Hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của bộ luật dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của luật thương mại

NỘI DUNG CHÍNH I. Một số vấn đề chung 1. Khái niệm và đặc điểm HĐMBTS 1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán tài sản: “HĐMBTS là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” (Đ428 BLDS 2005). 1. 2 Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản  Bên bán: là người có tài sản đem bán, là chủ sở hữu tài sản hoặc là người được uỷ quyền bán hoặc cũng có thể là người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.  Bên mua: là người có tiền mua tài sản. 1.3 Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản “Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là tài sản được phép giao dịch” (Đ428.1 BLDS ) 1.4 Vi phạm hợp đồng mua bán tài sản ã Bộ luật Dân sự năm 2005 không có quy định cụ thể định nghĩa “vi phạm hợp đồng mua bán tài sản”. Đ428.1 BLDS quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự: “Bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Do đó, có thể hiểu vi phạm hợp đồng mua bán tài sản là việc bên có nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản (bên mua, bên bán) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. ã Một số biểu hiện cụ thể của vi phạm hợp đồng mua bán tài sản: Bên bán không giao tài sản; bên bán giao vật (đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản) với số lượng ít hơn số lượng hoặc không đúng chất lượng như đã thoả thuận, hoặc giao vật không đồng bộ, không đúng chủng loại ;bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng về tài sản mua bán; bên bán không đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua bán theo quy định của pháp luật; bên mua không trả tiền; bên mua trả tiền không đúng thời điểm hay địa điểm như đã thoả thuận ã Bất kì bên nào vi phạm hợp đồng mua bán tài sản (bên vi phạm) đều có thể bị áp dụng những chế tài theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Lỗi trong dân sự được hiểu là lỗi suy đoán, có nghĩa là khi một bên vi phạm hợp đồng thì bị suy đoán là có lỗi và có thể bị áp dụng các chế tài khác nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình nhưng do lỗi của bên kia thì không những không bị áp dụng chế tài (không bị coi là vi phạm hợp đồng) mà còn có “quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại” . Trong trường hợp này, bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình lại có quyền áp dụng những chế tài đối với bên có lỗi làm cho nghĩa vụ không được thực hiện hoặc được thực hiện không đúng.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5914 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của bộ luật dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của luật thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG CHÍNH Một số vấn đề chung Khái niệm và đặc điểm HĐMBTS Từ đây xin hiểu là HĐMBTS theo quy định của BLDS 2005. Khái niệm hợp đồng mua bán tài sản: “HĐMBTS là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” (Đ428 BLDS 2005). 1. 2 Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản Bên bán: là người có tài sản đem bán, là chủ sở hữu tài sản hoặc là người được uỷ quyền bán hoặc cũng có thể là người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Bên mua: là người có tiền mua tài sản. 1.3 Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản “Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là tài sản Theo Đ163 BLDS thì Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. được phép giao dịch” (Đ428.1 BLDS Từ đây cách trình bày văn bản này được đọc là: Khoản 1 Điều 428 Bộ Luật Dân sự 2005. ) 1.4 Vi phạm hợp đồng mua bán tài sản Bộ luật Dân sự năm 2005 không có quy định cụ thể định nghĩa “vi phạm hợp đồng mua bán tài sản”. Đ428.1 BLDS quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự: “Bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Do đó, có thể hiểu vi phạm hợp đồng mua bán tài sản là việc bên có nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản (bên mua, bên bán) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Một số biểu hiện cụ thể của vi phạm hợp đồng mua bán tài sản: Bên bán không giao tài sản; bên bán giao vật (đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản) với số lượng ít hơn số lượng hoặc không đúng chất lượng như đã thoả thuận, hoặc giao vật không đồng bộ, không đúng chủng loại…;bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng về tài sản mua bán; bên bán không đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua bán theo quy định của pháp luật; bên mua không trả tiền; bên mua trả tiền không đúng thời điểm hay địa điểm như đã thoả thuận… Bất kì bên nào vi phạm hợp đồng mua bán tài sản (bên vi phạm) đều có thể bị áp dụng những chế tài theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Lỗi trong dân sự được hiểu là lỗi suy đoán, có nghĩa là khi một bên vi phạm hợp đồng thì bị suy đoán là có lỗi và có thể bị áp dụng các chế tài khác nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình nhưng do lỗi của bên kia thì không những không bị áp dụng chế tài (không bị coi là vi phạm hợp đồng) mà còn có “quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại” Xem Đ417 BLDS. . Trong trường hợp này, bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình lại có quyền áp dụng những chế tài đối với bên có lỗi làm cho nghĩa vụ không được thực hiện hoặc được thực hiện không đúng. 2. Khái niệm và đặc điểm HĐMBHH Từ đây xin hiểu là HĐMBHH theo quy định của Luật Thương Mại 2005. 2.1. Khái niệm HĐMBHH là sự thỏa thuận, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán còn bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán nhận hàng nhận quyền sở hữu theo thỏa thuận LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có thể xác định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương mại trên cơ sở quy định của BLDS về HĐMBTS như trên. . 2.2. Các đặc điểm - Chủ thể: chủ yếu là thương nhân Theo Đ6.1 LTM thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. (ít nhất 1 bên tham gia hợp đồng là thương nhân). - Đối tượng của hợp đồng: Hàng hóa Xem thêm về khái niệm “hàng hóa”: ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương Mại, TS.Nguyễn Viết Tý (chủ biên), tập 2, trang 20 và 21. . - Hình thức: bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể của các bên (Đ24.1 LTM Từ đây cách trình bày văn bản này được đọc là: Khoản 1 Điều 24 Luật Thương Mại 2005. ). - Về nội dung: HĐMBHH thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Hành vi mua bán của các bên trong HĐMBHH có tính chất hành vi thương mại. - Mục đích: Phụ thuộc vào chủ thể, chủ yếu là kinh doanh kiếm lợi nhuận Luật Thương Mại 2005 chủ yếu được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ mua bán giữa các thương nhân với nhau nhằm mục đích lợi nhuận. . II. Chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản Chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản được hiểu là những biện pháp tác động tới chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm do bên mua và bên bán thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Chế tài không áp dụng trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng hay hoàn toàn do lỗi của bên có quyền. Các chế tài cụ thể trong HĐMBTS: - Buộc thực hiện đúng hợp đồng; - Phạt vi phạm; - Bồi thường thiệt hại; - Huỷ bỏ hợp đồng. 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng Khái niệm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài áp dụng với bên vi phạm hợp đồng mua bán tài sản, theo đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Nội dung của chế tài: bên vi phạm phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Hậu quả pháp lý của chế tài: hợp đồng vẫn còn hiệu lực và các bên vẫn bị ràng buộc với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng mua bán tài sản và có thể được áp dụng theo: Thoả thuận trong hợp đồng hợp đồng mua bán tài sản; Theo quy định của Pháp luật dân sự: + Trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng như đã thoả thuận, bên mua có quyền nhận phần đã giao và định thời hạn để bên bán giao tiếp phần còn thiếu (Đ435.2.b BLDS). + Trường hợp bên bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được, bên mua có một quyền nhận và yêu cầu bên bán giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi thường thiệt hại và hoãn thanh toán phần hoặc bộ phận đã nhận cho đến khi vật được giao đồng bộ (Đ436.1.a BLDS). + Trường hợp bên bán giao vật không đúng chủng loại, bên mua có quyền yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại (Đ437.2 BLDS). + Trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng về tài sản mua bán thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện (Đ442 BLDS). Phạt vi phạm Chế tài này được quy định tại Đ436 BLDS được áp dụng chung cho các loại hợp đồng dân sự, trong đó có hợp đồng mua bán tài sản. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm (Đ 436.1 BLDS). Như vậy, phạt vi phạm được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng và chế tài này phải được các bên thoả thuận trong hợp đồng (điều kiện bắt buộc). Nội dung của chế tài: bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Về mức phạt vi phạm, luật dân sự không giới hạn về mức phạt vi phạm mà do các bên thoả thuận. 3. Bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự (bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần). Quy định này được áp dụng chung cho các loại hợp đồng dân sự, trong đó có hợp đồng mua bán tài sản (Đ 307 BLDS). Có thể hiểu chế tài bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm nghĩa vụ bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm nghĩa vụ. Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại: bên vi phạm bù đắp những tổn thất thực tế được tính thành tiền cho bên bị vi phạm. Mức bồi thường thiệt hại do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật nếu không có thoả thuận. Mức bồi thường thiệt hại được tính thành tiền căn cứ vào thiệt hại thực tế (như tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút,...). Ngoài ra, bên vi phạm được giảm mức bồi thường nếu bên bị vi phạm không áp dụng những biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép nhằm ngăn chặn và hạn chế thiệt hại. Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có đủ 3 điều kiện : + Có hành vi vi phạm hợp đồng; + Có thiệt hại xảy ra trong thực tế; + Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Chế tài bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng theo: - Thoả thuận trong hợp đồng mua bán tài sản; - Theo quy định của Pháp luật dân sự: + Trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng như đã thoả thuận, bên mua có quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 435.2.a &c BLDS). + Trường hợp bên bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được, bên mua quyền nhận và yêu cầu bên bán giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi thường thiệt hại và hoãn thanh toán phần hoặc bộ phận đã nhận cho đến khi vật được giao đồng bộ hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại ( Đ436.1.a &b BLDS). Trường hợp bên bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được nhưng bên mua đã trả tiền và chưa nhận vật do giao không đồng bộ thì bên mua được trả lãi với số tiền đã trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại do giao vật không đồng bộ, kể từ thời điểm phải thực hiện hợp đồng cho đến khi vật được giao (Đ 436.2 BLDS). + Trường hợp bên bán giao vật không đúng chủng loại, bên mua có quyền yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 437.2 &3 BLDS). + Trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng về tài sản mua bán, bên mua đã yêu cầu bên bán phải thực hiện mà bên bán vẫn không thực hiện thì bên mua có quyền huỷ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 442 BLDS). + Trường hợp tài sản (đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản) bị người thứ ba tranh chấp, nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán đồng thời bên mua không biết và buộc phải biết tài sản mua bán thuộc sở hữu của người mua thì bên mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 443.2 BLDS). + Trường hợp sau khi mua vật, bên mua phát hiện ra khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của vật đã mua mà không thuộc các trường hợp quy định tại Đ 444.3 BLDS thì áp dụng Đ444.1 BLDS. Theo đó, bên mua phải báo ngay khi phát hiện ra khuyết tật và có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, đổi vật có khuyết tật, giảm giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu không có thoả thuận khác. + Đ448 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại trong thời gian bảo hành. Ngoài ra, còn một số trường hợp áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cho các loại hợp đồng dân sự, trong đó có hợp đồng mua bán tài sản: Đ417 BLDS quy định về nghĩa vụ không thể thực hiện do lỗi của bên có quyền: “Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”, Đ425.5 BLDS: “Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại”, Đ425.4 BLDS: “Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại”, Đ426.4 BLDS: “Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại”. 4. Huỷ bỏ hợp đồng: Huỷ bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 425 - Bộ luật Dân sự năm 2005. Quy định này được áp dụng chung cho các loại hợp đồng dân sự, trong đó có hợp đồng mua bán tài sản Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng: “Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền”. Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết có nghĩa là kể từ thời điểm đó các bên không có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Hủy bỏ hợp đồng là quyền của các bên trong hợp đồng khi có đủ 2 điều kiện sau: + Chủ thể bên kia vi phạm hợp đồng; + Vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên có thoả thuận trước hoặc pháp luật có quy định. Khi có đủ 2 điều kiện trên thì một bên trong hợp đồng có quyền huỷ bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại. Còn nếu không có hai điều kiện trên hoặc chỉ có một điều kiện thì bên huỷ bỏ hợp đồng bị coi là có lỗi trong việc bỏ hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại. Chế tài huỷ bỏ hợp đồng có thể được áp dụng theo: - Thoả thuận trong hợp đồng hợp đồng mua bán tài sản ; - Theo quy định của pháp luật dân sự: + Trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng như đã thoả thuận, bên mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 435.2.c BLDS) + Trường hợp bên bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được, bên mua quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 436.1.b BLDS). + Trường hợp bên bán giao vật không đúng chủng loại, bên mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 437.3 BLDS). + Trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng về tài sản mua bán, bên mua đã yêu cầu bên bán phải thực hiện mà bên bán vẫn không thực hiện thì bên mua có quyền huỷ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 442 BLDS). + Trường hợp tài sản (đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản) bị người thứ ba tranh chấp, nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán đồng thời bên mua không biết và buộc phải biết tài sản mua bán thuộc sở hữu của người mua thì bên mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ 443.2 BLDS). + Ngoài ra, Đ 417 BLDS quy định về nghĩa vụ không thể thực hiện do lỗi của bên có quyền: “Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. 5. Mối quan hệ giữa các chế tài Do hậu quả pháp lý giữa hai chế tài buộc thực hiện hợp đồng và huỷ bỏ hợp đồng là trái ngược nhau nên hai chế tài này không bao giờ được áp dụng cùng một lúc đối với bên bị vi phạm. Chế tài bồi thường thiệt hại có mục đích là bù đắp những tổn thất thực tế cho bên bị vi phạm nghĩa vụ nên để bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích của bên bị vi phạm chế tài này có thể được áp dụng cùng một lúc với các chế tài khác (buộc thực hiện hợp đồng; phạt vi phạm; huỷ bỏ hợp đồng). Có một chú ý trong hợp đồng dân sự là: bên vi phạm chỉ phải vừa nộp tiền phạt vi phạm vừa bồi thường thiệt hại nếu như các bên đã thoả thuận trong hợp đồng. Còn trong trường hợp chỉ thoả thuận vi phạm mà không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm (Đ422.3 BLDS). Phạt vi phạm trước hết có ý nghĩa phòng ngừa những vi phạm hợp đồng; sau đó mới có ý nghĩa “trừng phạt” bên vi phạm nghĩa vụ. Vì vậy, phạt hợp đồng có thể được áp dụng cùng một lúc với các chế tài khác (buộc thực hiện hợp đồng; bồi thường thiệt hại; huỷ bỏ hợp đồng). Nhưng với điều kiện bắt buộc là chế tài phạt vi phạm phải được thoả thuận trong hợp đồng và tuân theo Đ422.3 BLDS như chú ý ở trên. III. Chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hóa Kể từ khi HĐMBHH được giao kết, các bên chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ theo HĐMBHH sẽ dẫn đến các bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. LTM quy định các hình thức chế tài sau đây đối với các hành vi vi phạm hợp đồng: 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng Theo Đ 297.1 LTM thì buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện. Ví dụ: Ngày 1/5/2007, công ty trách nhiệm hữu hạn A kí hợp đồng mua vật liệu xây dựng với công ty B. Hai bên thoả thuận là công ty A mua xi măng của công ty B số lượng là 1000 bao, giá 90.000đ/bao; thời điểm giao hàng là ngày 20/7/2007 tại kho của công ty A. Đến thời hạn giao hàng, công ty A chỉ nhận được 700 bao, còn thiếu 300 bao so với thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy ở đây công ty B đã có sự vi phạm số lượng hàng. Công ty A có quyền yêu cầu công ty B phải giao đủ số hàng còn lại (300 bao xi măng). Trên đây là một trong rất nhiều ví dụ về việc áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng. Hình thức chế tài này áp dụng khi có hành vi vi phạm và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện của hình thức chế tài này là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện; việc lựa chọn dùng biện pháp nào trong hai biện pháp này thuộc quyền của bên bị vi phạm. Trong quá trình thực hiện, các chi phí phá sinh do bên vi phạm chịu. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thường được đặt ra khi có sự vi phạm về số lượng, chất lượng, hay yêu cầu kĩ thuật của hàng hoá, dịch vụ. Đ297.2&3 LTM quy định nếu bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng hoá, dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên bị vi phạm cũng có thể mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên bị vi phạm phải trả chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Một số điểm cần lưu ý: những trường hợp các bên thoả thuận gia hạn thực hiện nghĩa vụ thoả thuận hoặc thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác thì không được coi là áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng; Có những trường hợp đủ căn cứ để áp dụng chế tài này nhưng không thể áp dụng, đó là những trường hợp mà đối tượng của hợp đồng là những loại hàng hoá chỉ có khả năng tiêu thụ trong những thời điểm đặc biệt như dịp Tết, Trung thu…Trong trường hợp này nếu bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng, hết thời gian hàng hoá có khả năng tiêu thụ bên vi phạm mới giao đủ hàng thì sẽ gây thiệt hai lớn hơn cho bên bị vi phạm, như vậy thì việc buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ không còn ý nghĩa nữa. Cho nên khi lựa chọn chế tài để áp dụng các bên bị vi phạm phải có sự cân nhắc sao cho hình thức chế tài được lựa chọn phù hợp với thực tế và thuận lợi nhất cho các bên. 2. Phạt vi phạm: Theo Đ30 LTM thì phạt vi phạm là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận trên cơ sở pháp luật Điều kiện áp dụng: có sự vi phạm hợp đồng, có lỗi của bên vi phạm; và trong hợp đồng có thoả thuận trước về việc áp dụng chế tài này. Trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng chứng minh được việc vi phạm hợp đồng của mình thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều 294 Luật thương mại thì bên bị vi phạm không được áp dụng hình thức chế tài này. Pháp luật cho phép các bên thoả thuận trong hợp đồng về mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm tuy nhiên không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm Xem Điều 301 Luật Thương Mại. . 3. Buộc bồi thường thiệt hại: Theo Điều 302 Luật thương mại, bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng mà theo đó bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Mục đích của chế tài này là nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá. Vì thế để áp dụng chế tài này, cần có đủ các điều kiện sau: có hành vi vi phạm hợp đồng không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định tai Điều 294 Luật thương mại; có lỗi của bên vi phạm; có thiệt hại thực tế xảy ra; và hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại Xem Điều 303 Luật Thương Mại. . Đ302.2 LTM quy định về giá trị bồi thường thiệt hại, bao gồm: giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, để được bồi thường thiệt hại và xác định giá trị bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh những tổn thất và những khoản lợi đáng lẽ được hưởng đó Xem Điều 304 LTM. Để bảo vệ bên vi phạm hợp đồng, pháp luật còn quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất đối với bên bị vi phạm, theo đó, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại (bên bị vi phạm) phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu không áp dụng các biện pháp đó thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ hạn chế được. 4. Tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng Tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng mà theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán. Bên bị vi phạm không đương nhiên có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng khi có sự vi phạm mà hình thức chế tài này chỉ được áp dụng trong trường hợp xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng; hoặc trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng Xem Điều 308 LTM. … 5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng Theo Điều 310 LTM thì đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó một bên chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hoá. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán được áp dụng khi có đủ các điều kiện: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và các trường hợp này phải không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng. Hợp đồng bị đình chỉ thực hiện sẽ chấm dứt hiệu lực ngay tại thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ, kể từ thời điểm đó các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng nữa và bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có thể áp dụng cả hình thức chế tài buộc bồi thường theo quy định của pháp luật song song với hình thức chế tài này. 6. Huỷ bỏ hợp đồng Huỷ bỏ hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Theo Điều 312 LTM thì huỷ bỏ hợp đồng bao gồm huỷ bỏ toàn phần, tức là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; và huỷ bỏ một phần, tức là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Tương tự như tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng, việc áp dụng hình thức chế tài này có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các bên, đặc biệt là bên vi phạm hợp đồng nên điều kiện áp dụng hình thức chế tài này có phần chặt chẽ hơn các hình thức khác như bồi thường, phạt vi phạm, buộc thực hiện đúng hợp đồng; hình thức chế tài này chỉ được áp dụng khi: hình vi vi phạm không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm và phải trong trường hợp: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hậu quả pháp lý của hình thức chế tài này là phần hợp đồng hoặc hợp đồng bị huỷ bỏ coi như không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng (hoặc phần hợp đồng), các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng (phần hợp đồng), nếu các bên đều có nghĩa vụ phải hoàn trả thì nghĩa vụ của họ được thực hiện đồng thời, trường hợp không thể hoàn trả được bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền Xem điều 314 LTM. 7. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận, vì thế luật pháp không chỉ cho phép các bên tự thoả thuận, lựa chọn áp dụng các hình thức chế tài mà luật quy định rõ điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lý…mà còn cho phép các bên tự do thoả thuận để đưa ra các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luận. Các nguyên tắc này không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. 8. Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài Nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các biện pháp chế tài khác. Quy định này nhằm tránh trường hợp bên bị vi phạm bắt bên vi phạm phải chịu quá nhiều hình thức chết tài cho một hành vi vi phạm nhỏ. Tuy nhiên nếu trong thời hạn do bên bị vi phạm ấn định mà bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì bên bị vi phạm được áp dụng chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình Xem Điều 299 Luật Thương Mại 2005. . Khác với chế tài phạt vi phạm, chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng ngay cả khi không thoả thuận trong hợp đồng. Vì thế trong mối quan hệ giữa hai hình thức chế tài này luật quy định rõ tại Điều 307 LTM: “1. Trường hợp các bên không có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật này có quy định khác. 2. Trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật này có quy định khác”. Như vậy, các bên hoàn toàn có thể thoả thuận việc áp dụng chế tài bồi thương thiệt hại mà không áp dụng chế tài phạt vi phạm hoặc áp dụng đồng thời cả hai hình thức chế tài này vì theo quy định của luật, việc áp dụng một trong hai hình thức này không loại trừ việc áp dụng hình thức chế tài còn lại. Khi áp dụng hình thức chế tài tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng thì theo quy định tại điều 309 Luật thương mại, hợp đồng sẽ vẫn còn hiệu lực đối với các bên, và bên bị vi phạm có thể áp dụng đồng thời hình thức chế tài này cùng với hình thức chế tài buộc bồi thường thiệt hại. IV. So sánh các quy định về hình thức chế tài trong 2 loại hợp đồng trên Qua việc phân tích các hình thức chế tài của 2 hợp đồng trên, chúng ta có thể rút ra những điểm như sau: 1. Sự giống nhau - Ý nghĩa của các hình thức chế tài: nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật hợp đồng. - Các chế tài trong hai loại hợp đồng có nhiều đặc điểm giống nhau là do đều phát sinh trong quan hệ hợp đồng nên có các đặc điểm chung: + Đều là sự gánh chịu hậu quả vật chất bất lợi của bên thực hiện hành vi vi phạm (lợi ích mà các bên hướng tới trong các hợp đồng bao giờ cũng mang tính chất tài sản nên việc vi phạm của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia) nên cần có sự bù đắp bằng những lợi ích vật chất. Hậu quả bất lợi mà bên vi phạm phải gánh chịu là việc bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ(trong hợp đồng) hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm để thỏa mãn quyền lợi chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho bên bị vi phạm. + Quy định 4 hình thức chế tài giống nhau: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, hủy hợp đồng. Trong đó, hình thức chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài được áp dụng chủ yếu nhất. - Căn cứ phát sinh để áp dụng các chế tài về cơ bản đều bao gồm bốn căn cứ: có hành vi vi phạm, có thiệt hại thực tế xảy ra, mối quan hệ nhân quả và lỗi của bên vi phạm. Đặc biệt, “lỗi” trong việc áp dụng các chế tài trong hợp đồng nói chung và trong hai hợp đồng nói riêng đều là lỗi suy đoán: bên thực hiện hành vi vi phạm đương nhiên bị coi là có lỗi nếu không tự chứng minh được là mình không có lỗi (có thể do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm…). Đồng thời lỗi cố ý hay vô ý không phải là yếu tố quyết định đến mức độ gánh chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Khi áp dụng chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm cũng như các cơ quan tài phán về nguyên tắc không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm. 2. Sự khác nhau - Sự khác nhau về mức phạt tối đa của hình thức phạt vi phạm (về bản chất của hình thức phạt vi phạm là giống nhau: đều là một chế tài do vi phạm và được thỏa thuận trong hợp đồng): trong HĐMBTS thì mức phạt do các bên thỏa thuận (Đ422 BLDS) còn trong HĐMBHH thì cũng do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Đ301 LTM). - Đối với việc giao hàng không đúng số lượng, chủng loại… trong HĐMBTS thì người mua có quyền từ chối hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại còn trong HĐMBHH thì người mua chỉ có quyền từ chối và không giao kết hợp đồng nữa (vì trong HĐMBTS thì phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao gồm cả quyền tài sản và các giấy tờ có giá khác chứ không chỉ đơn thuần là hàng hóa. Do đó, một khi bên bán không thực hiện đúng nghĩa vụ về giao hàng thì ảnh hưởng đến lợi ích của người mua khá lớn). - Đối với thời điểm chuyển rủi ro của hàng hóa trong HĐMBHH thì trong trường hợp khiếu nại bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kì khiếm khuyết nào của hàng hóa đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro. Còn trong HĐMBTS thì thời điểm chuyển rủi ro được tính cho bên bán trước khi thỏa thuận, có nghĩa là quyền sở hữu thuộc về bên kia còn thời điểm chuyển rủi ro của bên mua kể từ khi bên mua nhận quyền sở hữu. - Hình thức chế tài của HĐMBHH đa dạng hơn, có thêm các hình thức: tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và các hình thức khác theo thỏa thuận của các bên. Điều này thể hiện sự mở rộng hơn của Luật Thương mại so với BLDS về các hình thức chế tài. Chế định hợp đồng trong LTM không phải là chế định “xương sống”. Do vậy, việc tăng hàm lượng quy định về các chế tài là cần thiết để thể hiện tính đặc thù của các giao dịch thương mại so với giao dịch dân sự. V. Đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định về chế tài của hai hợp đồng trên: Ưu điểm Nhìn chung các quy định về các hình thức chế tài của 2 loại hợp đồng trên đã tạo được một môi trường pháp lý để đảm bảo quyền lợi cho bên bị vi phạm trong hợp đồng; góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của chủ thể tham gia hợp đồng. HĐMBHH theo Luật Thương Mại xét về bản chất là 1 dạng cụ thể của HĐMBTS trong Luật Dân sự Xem ĐH Luật Hà Nội: Giáo trình Luật Thương Mại, tập 2, SĐD, trang 15. . Và với vai trò là Hợp đồng của 1 Luật “riêng” nó đã có thêm những hình thức chế tài khác cho phù hợp với bản chất pháp lý cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS Xem ĐH Luật Hà Nội: Giáo trình Luật Thương Mại, tập 2. SĐD, trang 18. . Những hình thức chế tài được quy định nói chung khá chặt chẽ (ví dụ như các trường hợp của chết tài bồi thường thiệt hại và hủy bỏ hợp đồng của HĐMBTS), khái quát được hệ thống các hình thức chế tài. Nhược điểm Các quy định của HĐMBTS dường như còn chưa đạt đến độ “sâu”, vẫn còn mang nặng tính “chung chung”. Thêm nữa, việc quy định mức phạt vi phạm còn không thống nhất ở các văn bản có liên quan (Điều 301 LTM quy định mức phạt tối đa 8% giá trị nghĩa vụ vi phạt, BLDS lại quy định mức phạt vi phạm tùy theo thỏa thuận, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế lại quy định mức phạt vi phạm không quá 12% giá trị của nghĩa vụ bị vi phạm - phụ thuộc vào loại nghĩa vụ bị vi phạm). Tất nhiên khi áp dụng luật sẽ ưu tiên áp dụng Luật chuyên ngành nhưng như thế cũng tạo ra một môi trường pháp lý