Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - Chất đổi

Phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Đây là nội dung quan trọng của quy luật sự chuyển hóa về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại – một trong những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học Mác. Quá trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành xu hướng tất yếu của thế giới đương đại. Quá trình này mà đặc biệt hơn là quá trình hội nhập WTO chính là biểu hiện rõ nét trong việc vận dụng Quy luật “những sự chuyển hóa về lượng dẫn đến những thay đổi về chất” của Đảng và nhà nước ta trong thời gian qua. Với những kiến thức nghiên cứu được, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên và nhà trường, trong bài viết này, tôi xin tập trung nghiên cứu những vấn đề xung quanh Quy luật lượng đổi – chất đổi và sự vận dụng Quy luật này trong quá trình nước ta hội nhập WTO. Đề tài có tên gọi: “HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI- CHẤT ĐỔI”. Đây là một đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi khả năng nắm bắt sâu sắc về những quan điểm của triết học Mác - Lê Nin cũng như những kiến thức, tư liệu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và quá trình hội nhập WTO nói riêng của nước ta. Vì thế, với khả năng có hạn cùng những hạn chế nhất định về quỹ thời gian và điều kiện học tập, đề tài không sao tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Người viết kính mong được sự chân thành góp ý, bổ sung từ phía người đọc. Đề tài gồm 3 phần : Phần thứ nhất :Những lý luận chung về quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ hai :Quá trình hội nhập WTO của nước ta nhìn từ quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ ba :Kết luận

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2413 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - Chất đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI -CHẤT ĐỔI. LỜI NÓI ĐẦU Triết học Mác ra đời từ thế kỷ XIX đã chỉ ra rằng thế giới vật chất không chỉ tồn tại trong sự thống nhất đa dạng của các sự vật hiện tượng mà còn trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Thế giới vật chất như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau vừa có sự quan hệ qua lại thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự liên hệ, tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển không ngừng. Phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Đây là nội dung quan trọng của quy luật sự chuyển hóa về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại – một trong những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học Mác. Quá trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành xu hướng tất yếu của thế giới đương đại. Quá trình này mà đặc biệt hơn là quá trình hội nhập WTO chính là biểu hiện rõ nét trong việc vận dụng Quy luật “những sự chuyển hóa về lượng dẫn đến những thay đổi về chất” của Đảng và nhà nước ta trong thời gian qua. Với những kiến thức nghiên cứu được, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên và nhà trường, trong bài viết này, tôi xin tập trung nghiên cứu những vấn đề xung quanh Quy luật lượng đổi – chất đổi và sự vận dụng Quy luật này trong quá trình nước ta hội nhập WTO. Đề tài có tên gọi: “HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI- CHẤT ĐỔI”. Đây là một đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi khả năng nắm bắt sâu sắc về những quan điểm của triết học Mác - Lê Nin cũng như những kiến thức, tư liệu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và quá trình hội nhập WTO nói riêng của nước ta. Vì thế, với khả năng có hạn cùng những hạn chế nhất định về quỹ thời gian và điều kiện học tập, đề tài không sao tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Người viết kính mong được sự chân thành góp ý, bổ sung từ phía người đọc. Đề tài gồm 3 phần : Phần thứ nhất :Những lý luận chung về quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ hai :Quá trình hội nhập WTO của nước ta nhìn từ quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ ba :Kết luận Người viết một lần nữa xin cảm ơn các thầy cô giảng viên bộ môn Triết Học – Khoa sau Đại Học - trường đại học Kinh Tế Luật TPHCM đã tận tình giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài này. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 12 năm 2010 NGƯỜI THỰC HIỆN ĐẶNG MINH SANG PHẦN I NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI-CHẤT ĐỔI 1. Quan niệm biện chứng về chất và lượng 1.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ 1.1.1. Arixtốt : Nhà triết học cổ đại Arixtốt là người đầu tiên đưa ra quan niệm chất và lượng với tư cách là các phạm trù triết học. Ông xem chất là tất cả những gì làm cho sự vật là nó. Là những cái gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng của sự vật thành hai loại: số lượng và đại lượng.Ngoài ra, ông cũng là người đầu tiên tiến tới giải quyết vấn đề quan trọng  đó là vấn đề tính nhiều chất của sự vật. Từ đó, ông phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi của bản thân sự vật; ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng. 1.1.2. Hêghen : Quan niệm về lượng và chất của sự vật, hiện tượng đã có bước tiến đáng kế trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen. Hêghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Với quan điểm biện chứng, Hêghen đã xem xét từ chất thuần tuý  đến chất được xác định ; chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng; lượng cũng không ngừng tiến hoá, số lượng là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá. Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng của Hêghen, Lênin đã rút ra một kết luận quan trọng là : Việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển. Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của ‘‘ý niệm tuyệt đối’’chứ không phải là những nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài. 1.2. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng 1.2.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm ra nó và do đó nó khác với cái khác. Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. Ví dụ : Khi cho đường vào nước ta thấy đường có tính tan, khi nếm ta biết đường có vị ngọt. Vậy tính tan, vị ngọt .. là thuộc tính của đường. Tất cả những thuộc tính của đường là những cái vốn có của đường, nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ của đường với nước hay trong quan hệ của đường với vị giác của con người. Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của con người đối với vật chất của sự vật, để nhận thức được những thuộc tính, chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp của tất cả các thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhân thức sự vật trong tổng hòa các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có một tổng hợp những đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vô vàn chất. Cho nên khi diễn đạt tính không thể tách rời giữa chất và sự vật cũng như tính nhiều chất của nó, Ăngghen đã viết : ‘‘những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng, mới tồn tại ’’1. Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật trong toàn bộ quá trình tồn tại của sự vật; đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật. Ví dụ : trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư tư liệu sản xuất, chất cơ bản của nền kinh tế tư bản tư nhân là sản xuất chạy theo giá trị thặng dư. Khi đặc trưng đó mất đi, nền kinh tế cũng không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy không ít sự vật, mà xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Ví dụ : kim cương và than chì là những sự vật đều do cácbon tạo thành. Nhưng kim cương là vật cứng, có thể cắt được hầu hết mọi kim loại, có giá trị kinh tế cao, còn than thì không có được những đặc trưng tương tự. Sự khác nhau đó được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các nguyên tử cácbon. Chất của sự vật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Do vậy, để làm biến đổi chất của sự vật, chúng ta có thể cải tạo các yếu tố cấu thành, hoặc biến đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. 1.2.2. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, nó biểu thị số lượng các thuộc tính, tống số các bộ phận, các đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển Những đặc trưng về lượng cũng mang tính khách quan vốn có của sự vật : chúng cũng là những đặc trưng giúp ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Những đặc trưng về lượng cũng được biểu hiện trong những mối quan hệ nhất định. Nhưng, khác với những mối quan hệ là phương thức bộc lộ các thuộc tính về chất, những mối quan hệ nhờ đó những thuộc tính về lượng bộc lộ ra, mang tính xác định, chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong thực tế có những thuộc tính về lượng của sự vật không thể biểu thị một cách chính xác bằng số lượng hay đại lượng. Ví dụ : trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất, tư cách, đạo đức của một con người… Trong những trường hợp như thế, để có tri thức đúng đắn về lượng, đòi hỏi phải có sự trừu tượng hoá rất cao với một phương pháp luận khoa học. Không chỉ chất, mà cả các thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng. Do vậy, một sự vật cũng có vô vàn lượng. Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im. Chúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau mà luôn luôn có quan hệ qua lại theo một quy luật nhất định. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đồi về chất. Lượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Ở thời điểm này sự vật vẫn còn là nó mà chưa thành cái khác. Ví dụ : khi xét các trạng thái khác nhau của nước trong khoảng nhiệt độ từ 0 độ C đến 100 độ C, bản chất của nước vẫn không thay đổi (xét về cấu tạo chất ). Như vậy, không phải bất kỳ một sự thay đổi về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Khuôn khổ, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật, được gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là một khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Những giới hạn mà khi lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái của nước là chất thì 0 độ C và 100 độ C là điểm nút. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ ra đời chất mới với lượng mới tương ứng của nó. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với những điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ. Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra được gọi là bước nhảy : Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời kỳ chuyển hóa chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra, là quá trình trực tiếp chuyển từ chất này sang chất khác một cách căn bản. Thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự thay đổi về chất cũng hết sức đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được quyết định trước bết bởi tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn vốn có. Với những sự vật có tính chất khác nhau và với những mâu thuẫn khác nhau sẽ có những bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn, bước nhảy trong tự nhiên dẫn tới sự ra đời của những loài động vật, thực vật mới phải trải qua hàng ngàn năm hoặc nhiều hơn. Nhưng cũng trong tự nhiên, chúng ta vẫn quan sát thấy cả những quá trình thay đổi về chất diễn ra một cách nhanh chóng. Ví dụ : hiện tượng phóng xạ trong tự nhiên của một số nguyên tố hoá học… Tính đa dạng trong hình thức thay đổi về chất còn được quy định bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Chẳng hạn, cũng là vấn đề thay đổi quyền lực chính trị trong quá trình phát triển xã hội,nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử – cụ thể mà sự thay đổi đó có thể diễn ra bằng con đường hoà bình hoặc bạo lực cách mạng. Khi diễn ra theo con đường thứ 2, bước nhảy được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Trong thực tế, sự thay đổi về chất thông qua các bước nhảy hết sức đa dạng và phong phú. Nhìn chung, các bước nhảy thể hiện qua một số cách cơ bản sau: Bước nhảy đột biến và bước nhảy diễn ra một cách dần dần : Sự phân chia như vậy được dựa trên không chỉ thời gian của sự thay đổi về chất, mà còn dựa trên cả tính chất của bản thân sự thay đổi đó. Những bước nhảy đột biến, khi chất của sự vật được biến đổi một các nhanh chóng. Chẳng hạn, sự chuyển hoá của các hạt cơ bản…Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, quá trình chuyển hoá từ vượn người thành người… Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước nhảy vừa nêu không chỉ ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài nhân tố tốc độ, chúng ta còn nói đến cơ chế của việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành không phải ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần. Mặt khác, cũng cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần dần về lượng. Nhưng sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ của chất đang có; còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặc quyết định trong sự phát triển. Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt, các bộ phận, các nhân tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số nhân tố, một số bộ phận của sự vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc, về những bộ phận cấu thành.. bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ. Từ những phân tích trên, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển dần từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Vì vậy để có tri thức tương đối đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó. Con đường nhận thức đó sẽ diễn ra như sau: từ những nhận thức ban đầu về chất đi tới nhận thức lượng, trong quá trình đó, tri thức về chất được làm sâu sắc thêm, khi đạt đến tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng chúng ta sẽ có tri thức tương đối hoàn chỉnh về sự vật đó. Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên. Trong sự phát triển xã hội, phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. Xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủ nghĩa tả khuynh. Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề trong công cuộc đổi mới mà đặc biệt là công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội mà đặc biệt là quá trình hội nhập sẽ tạo ra bước nhảy về chất tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung và bước nhảy về chất của quá trình hội nhập nói riêng. Như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình hội nhậphiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Ở đây bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước. PHẦN II HỘI NHẬP WTO CỦA NƯỚC TA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI-CHẤT ĐỔI. Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại đã chỉ ra rằng : Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Kế thừa quy luật này Đảng và nhà nước ta nhất quán trong đường lối, chủ trương, và quá trình thực hiện để đưa nước ta hội nhập vào kinh tế quốc tế đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới WTO. “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.”2 ( Trích văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X) 1. Giới thiệu về WTO : Ngày 07 tháng 11 năm 2006,  sau gần 12 năm đàm phán, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO. Đây là một thành công to lớn, là sự kiện trọng đại của lịch sử thương mại và ngoại giao của Việt Nam, là một cột mốc quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..  WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995, ‘‘hiện có 153 thành viên (Việt Nam là thành viên thứ 150)’’3.Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8 diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 tại Marrakesh thủ đô của Marocco (còn gọi là Vòng đàm phán Uruguay và Hiệp định thành lập WTO còn gọi là Hiệp định Marrakesh) nội dung là cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, viết tắt là WTO.  1.1. Cơ cấu tổ chức của WTO 1.1.1. Cơ cấu tổ chức WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như: - Hội nghị Bộ trưởng. - Đại Hội đồng. - Các Ủy ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Các Ủy ban chức năng thông thường gồm các đại sứ và trưởng phái đoàn ở Geneva nhưng đôi khi các viên chức cũng được gửi tới từ thủ đô của các quốc gia thành viên; Ủy ban Chức năng họp vài lần một năm ở Hội sở của WTO tại Geneva (Thụy Sĩ ) là cơ quan lo về xem xét chính sách. Ủy ban Giải quyết tranh chấp cũng họp với lịch trình tương tự. - Các Ban hàng hóa, Ban dịch vụ và Ban sở hữu trí tuệ. Các ban này báo cáo công tác cho các Ủy ban chức năng. Ngoài ra còn có một số lượng các tiểu ban đặc biệt, nhóm công tác và các thành viên xử lý các hiệp ước ký riêng giữa các thành viên cá thể và các khu vực khác nhau như môi trường, phát triển, xử lý đơn gia nhập và các hiệp ước thương mại khu vực. - Cơ quan đảm nhiệm chức năng hành chính – thư ký là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. 1.2.2. Trụ sở WTO Trụ sở đặt tại Geneva, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Geneva). Mỗi thành viên WTO có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp. Các thỏa thuận của WTO phải được phê chuẩn ở tất cả nghị viện (Quốc hội) của các quốc gia thành viên. 1.2. Chức năng của WTO WTO có những chức năng cơ bản sau đây: - Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO. WTO có cả một hệ thống hiệp định đa phương (bắt buộc) và hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. - Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Năm 2001, vòng đàm phán đầu tiên của WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển Đôha, hay Vòng đàm phán Đôha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc. - Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định. Bảo đảm tuân thủ các luật lệ của WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên. - Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.   1.3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của WTO: 1.3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử tối huệ quốc ( MFN) quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Đối xử quốc gia ( NT) quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO. 1.3.2. Nguyên tắc thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: Bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v.. 1.3.3. Nguyên tắc minh bạch hoá: Bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh. 1.4. Hệ thống văn kiện pháp lý của WTO bao gồm: a. Hiệp định thành lập WTO, thường gọi tắt là Hiệp định WTO hay Hiệp định Marrakesh; b. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hoá; c. Các hiệp định phụ trợ cho GATT (Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định về xác định trị giá hải quan v..v.); d. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ; e. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs); f. Thoả thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp; g. Cơ chế rà soát chính sách thương mại; h. Các hiệp định thương mại nhiều bên (Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính phủ).  Các văn kiện trên được gọi là các văn kiện đa phương, mang tính bắt buộc, các thành viên phải cam kết tuân thủ theo nguyên tắc “chấp nhận trọn gói”. Với các hiệp định nhiều bên không mang tính bắt buộc, các thành viên được khuyến khích tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp định này, ít nhất là cũng phải đàm phán và đưa ra cam kết nào đó. 1.5. Đàm phán gia nhập WTO : WTO yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên có quan tâm. Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn: a. Giai đoạn làm rõ chính sách: kèm theo đơn xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ được thành lập, bao gồm các thành viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập. Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành viên Ban công tác để làm rõ chính sách kinh tế - thương mại. Các câu hỏi và trả lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác sau này. b. Giai đoạn đàm phán: Đàm phán đa phương là đàm phán với cả Ban công tác về việc tuân thủ các hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước xin gia nhập phải đưa ra các cam kết về việc thực thi các hiệp định, lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các cơ chế, định chế cần thiết cho việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là đàm phán về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm, nhằm giải quyết các quyền lợi thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song phương, các thoả thuận riêng sẽ được tổng hợp lại theo nguyên tắc “chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều được hưởng các cam kết “tốt nhất” này theo nguyên tắc MFN. c. Giai đoạn hoàn tất văn kiện gia nhập: Trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban công tác sẽ tổng hợp và hoàn tất bộ văn kiện gia nhập, bao gồm các tài liệu chính: Một là Báo cáo của Ban công tác; hai là Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá; ba là Biểu cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ; bốn là dự thảo Nghị định thư gia nhập. d. Giai đoạn phê chuẩn: bộ văn kiện gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng thông qua. Theo quy định của Hiệp định WTO, Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng sẽ thông qua văn kiện gia nhập khi có ít nhất là 2/3 số thành viên tán thành. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước chỉ có thể gia nhập khi không có bất cứ thành viên nào phản đối. Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia nhập sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn trong nước. 30 ngày sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, nước đó mới chính thức trở thành thành viên của WTO . 2.2 Hội nhập WTO của ta : 2.2.1 : Tính thiết yếu của việc gia nhập WTO Nhận thức rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhận định "...Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương...tiến tới gia nhập WTO..."4 Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Ngày 29/11/2006 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) của Việt Nam và ngày 11/01/2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:    - Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO giúp khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO. - Thứ hai, gia nhập WTO tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Việc bãi bỏ Hiệp định đa biên (MFA) về hàng dệt sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Dệt  -May Việt Nam sẽ được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, đồng thời, các nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may của Việt Nam. Đối với các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. - Thứ ba, Việt Nam có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm. - Thứ tư, Việt Nam có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.    - Thứ năm, Việt Nam có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động.  Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng… - Thứ sáu, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm… 2.2 Quá trình hội nhập WTO của Việt Nam: 2.2.1. Tiến trình gia nhập WTO : 1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc) 8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại” 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA) 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường. 7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ 12-2001: BTA có hiệu lực 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương. 2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng: 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006. 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. 2.2.2. Đánh giá Việt Nam sau 03 năm gia nhập WTO. Quá trình hội nhập KTQT đặc biệt là hội nhập WTO của ta là một quá trình lâu dài và tất yếu. Đánh giá thực tại, kết quả sau 03 gia nhập WTO cho ta cái nhìn thực tế để có những định hướng thích đáng với quá trình hội nhập này. Sau 03 năm gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đã thật sự thay da đổi thịt, đời sống của các tầng lớp dân cư không ngừng được cải thiện: -Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam. -Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2008 của nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, năm 2009 ở mức 5,32% và năm 2010 là 6,78%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, đạt mức 68,49 tỷ USD, mức năm 2009 là 56,6 tỷ USD và năm 2010 là 71,6 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...   -Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20,3 tỷ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Từ năm 2008 trở đi, dù tình hình kinh tế thế giới rơi vào cơn đại khủng hoảng, nhưng năm vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007, mức năm 2009 là 21,48 tỷ USD. Ðiều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay. -Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.   -Thứ năm, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 đạt 650 nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Năm 2009 đạt 697 nghìn tỷ đồng, năm 2010 ước đạt 794 nghìn tỷ đồng. Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao. 3 Sự vận dụng quy luật lượng đổi-chất đổi trong hội nhập WTO của ta. 3.1 Hội nhập WTO là một bước nhảy toàn bộ: Cùng với việc đổi mới nền kinh tế, quá trình hội nhập với thế giới luôn là vấn đề trọng tâm của nước ta trong những năm qua. Đổi mới kinh tế không thể trong ngày một ngày hai, không thể trong ngành này ngành nọ, mà là sự đổi mới lâu dài, sâu rộng trong toàn thể mọi ngành, mọi thành phần, mọi lĩnh vực của của nền kinh tế. Quá trình hội nhập cũng vậy, đó là quá trình diễn ra xuyên suốt, toàn diện trong nền kinh tế. Nắm được vấn đề trên Đảng ta đã có chỉ đạo: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”5. Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình xuyên suốt, sâu rộng, trong đó hội nhập WTO là một bước nhảy toàn diện. Điều này không những được Đảng chỉ đạo, mà được chính phủ và nhà nước ta vận dụng khéo léo trong thời gian qua. - Tuy Việt Nam mới trở thành thành viên WTO được gần 4 năm, nhưng tiến trình HNKTQT của nước ta đã trải qua gần 20 năm. Từ đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh thông thương với bên ngoài và tiếp nhận luồng vốn FDI. Việc trở thành thành viên ASEAN năm 1995 đánh dấu bước đi quan trọng đầu tiên trong HNKTQT. Từ năm 1996 nước ta bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do trong khối ASEAN (AFTA) với lịch trình cắt giảm thuế quan mà mốc cuối cùng của Hiệp định là năm 2006 khi toàn bộ các mặt hàng, trừ mặt hàng trong Danh mục nông sản nhạy cảm (SL) và Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL), phải đưa về mức thuế suất trong khoảng 0-5%. Nhằm tiến tới tự do hóa thương mại hoàn toàn trong ASEAN, nước ta sẽ xóa bỏ thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng vào năm 2015. Đồng thời, ASEAN cũng đã lựa chọn 12 lĩnh vực ưu tiên để tự do hóa sớm từ nay đến năm 2012. ASEAN cũng đã quyết định hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động (có kỹ năng) được dịch chuyển tự do. + Một mốc quan trọng nữa trong HNKTQT là việc Việt Nam ký kết (năm 2000) và thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 2001) với những nội dung và phạm vi cam kết sát với chuẩn mực WTO. Tiếp đó là Hiệp định Khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc được ký kết vào tháng 11/2002. Nội dung chính của Hiệp định là xây dựng một Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Lĩnh vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư cũng như các hợp tác khác về tài chính, ngân hàng, công nghiệp, vv.... + Nước ta cũng tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) được ký lại lần thứ ba vào tháng 8/2006 với cam kết lộ trình cắt giảm thuế quan bắt đầu từ năm 2007. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa, Việt Nam phải cắt giảm thuế theo lộ trình với đích cuối cùng là xóa bỏ thuế nhập khẩu của ít nhất 90% mặt hàng trong Danh mục thông thường vào ngày 1/1/2015, và ít nhất 95% mặt hàng trong Danh mục này vào ngày 1/1/2016. + Cuối năm 2006, nước ta chính thức trở thành thành viên WTO. Các cam kết WTO của Việt Nam nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và ngoài nước . Kể từ đây nền kinh tế Việt Nam có điều kiện thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà trước mắt là 149 nước thành viên WTO còn lại. (Khi gia nhập WTO, Việt Nam là thành viên thứ 150) + Tháng 12/2008, Khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản (AJFTA) được thiết lập và có hiệu lực ngay với một số cam kết. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc -NewZealand (ACERFTA) chính thức được ký kết vào đầu năm 2009. Nước ta cũng có trách nhiệm trong việc thúc đẩy đàm phán thương mại toàn cầu và xây dựng Cộng đồng kinh tế Đông Á, dù đây là những quá trình phức tạp và lâu dài. - Có thể thấy WTO không phải là điểm bắt đầu và kết thúc quá trình hội nhập và đổi mới của nước ta. Các hiệp định tự do thương mại khu vực và song phương có mức độ mở cửa cao hơn cam kết trong WTO. Những khác biệt trong cam kết giữa các hiệp định thương mại có thể tạo ra hiệu ứng thương mại và đầu tư khác nhau. Các hiệp định thương mại tự do song phương (như Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam và Nhật Bản cuối năm 2008) và khu vực ở Đông Á thường bao hàm cả những vấn đề đầu tư và hợp tác kinh tế sâu sắc giữa hai nền kinh tế. Còn những cam kết trong WTO mang tính chất toàn diện, rộng lớn với hầu hết phần còn lại của thương mại thế giới.. Chính vì vậy, tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam sâu sắc hơn là trong khuôn khổ của khu vực thương mại tự do thuần túy. Điều rõ ràng là tiến trình HNKTQT, tự do hóa thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới.Trong đó việc gia nhập WTO là một bước nhảy lớn để từ đây quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ bước sang một giai đoạn mới. - Hội nhập WTO là một bước nhảy toàn diện trong quá trình Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới: + Nước ta đã chính thức trở thành thành viên WTO, có thể nói rằng quá trình hội nhập này không những là sự cam kết mà còn là sự đổi mới toàn diện về mọi mặt của nền kinh tế nước nhà. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam đã cam kết gồm: mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan; chính sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO; giảm hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hóa; không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong nước ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm (trừ các ưu đãi xuất khẩu đối với ngành dệt may); tuân thủ Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM) của WTO từ thời điểm gia nhập; áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy định của WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các Hiệp định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa theo ngành; cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế. + Trước những yêu cầu mở cửa sâu rộng, toàn diện của quá trình hội nhập,đã có thể gây nên tình trạng mất ổn định của nền kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách khéo léo những đặc thù của bước nhảy toàn diện, để vừa đảm bảo tuân thủ đúng với quy trình hội nhập, vừa đảm bảo sự phát triển nhanh, ổn định và bền vững của nền kinh tế. Đó chính là việc vận động sâu rộng mọi tầng lớp nhân dân, mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực tham gia vào công cuộc hội nhập. Bên cạnh đó là sự linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình đàm phán gia nhập, đảm bảo tính tương quan, phối hợp toàn diện giữa các ngành, các lĩnh vực mà ta có lợi thế với các ngành mà ta còn yếu kém. 3.2 Hội nhập WTO với tinh thần tích cực, chủ động, không nóng vội: Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập WTO nói riêng của nước ta là quá trình tích lũy lâu dài về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, để đưa nước ta từ chỗ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Ở vai trò lãnh đạo của mình, Đảng ta đã chỉ đạo: “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.” 6 - Gia nhập WTO với tinh thần chủ động, tích cực: Nắm bắt được tính thiết yếu của việc gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, Đảng và nhà nước ta luôn chủ động, tích cực đàm phán gia nhập. Từ năm 1995 chúng ta đã nộp đơn xin gia nhập,và kể từ đó đến ngày gia nhập chúng ta đã trả lời hơn 2.000 câu hỏi liên quan đến chính sách thương mại, kinh tế, đầu tư; trên bất cứ phương diện nào Đảng và nhà nước ta luôn thể hiện tính nhất quán tham gia và tham gia tích cực vào thương mại thế giới, đặc biệt là WTO. Điều này thể hiện qua các chính sách mở cửa nền kinh tế, với việc không ngần ngại tư nhân hóa nền sản xuất, từng bước mở cửa hầu hết các ngành, để nhanh chóng được công nhận là nền một nước có nền kinh tế thị trường. Trong quá trình gia nhập, ta cũng đã tích cực đàm phán với bất kỳ thành viên nào khác của WTO, trên tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. - Quá trình gia nhập WTO của ta trải qua lộ trình phù hợp, không nóng vội, đơn giản. Quá trình gia nhập là quá trình mở cửa, trong khi nền kinh tế của nước ta có xuất phát điểm còn thấp, cho nên việc gia nhập phải được tính toán kỹ lưỡng, không nóng vội, tùy tiện. Nắm bắt vấn đề trên, Đảng ta đã chỉ đạo việc gia nhập WTO phải nhanh chóng trên cơ sở của lộ trình phù hợp. Và thực tế, trong quá trình gia nhập,chúng ta đã trải qua hơn 100 vòng đàm phán song phương với 28 quốc gia và nền kinh tế, cùng 15 phiên đàm phán đa phương chính thức và không chính thức. Với lộ trình phù hợp như trên, việc gia nhập WTO đã không làm xáo trộn mạnh đến các thành phần của nền kinh tế, mà đã giúp ta có những bước đệm ngày một vững chắc hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. PHẦN III. KẾT LUẬN. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật chỉ ra cách thức vận động và phát triển của mọi sự vật hiện tượng. Điều này cũng hoàn toàn đúng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hơn 25 năm qua. Trong tiến trình đó, việc gia nhập WTO là một bước nhảy quan trọng, để đưa nước ta bước vào thời kì hội nhập mới, thời kì hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.  Nhờ vận dụng thành công quy luật này, công cuộc hội nhập toàn cầu mà trước mắt là gia nhập WTO của ta đã thành công tốt đẹp. Như bộ trưởng Trưởng Đình Tuyển đã từng ví : ‘‘vào WTO chúng ta cưới vợ đúng thời điểm’’. Thiết nghĩ, quá trình hội nhập WTO, quá trình cam kết mở cửa của ta với thế giới vẫn còn ở phía trước, nhưng với những gì đã làm được trong thời gian qua, sẽ làm nền tảng tốt đẹp cho quá trình hội nhập nói riêng và quá trình phát triển nền kinh tế nói chung trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Triết học Mác Lê Nin, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2003 2. Giáo trình Triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học, Nxb Lý luận chính trị, năm 2006 3. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ Matxcơva, năm 1981 4. Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, năm 1971 5. Hỏi đáp về WTO, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002 6. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IIIX; IX; X 7. Tạp chí Triết Học số 1(176) năm 2006; số 3(178) năm 2006; số 11(210) năm 2008 8. Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 22/2007; số 27/2007; số 38/2009 9. Website Viện kinh tế và chính trị thế giới: 10. Website Đảng Cộng Sản Việt Nam : 11. Website Trung tâm WTO Việt Nam: 12. Website Tạp chí Cộng Sản : 13. Website Tổ chức thương mại thế giới WTO : Trích dẫn: (1) Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.360. (2) Trích văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. (3) Xem thêm : website : www.trungtamwto.vn , mục giới thiệu ngắn gọn về WTO. (4) Trích văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. (5) Trích nghị quyết số 07 Bộ Chính Trị ngày 27/11/2001. (6) Trích văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - chất đổi.doc
Luận văn liên quan