Huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Mỹ Hào - Thực trạng và giải pháp

NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng định hướng chiến lược kinh doanh toàn ngành, phù hợp với thực tế từng địa phương. NHNo&PTNT Việt Nam là pháp nhân duy nhất của hệ thống NHNo&PTNT, các đơn vị chỉ là các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, do đó tất yếu cần đến định hướng chiến lược kinh doanh toàn ngành. Tuy nhiên điều kiện các đơn vị khác nhau nhất là sự khác nhau về điều kiện môi trường giữa khu vực miền núi, hải đảo, nông thôn với thành thị hoặc đặc thù khu vực thường xuyên thiên tai lũ lụt do đó định hướng, chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam cũng nhất thiết phải lưu ý đến thực tế, điều kiện môi trường của các đơn vị thành viên.

docx88 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2323 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Mỹ Hào - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy động được, mức độ chênh lệch giữa huy động vốn và sử dụng vốn tăng mạnh trong năm 2012 khi chi nhánh gia tăng được lượng vốn huy động. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn mà ngân hàng đã duy trì là hợp lý, thể hiện ở việc hệ số sử dụng vốn cả ba năm đều gần đến một. Một mặt, ta thấy được thành công của chi nhánh trong việc sử dụng triệt để nguồn vốn huy động được, không để xảy ra tình trạng tồn đọng vốn nhiều. Mặt khác, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng vẫn luôn nằm trong giới hạn cho phép của Nhà nước. Xuất phát từ đặc điểm chi nhánh năm trong địa bàn có hai khu công nghiệp lớn là KCN Phố Nối A và KCN Thăng Long II tập trung rất nhiều doanh nghiệp, chính vì vậy mà nhu cầu vay vốn lớn. Việc duy trì hệ số sử dụng vốn lớn gần đến 1 trong ba năm liên tiếp đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, song vẫn đảm bảo khả năng thanh toán, tránh được những rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, nó lại đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn kỹ càng khách hàng cho vay để giảm thiểu rủi ro. Trong bối cảnh nền kinh tế nhiều biến động, tình hình sản xuất của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hiện nay thì công tác thẩm định cho vay của ngân hàng càng cần được chú trọng, đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Mối quan hệ hợp lý giữa huy động và cho vay của ngân hàng cần được duy trì trong tương lai. Ngoài việc cẩn trọng trong công tác thẩm định cho vay thì chi nhánh cần tăng cường các biện pháp huy động vốn, đa dạng hóa sản phẩm,…nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn trên địa bàn. Sự phù hợp giữa cơ cấu nguồn vốn huy động và cơ cấu sử dụng vốn Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy cơ cấu nguồn vốn huy động và cơ cấu sử dụng vốn của chi nhánh tương đối hợp lý. Cụ thể: theo kì hạn, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm khoảng 81% đến 83% tổng nguồn vốn huy động thì cho vay ngắn hạn cũng chiếm trong khoảng 79% đến 83% tổng dư nợ cho vay. Đồng thời cho vay trung và dài hạn chiếm khoảng 16% đến 20% dư nợ cho vay là hoàn toàn hợp lý với tỷ lệ 16% đến 19% vốn trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động. Xét theo loại tiền thì sự phù hợp giữa cơ cấu huy động và cơ cấu cho vay chi nhánh đạt được thể hiện ở tỷ lệ vốn huy động bằng VNĐ cũng như tỷ lệ cho vay bằng VNĐ đều chiếm phần lớn trong tổng thể, và đều sấp xỉ khoảng 90%. Duy trì được sự hợp lý giữa cơ cấu vốn huy động và cơ cấu cho vay sẽ giúp ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, giảm thiểu rùi ro. Đây có thể xem là thành công của chi nhánh và cần được tiếp tục duy trì. 2.3 Đánh giá thực trạng huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào 2.3.1 Thành tựu đạt được trong việc huy động vốn của ngân hàng trong những năm vừa qua Trong bối cảnh chung của hệ thống ngân hàng, những năm gần đây tình trạng thiếu vốn của NHTM nhất là tình trạng thiếu VNĐ vào dịp cuối năm. Song bằng nhiều biện pháp linh hoạt trong đó có phát hành kỳ phiếu, mở rộng mạng lưới huy động, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng trên mọi mặt nên Chi nhánh NHNO&PTNT Mỹ Hào vẫn đảm bảo duy trì được nguồn vốn ổn định, tăng trưởng cao, đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, vốn kinh doanh. Cụ thể nguồn vốn huy động đến 2012 là 1,188,526 triệu đồng tăng 32.51% so với năm 2011. Trong năm 2012 nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế của Tỉnh Hưng Yên nói riêng đã chuyển biến theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển ở tất cả các