nơi đây đang hình thành trở lại các sân chim tự nhiên với số loài chiếm tới 34% tổng số loài chim nước ở Việt Nam, trong đó có tới 9 loài quý hiếm được ghi trong sách Đỏ của thế giới. Rừng Sác ở Cần Giờ là một vùng rừng đước, chà là ngập mặn rộng đến 600 hecta, nơi tập hợp của hàng trăm sông rạch lớn nhỏ, ngang dọc chằng chịt. Khu du lịch sinh thái Vàm Sát nằm trong rừng Sác, giữa dòng chảy của hai con sông Vàm Sát và Lòng Tàu. Nơi đây, rừng Sác nổi tiếng trong thời chiến tranh chống Mỹ với những chiến sĩ đặc công gan dạ, giỏi võ nghệ và có khả năng xuất quỷ nhập thần, dũng cảm mưu trí trong nhiều trận đánh tàu chở hàng quân sự trên sông, phá huỷ các kho xăng, kho bom đạn của địch. Tháp Tang Bồng Trong rừng Sác có tháp Tang Bồng – cao 26 mét, được xây dựng để tri ân hơn 800 chiến sĩ đặc công đã hy sinh trong kháng chiến. Từ tháp Tang Bồng, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh rừng Sác. Khu du lịch Vàm Sát có một trại nuôi cá sấu. Ngoài ra, còn có khu nuôi cá sấu tự nhiên, nuôi và nhân giống nhiều loại cá sấu như cá sấu Xiêm, cá sấu hoa cà… Du khách đến đây để tham quan môi trường sống, tìm hiểu tập quán và cách săn mồi của cá sấu. Hoặc cũng nhiều người đến để tham gia… câu cá sấu. Du khách câu cá sấu Có hai nơi không thể bỏ qua khi thăm Vàm Sát là Đầm Dơi và Tràm Chim. Đầm Dơi là một nơi có nhiều cây đước, là nơi trú ngụ của lòai dơi quạ, có cánh sải dài tới 1 mét, bay về sống hơn vạn con. Còn Tràm Chim với diện tích 602 ha hội tụ rất nhiều lòai chim, cò. Trước kia, trong thời bom đạn, các loại chim bỏ đi hết. Từ khi rừng ngập mặn nguyên sinh được khôi phục, chim chóc và các loại động vật khác cũng dần dần kéo về: heo rừng, mèo rừng, trăn, kỳ đà, sóc, cá sấu, khỉ… Du khách tham quan Đầm Dơi Tổ cò (Tràm Chim) Tại đây, khu bảo tồn động vật hoang dã được xây dựng thành một khu vực an toàn để thu hút các loài động vật đến sinh sống, vừa bảo vệ chúng, vừa khôi phục mội trường tự nhiên. Tháng 7/2002, tổ chức Du lịch thế giới đã công nhận Khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của thế giới tại Việt Nam. Cuối năm 2003, sân chim và Đầm Dơi của khu du lịch sinh thái Vàm Sát đã được UBND thành phố phê duyệt khoanh vùng quy hoạch chim thú rừng tại rừng phòng hộ Cần Giờ nhằm mục đích bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn, khu dự trữ sinh quyển, tạo nơi tham quan học tập, nghiên cứu và giáo dục cho nhân dân thành phố, du khách trong và ngoài nước./. Quản lý nhà nước về du lịch - Kịp thời thực hiện công tác quy hoạch ngành để thuận lợi trong công tác quản lý. - Tăng cường cải cách hành chính theo cơ chế một cửa để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch. - Phổ biến, hướng dẫn pháp luật về du lịch cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch… - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhằm phát hiện, xử lý những vi phạm trong hoạt động kinh doanh du lịch như hoạt động sai chức năng, kinh doanh trái phép… từng bước đưa hoạt động tổ chức kinh doanh của các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch vào trật tự, tạo môi trường kinh doanh ổn định. - Tăng cường công tác bình ổn giá, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết đối với các khu vực phục vụ du lịch như Khu du lịch 30/4. Cần phải chú trọng công tác đảm bảo niêm yết giá bán các mặt hàng đặc sản một cách triệt để, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng cho du khách. Đảm bảo môi trường du lịch - Tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức trong cộng đồng dân cư về gìn giữ bảo vệ môi trường, qua đó nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch trong việc xử lý các loại chất thải phát sinh, khắc phục tác động tiêu cực đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn, phòng chống các tệ nạn xã hội trong cơ sở kinh doanh du lịch. - Tăng cường công tác quản lý môi trường các hoạt động du lịch bao gồm hành vi du khách, địa điểm lưu trú, phương tiện vận chuyển, khu vui chơi giải trí. Đồng thời, thực hiện tốt công tác quản lý công viên cây xanh nhằm tạo mỹ quan và đảm bảo vệ sinh môi trường ở khu vực trung tâm, các khu dân cư. - Khuyến khích các công ty du lịch khi thiết kế tour có các chương trình đưa khách tham gia trồng cây và chăm sóc cây xanh. Nâng cao sự hiểu biết về môi trường tự nhiên qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn và phát triển cây xanh. - Phổ biến, tuyên truyền về Luật Bảo vệ môi trường, Luật Du lịch… xây dựng chương trình phong cách nếp sống người dân văn minh, lịch sự. - Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, tổ chức ngày chủ nhật xanh, tuần lễ môi trường tuyên truyền vận động người dân trồng cây xanh. - Tổ chức các khóa bồi dưỡng về quản lý tài nguyên và môi trường du lịch cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. - Tổ chức ngăn chặn các hành vi quấy nhiễu du khách. Xây dựng, thành lập lực lượng bảo vệ khách du lịch để đảm bảo môi trường an toàn, tạo sự thân thiện đối với du khách. KẾT LUẬN Vào ngày 21/01/2000 UNESCO đã công nhận rừng ngập mặn Cần Giờ là “ Khu dự trữ Sinh quyển của thế giới” và đây là Khu dự trữ Sinh quyển đầu tiên của Việt Nam, khu rừng trồng và phục hồi đẹp nhất Đông Nam Á, được ví như lá phổi xanh của thành phố. Rừng ngập mặn Cần Giờ giữ vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường, là bức tường xanh chắn sóng, cản gió; bảo vệ vùng biển cửa sông, hạn chế xói lở; mở rộng đất liền; điều hòa khí hậu; là nơi nuôi dưỡng, sinh trưởng, sinh sản của nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao và nhiều loài động vật trên cạn như chim, thú, bò sát, trong đó có những loài quý hiếm như cá sấu hoa cà, kỳ đà nước,… rừng ngập mặn còn là nơi nghiên cứu, học tập, nghỉ dưỡng cho khách du lịch, sinh viên – học sinh, các nhà khoa học và nhân dân trong và ngoài thành phố. Hy vọng du lịch sinh thái Cần Giờ phát triển bền vững với sự chung sức của các nhà quản lý, các nhà đầu tư và các cư dân địa phương. Và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho du khách khắp nơi trên thế giới! TÀI LIỆU THAM KHẢO www.saigontourist.hochiminhcity.gov.vn www.vietbao.vn www.cangioresort.com.vn www.vamsat.com.vn www.cangio.hochiminhcity.gov.vn www.nongnghiep.vn www.vietgle.vn www.sites.google.com www.vncreatures.net www.yume.vn www.yhocthuongthuc-nguyentienquang.blogspot.com www.vncreatures.net www.vncreatures.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doccan_gio_3336.doc
Luận văn liên quan