không hòa đồng. Vấn đề quy định mức phạt vi phạm hiện nay trong LTM cũng chưa hợp lý. Chế định phạt vi phạm này được sử dụng với 2 mục đích đồng thời: răn đe, ngăn chặn vi phạm hợp đồng (trong trường hợp có vi phạm thì bên vi phạm sẽ phải nộp "phạt" không phụ thuộc vào việc thực tế vi phạm đó có gây ra thiệt hại cho bên kia không); bồi thường thiệt hại theo mức định trước (tức là nếu có vi phạm gây thiệt hại thì bên bị thiệt hại không được quyền đòi bồi thường thiệt hại theo mức thiệt hại thực tế mà chỉ được đòi khoản tiền đã xác định trước mặc dù thực tế không có thiệt hại hoặc thiệt hại có thể là thấp hơn hoặc cao hơn mức tiền phạt này). Qui định về "giới hạn trên" của mức phạt (8%) là không hợp lý vì nếu một bên thấy mức thiệt hại mà họ phải chịu nếu thực hiện đúng hợp đồng còn cao hơn mức thiệt hại do nộp phạt thì họ sẽ "cố ý" vi phạm. Mục đích "răn đe" do đó sẽ không thực hiện được. Hơn nữa qui định này cũng can thiệp vào quyền tự do thoả thuận của các bên. Vì vậy, không nên qui định mức phạt tối đa. Việc qui định phạt vi phạm với mục đích răn đe (phạt) cũng có thể gây ra những nguy cơ nhất định trong việc áp dụng. Ví dụ theo thông luật (common law) áp dụng tại các nước Anh, Mỹ, Úc... các bên chỉ được thoả thuận về bồi thường theo mức định trước (liquidated damages), mọi thoả thuận về phạt vi phạm (penalty) đều vô hiệu Nguyễn Thu Trang – VCCI : Góp ý Dự thảo Luật Thương Mại lần 8 (Quy định về mức phạt vi phạm trong Dự thảo này vẫn giữ nguyên khi thông qua Luật Thương mại 2005 như hiện nay), . Như vậy một bản án của toà án hay phán quyết trọng tài chấp nhận hiệu lực của điều khoản phạt vi phạm trong HĐTM có thể sẽ bị toà án tại các nước theo hệ thống thông luật từ chối công nhận và thi hành. Mục đích răn đe và bồi thường thiệt hại theo mức định trước đôi khi không thể thống nhất với nhau trong cùng một loại chế tài. Ví dụ nếu "răn đe" thì mọi vi phạm đều phải nộp phạt còn nếu là "bồi thường thiệt hại theo mức định trước" thì chí ít việc vi phạm phải gây ra thiệt hại (thì mới có chuyện "bồi thường thiệt hại"; "bồi thường thiệt hại theo mức định trước chỉ khác so bồi thường thiệt hại chung ở chỗ mức bồi thường đã được ấn định trước). Luật hợp đồng của Pháp qui định nội dung này thành hai hình thức riêng biệt: bồi thường thiệt hại theo mức định trước (với các điều kiện áp dụng cho bồi thường thiệt hại thông thường: tức là phải có hành vi vi phạm, có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại); và phạt vi phạm (clause pénal) áp dụng bất kỳ khi nào có vi phạm mà không phụ thuộc vào việc có thiệt hại xảy ra hay không. Bên bị vi phạm có thể cùng lúc đòi bồi thường thiệt hại thực tế và khoản tiền phạt vi phạm. Riêng đối với hình thức bồi thường thiệt hại theo mức định trước, nếu khoản tiền bồi thường theo mức định trước là quá vô lý so với thiệt hại thực tế (quá cao hoặc quá thấp) thì thẩm phán có thể can thiệp để điều chỉnh mức này cho hợp lý hơn. Như vậy là chế định phạt vi phạm là để răn đe còn bồi thường thiệt hại theo mức định trước là nhằm mục đích "bồi thường thiệt hại" theo đúng nghĩa của nó. Thiết nghĩ chúng ta không nên quy định giới hạn trên trong chế tài phạt vi phạm như Luật Thương Mại 2005 để khắc phục những bất cập và nâng cao quyền tư do thỏa thuận trong pháp luật về hợp đồng. Qua những ưu nhược điểm đã phân tích ở trên cho thấy Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam còn phải hoàn thiện nhiều từ hình thức hợp đồng đến các hình thức chế tài. Nói chung, các chế tài chỉ là biện pháp cuối cùng mang tính “cưỡng chế” ý chí. Đặc biệt, chúng ta cũng nên quan tâm đến vấn đề giải thích luật và áp dụng luật. Bên cạnh đó cũng nên xem xét đến vấn đề áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử. Điều này sẽ giúp cho việc áp dụng các hình thức chế tài có sự đổi mới, có sự so sánh trong tương quan với các vụ án đã xử để có được bản án chính xác và công minh nhất. Việc sử dụng án lệ với một mức độ thích hợp là một yêu cầu được đặt ra trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, với sự mở rộng giao lưu văn hóa, pháp luật…nên ngày càng có sự gần nhau hơn trong quan niệm và sự vận dụng các loại nguồn của pháp luật TS.Đỗ Văn Đại: Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, NXB. Chính trị Quốc gia, 2008, tr. 5. .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHình thức chế tài trong Hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Bộ Luật Dân sự và Hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật Thương Mại.doc
Luận văn liên quan