ngành, các khu vực, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng trưởng tốt hơn năm trước và hoạt động ngân hàng - tài chính cũng mang đậm màu sắc đó. Song bên cạnh đó môi trường kinh doanh của ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng thiếu tiền mặt đã buộc các ngân hàng trrên địa bàn đồng loạt nâng lãi suất lên ảnh hưởng tới chi phí và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhưng bằng sự nỗ lực của mình, ngân hàng đã xác định được những điều kiện thuận lợi khó khăn, nắm bắt tốt thời cơ nên đã có hướng đi đúng đắn theo định hướng của ngành. Cụ thể đã tự chủ được nguồn để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Ngân hàng đã tập trung nguồn vốn huy động được để đầu tư cho những chương trình dự án lớn. Đồng thời chi nhánh đó mở rộng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng. Nhờ vậy mà trong những năm qua mà nguồn vốn huy động đó không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu về vốn cho ngân hàng đặc biệt là vốn ngắn hạn có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cơ cấu vốn ngắn hạn có xu hướng dịch chuyển theo hướng có lợi cho ngân hàng chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Cùng với sự chỉ đạo nhất quán toàn diện của NHNO&PTNT Việt Nam, Chi nhánh NHNO&PTNT Mỹ Hào đã quán triệt việc thực hiện chiến lược phát triển của toàn hệ thống với nỗ lực quyết tâm cao nhất để hoàn thành kế hoạch. Công tác điều hành nguồn vốn theo nguyên tắc tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở kế hoạch giải ngân, kế hoạch huy động vốn, nhu cầu thanh toán. Ngân hàng định kỳ tính toán lãi suất bình quân đầu ra, đầu vào làm căn cứ để có đối sách kịp thời, chính xác để vừa đảm bảo tính cạnh tranh vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Ngoài ra bằng chính sách khách hàng của mình, ngân hàng đó tích cực, chủ động tìm kiếm, vận động khách hàng có tiềm năng tiền gửi, từ đó vừa thiết lập mở rộng vừa củng cố vững chắc mạng lưới khách hàng giao dịch thường xuyên. Ngân hàng Agribank đã và đang thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của khách hàng, tăng tính cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng liên tục đưa ra các sản phẩm mới khắc phục nhược điểm các sản phẩm cũ, phù hợp nhu cầu của khách hàng cũng như xu hướng chung của hệ thống ngân hàng. Cụ thể: một sản phẩm tiền gửi đang khá được ưa chuộng mà ngân hàng áp dụng là “ Tiết kiệm linh hoạt”, khác với sản phẩm tiết kiệm thông thường khác là khách hàng có thể rút một phần sổ tiết kiệm bất kì lúc nào, phần còn lại vẫn được tính lãi kỳ hạn bình thường. Một ưu điểm khác của sản phẩm này đó là khách hàng chỉ rút lãi định kỳ thì không cần làm lại sổ. Sản phẩm này rất phù hợp với những khách hàng có khoản nhàn rỗi ở hiện tại những chưa có kế hoạch cụ thể nhu cầu vốn trong tương lai, đặc biệt phù hợp với khách hành doanh nghiệp. Bên cạnh sản phẩm ăn khách này ngân hàng còn đưa ra nhiều hình thức thu hút khách hàng gửi tiền khác như chương trình tri ân khách hàng “Tiết kiệm dự thưởng”. Đặc biệt, hiện nay hệ thống ngân hàng Agribank nói chung và Agribank Mỹ Hào nói riêng đã áp dụng hình thức gửi tiết kiệm một nơi, có thể rút tại bất kỳ chi nhánh nào trong cùng hệ thống. Điều này đã tạo nên sự thuận tiện lớn cho khách hàng, nó cũng tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng Agribank trong tình hình huy động vốn gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Đồng thời, Agribank luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển màng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. Agribank là ngân hàng đầu tiên hoàn thành Dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Với hệ thống IPCAS đó được hoàn thiện, Agribank đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, với độ an toàn và chính xác cao đến mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Hiện nay NHNo&PTNT Mỹ Hào đó áp dụng rất tốt hệ thống IPCASII. Nó đáp ứng khối lượng giao dịch, khối lượng khách hàng, số lượng chi nhánh và người sử dụng lớn. Đáp ứng yêu cầu đa dạng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đảm bảo khả năng xử lý giao dịch thông suốt, tránh tắc nghẽn trong mọi tình huống, tận dụng tối đa nguồn lực hệ thống, tiết kiệm chi phí và tối ưu hiệu quả đầu tư (công nghệ và giá thành sản phẩm). 2.3.2 Những hạn chế cần khắc phục trong công tác huy động vốn của ngân hàng Trong cơ cấu vốn huy động thì vốn huy động đối với tiền gửi tiết kiện dân cư là một nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, nhất là tiền gửi có kỳ hạn. Đây là nguồn vốn có ổn định cao, điều đó giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc sử dụng vốn để phục vụ cho công tác huy động kinh doanh của ngân hàng. Trong cơ cấu kỳ hạn, tỷ trọng vốn dài hạn có xu hướng giảm dần qua các năm, điều này là ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng trong việc cho vay các dự án với thời hạn trung và dài hạn, cần phải có sự điều chỉnh về cơ cấu kỳ hạn nhằm giúp cho ngân hàng có thể mở rộng huy động vốn và cho vay đối với các dự án lớn có tính khả thi cao. Số lượng ngoại tệ chiếm tỷ trọng khá nhiều trong tổng nguồn vốn huy động, trong khi việc sử dụng ngoại tệ thu được để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu ngoại tệ còn hạn chế thì đây là một bất lợi cho Ngân hàng về việc sử dụng số tiền huy động này, thậm chí còn có thể chịu rủi ro tỷ giá. Ngân hàng chủ yếu chỉ có thể sử dụng số ngoại tệ thu được để gửi vào NHNN để hưởng chênh lệch lãi suất. Hoạt động của ngân hàng cũng hạn chế về thời gian. Do hoạt động trên địa bàn mà đại bộ phận là dân cư làm nông nghiệp nên thời gian làm việc của ngân hàng khác với thời gian làm việc của người dân. Do đó người dân muốn gửi tiền vào ngân hàng thì phải mất một thời gian cho công việc này, điều này gây không ít rắc rối đối với người gửi tiền. Ngân hàng nên nghiên cứu để đưa ra các hình thức nhận và trả tiền ngoài giờ (ngoài giờ hành chính, ngày lễ,ngày nghỉ) để có thể thu hút tiền gửi của công chúng bất kỳ lúc nào trong ngày. Đồng thời nghiên cứu và ứng dụng một số phương thức huy động mới như thu nhận tiền tại nhà, tại văn phòng của doanh nghiệp, bố trí làm việc theo ca để tăng thời gian giao dịch, phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên địa bàn để tận dụng triệt để các nguồn thu. Mạng lưới huy động tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa đủ so với khả năng có thể khai thác của Ngân hàng. Các quầy giao dịch phân bố dường như chỉ chú trọng cho công tác huy động vốn trong dân cư nơi tập trung các khu dân cư đông đúc mà chưa chú trọng đến những nơi tập trung những khách hàng lớn của Ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. 2.3.3 Những nhân tố tác động tới tình hình huy động vốn của chi nhánh Nhân tố chủ quan: Là chi nhánh cấp 1, thành lập chưa lâu cho nên niềm tin và uy tín của ngân hàng với khách hàng còn hạn chế, sự hiểu biết về Chi nhánh của khách hàng còn chưa cao. Cán bộ trẻ có trình độ và năng lực nhưng kinh nghiệm còn thiếu, chưa được cọ sát nhiều. Địa bàn nơi Chi nhánh đặt trụ sở tập chung nhiều đầu mối ngân hàng, nhiều chi nhánh ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân cho nên sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt. Mặt khác, môi trường kinh tế và môi trường pháp lý chưa thật sự ổn định và đồng bộ đã gây cản trở tới hoạt động huy động vốn. Nguy cơ lạm phát còn có khả năng đe dọa, làm cho người dân chưa thật sự tin tưởng vào môi trường đầu tư. Nền kinh tế chịu sự biến động của nền kinh tế thế giới, đồng tiền còn phụ thuộc nhiều vào đồng USD do vậy mà trong thời gian qua khi mà cục dự trữ liên bang Mỹ đã nhiều lần cắt giảm lãi suất đã làm cho lãi suất của nước ta bị ảnh hưởng gây cản trở cho công tác huy động vốn của hệ thống Ngân hàng nước ta. Ngoài ra trong thời gian qua sự tăng giá của đồng USD và giá vàng tăng mạnh đã gây tâm lý hoang mang cho người dân, do vậy mà có hiện tượng người dân rút tiền đồng để mua vàng hoặc mua đồng USD cất trữ làm cho đồng nội tệ đã thiếu nay càng thiếu hơn. Các công cụ huy động vốn chưa thực sự đa dạng, nguồn huy động chủ yếu thông qua hình thức nhận tiền gửi, uỷ thác đầu tư và phát hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên phương thức nhận tiền gửi còn đơn giản, nên cơ cấu vốn chưa hợp lý giữa kỳ hạn, loại đồng tiền gửi. Mặc dù đã áp dụng hình thức tiết kiệm có thưởng, và tiết kiệm linh hoạt nhưng kết quả thu được chưa thực sự cao, nguồn chủ yếu là nguồn ngắn hạn và nội tệ. Chi nhánh chưa quan tâm tới phát hành giấy tờ có giá bằng ngoại tệ. Công nghệ ngân hàng mặc dù được ứng dụng đầu tư, Chi nhánh đã triển khai lắp và cài đặt các phần mềm phục vụ cho việc thanh toán, chuyển tiền điện tử, thanh toán liên hàng, cùng một số phần mềm khác đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng như nhập lương vào tài khoản, thanh toán các loại phí, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đồng thời, tâm lý người dân nói chung là muốn gửi tiền vào Ngân hàng với kỳ hạn ngắn, loại có tính lỏng cao hơn. Khi cần có thể rút ra để chi tiêu mà vẫn thu được lãi suất mong muốn, do vậy mà tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng gây khó khăn cho việc tạo lập nguồn vốn để cho vay các dự án lớn. Ngoài ra do thói quen của người dân là thích chi tiêu tiền mặt, không muốn hoặc chưa hiểu biết hết công dụng của việc thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng cho nên số lượng tài khoản cá nhân còn ít, Ngân hàng cần khai thác nghiệp vụ này trong thời gian tới để khai thác một lượng vốn rất lớn trong nền kinh tế. Nhân tố khách quan Thứ nhất: Môi trường pháp lý chính sách. Hệ thống văn bản chính sách, về kinh tế nói chung và về ngành ngân hàng nói riêng còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, tự bản thân nó còn mâu thuẫn và chồng chéo. Điều này khiến các NHTM phải chịu rủi ro từ sự thiếu minh bạch của thông tin, hệ thống pháp lý, các quy chế tài chính, kế toán, hợp đồng lao động, hợp đồng tín dụng và các chế tài kinh tế khác. Trong những năm gần đây, trước những nỗ lực mới trên con đường gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, hệ thống pháp luật chính sách cũng có nhiều thay đổi đáng kế. Tuy nhiên, do điều kiện môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chưa thích hợp với chuẩn mực quốc tế, những bất ổn trong hệ thống tài chính quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến tiềm lực tài chính rất mỏng và dễ tổn thương trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Niềm tin của dân chúng vào sưu ổn định của đồng tiền còn chưa cao do đó nguồn huy động trung và dài hạn cũng bị hạn chế. Thứ hai: Tình hình kinh tế Viêt Nam và thế giới trong thời gian vừa qua. Khủng hoảng nợ công Châu Âu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam mức độ tăng trưởng thấp, tỷ lệ lạm phát ở mức cao. Giá cả đắt đỏ, đời sống của người dân khó khăn, doanh nghiệp vừa và nhỏ khó khăn trong sản xuất… Tình hình kinh tế không khả quan đó gây khó khăn cho chi nhánh trong việc huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, doanh nghiệp. Thứ hai : Đối thủ cạnh tranh. Trên địa bàn hoạt động của mình, Chi nhánh có các đối thủ cạnh thủ cạnh tranh thuộc đầy đủ các loại hình ngân hàng. Cùng với đó, áp lực cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng nước ngoài do họ có trình độ quản lý, công nghệ cao hơn, quy mô vốn lớn hơn dẫn đến việc thị phần huy động sẽ bị chia nhỏ. Thứ ba: Đối tượng khách hàng. Khách hàng là đối tượng quan trọng nhất trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Tuy thế, thu nhập của bộ phận dân cư còn rất thấp, bình quân đầu người thấp so với thế giới và khu vực. Thói quen dùng tiền mặt, tâm lý không quen sử dụng các tiện ích của ngân hàng, các hình thức đầu tư khác như bất động sản, xuất khẩu lao động, thành lập doanh nghiệp, mở cửa hàng… cũng hạn chế vốn huy động của ngân hàng. Đặc biệt, cơ hội đầu tư trên địa bàn Hà Nội là rất lớn, rất nhiều loại hình khác nhau ngoài việc gửi tiền ngân hàng hưởng lãi. Thứ tư: Sự phát triển của thị trường tài chính. Nền kinh tế đang chuyển hướng với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế, tác phong kinh doanh mới cũng đã xuất hiện, các tổ chức tài chính và quan hệ kinh doanh hiện đại đựơc đẩy mạnh. Thị trường tài chính với sự phát triển của các công ty chứng khoán, thị trường tiền tệ cũng từng bước chuyển mình với sự xuất hiện của nhiều hàng hoá mới. Tuy nhiên, các thị trường này còn hoạt động ở mức sơ khai, chưa đồng bộ, hoạt động kém sôi động làm cho kênh huy động qua giấy tờ có giá của ngân hàng còn hạn chế. Thứ năm: là một chi nhánh thuộc hệ thống NHNo&PTNT, Chi nhánh Mỹ Hào chịu sự tác động trực tiếp từ các quy định của NHNo&PTNT, và NHNo cũng lại chịu sự quản lý gián tiếp của NHTW do đó mức độ tự chủ của Chi nhánh cũng ở một giới hạn nhất định. Như vậy, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Chi nhánh, cả các yếu tố mang tầm vĩ mô đến những yếu tố từ bản thân ngân hàng, qua đó đem lại những thành công nhất định tuy vậy không khỏi tránh được nhiều vấn đề còn tồn tại. Sau đây em xin để ra một số giải pháp góp phần khắc phục những khó khăn đã nêu trên. Thị trường tài chính trong nước chưa thực sự phát triển, hiện nay tuy đã có thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường chứng khoán nhưng quy mô và hiệu quả của nó mang lại cho nền kinh tế chưa cao, nhất là thị trường chứng khoán chưa trở thành kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế. Với sự cạnh trạnh gay gắt giữa các NHTM, các TCTD, TCTC ngày càng quyết liệt, nên phần nào gây khó khăn tới hoạt động của Chi nhánh, khi mà tuổi đời của Chi nhánh còn non trẻ, nhất là trong việc cung cấp dịch vụ, công cụ phương thức thanh toán (thanh toán không dùng tiền mặt). Tóm lại Trong những năm qua chi nhánh Agribank Mỹ Hào đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện các nghiệp vụ nâng cao chất lượng dịch vụ và hiện đại hóa ngân hàng… Với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong chi nhánh, cùng với sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo, chi nhánh đã đạt được những thành tích trong công tác huy động vốn. Tuy nhiên chi nhánh còn nhiều hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn vốn huy động, tạo ra một cơ cấu nguồn vốn ổn định, tăng trưởng bền vững, chi nhánh phải nghiên cứu đề ra các biện pháp thiết thực, có tính khả thi hơn nữa để phát huy những thành công, hạn chế những tồn tại, tạo điều kiện cho sự phát triển an toàn, hiệu quả. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNO&PTNT MỸ HÀO 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHNO&PTNT MỸ HÀO 3.1.1 Định hướng trong công tác huy động vốn Trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thì nguồn vốn không những giữ vai trò quan trọng mà còn mang tính quyết định đến hoạt động kinh doanh, do đó việc quan tâm chăm lo công tác huy động vốn để khơi tăng nguồn vốn giữ vững sự tăng trưởng đều và ổn định là góp phần tích cực vào việc mở rộng đầu tư tín dụng nhằm đa phương hoá , đa dạng hoá kinh doanh phù hợp với định hướng phát triển của ngành. Năm 2008, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. Song năm 2011, hoạt động kinh doanh Ngân hàng phát triển hơn rất nhiều, các yếu tố thuận lợi trên địa bàn đó tạo điều kiện rất lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên thì mức độ cạnh tranh cũng ngày càng trở lên gay gắt hơn, nhưng hiệu quả kinh doanh vẫn có xu hướng tăng . Tiếp tục thực hiện định hướng kinh doanh đã lựa chọn, đảm bảo tăng trưởng gắn với phát triển, mở rộng quy mô gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Thực hiện cho vay có chọn lọc trong phạm vi khả năng kiểm soát, gắn công tác tổ chức cán bộ với đào tạo nâng cao trình độ và mở rộng mạng lưới. Đảm bảo ổn định việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống cho CBVC và người lao động trong Chi nhánh. 3.1.2 Định hướng trong công tác sử dụng vốn - Mở rộng các hoạt động tín dụng như kinh doanh bất động sản, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, thanh toán thẻ tín dụng... - Tập trung đầu tư vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, chú trọng đầu tư cho các Tổng công ty thực hiện các chương trình được chính phủ phê duyệt. Tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có đầy đủ hồ sơ pháp lý chuẩn mực, bảo đảm thu hồi vốn vay. - Tiến hành mở rộng đầu tư cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với điều kiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có đầy đủ hồ sơ pháp lý. 3.1.3 Một số chỉ tiêu cần đạt trong những năm tới Nguồn vốn tăng trưởng 35% - 40%. Dư nợ tăng trưởng 10% - 12%, đảm bảo tỷ trọng dư nợ đạt từ 30% - 35%/Tổng nguồn vốn huy động. Nợ quá hạn: Không. Thu dịch vụ: Bằng mức bình quân chung của các Chi nhánh trên địa bàn. Tài chính: Lợi nhuận (Quỹ thu nhập) tăng 20%, đảm bảo đủ chi lương cho người lao động và có một phần quỹ tiền thưởng trong lương. Ngoài các chỉ tiêu trên Chi nhánh cũng đặt ra một số định hướng trong công tác sử dụng vốn của Chi nhánh nói chung và thực hiện chính sách huy động vốn nói riêng, một số định hướng đó là: - Tiếp tục phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị, tổ chức cá nhân là khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ khách hàng mới nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ những khách hàng này. - Nắm bắt thị trường, để từ đó theo dõi sát sao những biến động có thể ảnh hưởng đến Chi nhánh, đặc biệt là sự thay đổi của lãi suất trong cơ chế lãi suất của NHNo& PTNT Việt Nam, vừa đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh huy động vốn vừa bảo đảm yêu cầu hạch toán kinh doanh. Nghiên cứu và theo dõi sự biến động của cung cầu vốn, để có sự điều chỉnh phù hợp chính sách huy động vốn, nhất là chính sách huy động vốn ngoại tệ trung dài hạn theo lãi suất thả nổi của thị trường (lấy lãi suất 12 tháng làm gốc hoặc trả lãi theo năm để lấy nguồn vốn đầu tư cho dài hạn), tài trợ và đồng tài trợ của Chi nhánh và NHNo&PTNT Việt Nam. - Tiếp tục mở rộng mạng lưới Chi nhánh, phòng giao dịch... mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. - Tiếp tục nâng cấp và trang bị thêm các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh toán liên ngân hàng sao cho đúng với vị thế là ngân hàng đầu mối thanh toán cho các ngân hàng khu vực phía bắc. 3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNO&PTNT MỸ HÀO Sau khi tìm hiểu thực tế công tác huy động vốn tại chi nhánh, căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ của chi nhánh, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn, tồn tại cũng như nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn, góp phần tăng nguồn vốn, giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 3.2.1 Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp. Biện pháp đầu tiên mà ngân hàng có thể làm là phải luôn luôn đánh giá một cách chi tiết, phân tích tỉ mỉ tình hình tỷ trọng, kết cấu nguồn vốn ..., tình hình thực tiễn của Việt Nam (môi trường kinh tế, pháp lý, môi trường xã hội, tâm lý, môi trường đối ngoại) để tìm ra những khó khăn vướng mắc xuất phát từ phía ngân hàng hay những người gửi tiền. Đồng thời, ngân hàng phải chủ động xây dựng cân đối nhu cầu vốn. Trên cơ sở đó, ngân hàng lập chiến lược dài hạn về huy động vốn để từ đó có những biện pháp huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn cho bản thân ngân hàng nói riêng, cho nền kinh tế nói chung và không để bị đọng vốn trong quá trình sử dụng vốn. Các định hướng, kế hoạch về công tác huy động vốn phải được xuất phát từ những yêu cầu sau: Công tác nguồn vốn của ngân hàng phải quán triệt quan điểm phát huy nội lực. * Coi khai thác triệt để các nguồn vốn dưới mọi hình thức, theo nhiều kênh khác nhau vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là yêu cầu mang tính giải pháp tình thế hiện nay. * Gắn chiến lược tạo nguồn với chiến lược sử dụng nguồn trong một thể đồng bộ, nhịp nhàng. * Luôn có biện pháp nâng tỷ trọng vốn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, đồng thời tăng khối lượng tiền gửi từ các tầng lớp dân cư để tạo lập một mặt bằng vốn luân chuyển vững chắc. 3.2.2. Phát triển và đa dạng hóa các dịch vụ Đa dạng hoá và phát triển các hình thức dịch vụ có liên quan đến hoạt động huy động vốn, đây là điều rất quan trọng bởi, kinh tế xã hội càng phát triển, sự cạnh tranh bình đẳng ngày càng được nâng cao, thì việc thu hút nguồn vốn huy động phụ thuộc rất nhiều vào việc cung cấp các dịch vụ đa dạng nhất là các dịch vụ liên qua tới tiền gửi của khách hàng. Mặc dù trong thời gian gần đây Chi nhánh đã rất quan tâm tới điều này nhưng nhìn chung mức độ còn hạn chế (vì Chi nhánh còn phụ thuộc trực tiếp và NHNo&PTNT Việt Nam), Chính vì vậy trong thời gian tới, Chi nhánh cần phải thực hiện tốt hơn nữa, các dịch vụ liên quan tới việc huy động vốn, như mở rộng loại hình dịch vụ liên quan tới tài khoản tiền gửi của khách hàng như: lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế thị trường để vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng vừa đáp ứng được mục tiêu cạnh tranh, thực hiện giúp khách hàng các hoạt động thanh toán hộ, chi trả hộ các loại phí dịch vụ (Phí bảo hiểm, điện thoại, phí sử dụng nước) của khách hàng, tăng cường và mở rộng loại hình ngân hàng tại nhà. Chú trọng công tác dịch vụ khách hàng, giúp khách hàng tìm hiểu những thông tin liên quan và quan trọng hơn là làm cho khách hàng hiểu về ngân hàng từ đó có quan hệ tốt. 3.2.2 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn a. Đa dạng hóa tiền gửi tiết kiệm Tốc độ tăng trưởng của tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Sở dĩ như vậy vì người Việt Nam có thói quen tiết kiệm để dự phòng lúc ốm đau, bệnh tật hay mua sắm. Mục đích của họ là để kiếm lời, tích lũy. Nắm bắt được điều này, chi nhánh đã đưa ra nhiều kỳ hạn gửi với các mức lãi suất khác nhau nhằm thu hút nguồn vốn này. Tuy nhiên, chi nhánh cần có những giải pháp thích hợp hơn để thu hút được nguồn vốn dồi dào này. Thứ nhất, Đa dạng hoá các hình thức gửi tiền tiết kiệm trong dân cư bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, trái phiếu, kỳ phiếu. Áp dụng hình thức gửi nhiều lần lấy gọn một lần, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm tích luỹ, hay tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm nhà ở... Với những hình thức này, Ngân hàng có thể tăng cường được nguồn vốn huy động, đặc biệt là vốn trung dài hạn. Thứ hai, Quầy gửi tiền tiết kiệm của dân chúng phải phân bổ ở nhiều nơi, đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Thứ ba, chi nhánh cần cải tiến thời gian làm việc để thuận tiện cho người gửi, rút tiền. Nên chăng các quầy giao dịch bố trí người làm việc sớm hơn và nghỉ muộn hơn (thậm chí giao dịch cả tối và ngày nghỉ). Đây là một vấn đề rất quan trọng vì có những người chỉ có ngoài giờ làm việc hoặc ngày nghỉ mới có thời gian để đến Ngân hàng gửi tiền cũng như rút tiền. Thứ tư, Cải cách lề lối làm việc, thủ tục trong việc huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Tránh sử dụng nhiều chứng từ, thủ tục rườm rà, tốn công sức, tiền của của Ngân hàng mà khách hàng lại không hài lòng. Ngoài ra, cần có giải pháp tự động chuyển hoá tiền gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn cho dân. Ví dụ: những người đã gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn ở ngân hàng từ 2 tháng trở lên có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi về tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. b. Đa dạng hóa tài khoản tiền gửi cá nhân Hình thức này giúp ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất thấp. Đồng thời, phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hoá quá trình thanh toán qua ngân hàng, giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông. Việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân là nhu cầu cấp thiết xét về góc độ đáp ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ ngân hàng cho mọi tầng lớp dân cư và xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt của một nền kinh tế phát triển. Để tăng số lượng tài khoản này lên, đồng nghĩa với việc tăng doanh số thanh toán qua tài khoản, góp phần thúc đẩy quá trình thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội thì chi nhánh cần chú ý hơn nữa đến hình thức. Bởi vì nước ta vẫn còn nghèo, thu nhập bình quân thấp, tâm lý của người dân Việt Nam vẫn quen sử dụng tiền mặt. Vì vậy khái niệm mở tài khoản cá nhân và thanh toán qua ngân hàng với nhiều người vẫn còn rất mới mẻ. Hơn nữa, lãi suất huy động đối với loại tài khoản này là rất thấp (lãi suất không kỳ hạn) ngược hẳn với tâm lý của người gửi tiền vào ngân hàng luôn mong hưởng lãi suất cao. c. Phát triển và mở rộng hình thức huy động vốn qua tài khoản của các doanh nghiệp Hiện nay, số lượng doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Mỹ Hào là rất lớn, quan hệ thương mại phức tạp. Nhiều doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp tư nhân) không mở tài khoản thanh toán ở Ngân hàng hoặc thanh toán với nhau bằng tiền mặt không qua ngân hàng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán của hệ thống NHTM nói chung và chi nhánh nói riêng, qua đó hạn chế hiệu quả huy động vốn - cho vay của Sở. Vì vậy, trong thời gian tới, chi nhánh cần có những giải pháp đúng đắn để thu hút nguồn vốn này như: D,. Mở rộng các loại tiền gửi khác Ngân hàng cần quan tâm đến việc mở rộng thêm các loại tiền gửi khác để đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của dân chúng. SGD I có thể áp dụng những hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích, cụ thể: *Hình thức tiết kiệm hưu trí: Dành cho những người có thu nhập hiện tại để dành một phần tiêu dùng cho tương lai khi về già bằng cách hàng tháng gửi tiền vào tài khoản này. *Hình thức tiết kiệm nhà ở: Hình thức này tạo cho người gửi tiền được quyền vay ở ngân hàng một khoản lớn với lãi suất hợp lý để đầu tư cho chỗ ở của chính mình. *Hình thức tiết kiệm gửi góp: hình thức này giúp người gửi tích lũy những khoản tiền nhỏ, góp lại, người gửi có thể gửi thêm vào sổ tiết kiệm bất cú khi nào có khoản tiền nhàn rỗi mà không cần tất toán đổi sổ hay mở sổ mới. 3.2.3. Đơn giản hoá các thủ tục nhận tiền gửi cho tới các thủ tục cho vay. Hiện nay, nếu một người gửi tiền thông thường phải mất 15 - 30 phút cho một lần gửi hoặc rút. Đối với xin vay, thủ tục còn kéo dài nhiều ngày. Các thủ tục này ngân hàng làm theo quy định, nhưng ngân hàng cần nghiên cứu biện pháp rút ngắn thời gian. Chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm; máy của kế toán được nối với máy của kế toán trưởng và thủ quỹ, qua đó có thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng. 3.2.4. Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt: Lãi suất là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thu hút vốn tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thấy rõ được điều đó, chi nhánh rất chú trọng đến việc thay đổi lãi suất trong từng thời kỳ sao cho phù hợp với lãi suất thị trường nhằm thu hút nguồn tiền gửi của mọi thành phần trong nền kinh tế. chi nhánh cần xác định được rằng biện pháp tăng lãi suất để thu hút được nguồn vốn huy động có tác động rất mạnh và nhanh. Tuy nhiên, đây là biện pháp có giới hạn, bởi việc tăng lãi suất huy động đồng nghĩa với tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh. Đồng thời có liên quan trực tiếp đến lãi suất cho vay và tác động đến toàn bộ hoạt động tín dụng của Sở.Vì thế, mức lãi suất đưa ra là tuỳ theo mức độ cần thiết của nguồn vốn, tuỳ theo từng thời điểm, từng khu vực, phù hợp với khung lãi suất do NHNN quy định và có lợi cho người gửi, người vay và cả Ngân hàng. Đặc biệt, với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường như hiện nay càng đòi hỏi sự năng động, linh hoạt của chi nhánh trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn để cho vay 3.2.5. Gắn liền việc tăng cường huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả Trong hoạt động Ngân hàng, giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có quan hệ thường xuyên, tác động hỗ trợ lẫn nhau, chi phối lẫn nhau. Nguồn vốn là cơ sở, là tiền đề để Ngân hàng thực hiện công tác sử dụng vốn. Nhưng chỉ khi Ngân hàng tiến hành cho vay quay vòng vốn thì nguồn vốn mới sinh lời. Do đó, sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để Ngân hàng xác định nguồn vốn cần huy động. Nước ta đang trong giai đoạn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên việc đầu tư tín dụng có chiều hướng tăng trưởng mạnh. Nhưng việc mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn vốn và tăng trưởng. chi nhánh cần đưa ra các giải pháp thích hợp cho việc huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả: * Thường xuyên bám sát chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của thành phố, bám sát mục tiêu, biện pháp của ngành. Nắm chắc thị trường, cả thị trường hiện tại và thị trường dự báo để xây dựng chiến lược tổng thể về bề rộng của thị trường. * Thực hiện phương châm cho vay an toàn - hiệu quả. Kế toán cho vay phải tuân thủ nghiêm ngặt các tỷ lệ giới hạn an toàn vốn trong kinh doanh được qui định trong Luật NHNN và Luật Các TCTD bao gồm: - Tỷ lệ đảm bảo an toàn về khả năng chi trả gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh toán theo qui định của NHNN. - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. - Tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay trên vốn huy động. - Tỷ lệ cho vay tối đa trên vốn tự có. - Tỷ lệ chuyển hoá vốn - Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ... * Chi nhánh cần làm tốt vai trò trung gian tài chính, một mặt tăng cường tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, mặt khác cần nâng cao chất lượng tín dụng, tăng thị phần vào các Tổng công ty đã có tín nhiệm trong thị trường vay vốn với Sở, chú trọng cho vay tiêu dùng trong cán bộ công nhân viên... Việc cho vay phải đảm bảo cân đối giữa tiền gửi và tiền vay. Tính toán lợi ích nhiều mặt nhưng cho vay phải bù đắp chi phí, trích lập quĩ rủi ro và có lợi nhuận. Cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra, phân tích chất lượng những khoản cho vay, kịp thời xử lý những phát sinh ảnh hưởng không tốt đến kết quả kinh doanh - Chi nhánh cần cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo sự tương ứng về thời hạn và lãi suất cho nguồn vốn nào thì cho vay loại hình đó. Tuy nhiên, trong điều kiện có chênh lệch giữa nguồn vốn huy động và cho vay, ngân hàng có thể cân đối vốn cho vay bằng cách: nếu có nguồn vốn ngắn hạn có tính ổn định cao hoặc nguồn vốn thường xuyên luân chuyển ngân hàng có thể sử dụng để cho vay trung dài hạn. Việc sử dụng 3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng và chiến lược quảng cáo hiệu quả Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần hiểu rõ lợi ích của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, vào lợi ích của người gửi tiền. Vì vậy, ngân hàng phải có chính sách khách hàng đúng đắn. Đó là thu hút nhiều khách hàng, duy trì, mở rộng khách hàng truyền thống, đảm bảo lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng, chiến lược kinh doanh của ngân hàng cũng phải nhằm giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những khó khăn yếu kém, tạo mối quan hệ lâu dài. Ngân hàng chia khách hàng ra làm nhiều loại để có cách đối xử cho phù hợp. Những khách hàng lâu năm, có số dự tiền gửi lớn, được ngân hàng tín nhiệm, thì ngân hàng sẽ có chính sách ưu tiên về lãi suất, kỳ hạn món vay cũng như việc xét thưởng. Để thu hút khách hàng đến với ngân hàng ngày một nhiều thì ngân hàng phải đặt ra chiến lược khách hàng. Vì lợi ích của khách hàng, ngân hàng cần có phòng marketing riêng chuyên thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu của khách hàng, phân loại thị trường, phân loại khách hàng để từ đó có cách xử lý cho phù hợp. Thêm vào đó, hoạt động khuyếch trương, quảng cáo đối với ngân hàng là không bao giờ thừa bởi hiện nay rất nhiều người dân chi mới quen với việc đến ngân hàng chỉ gửi tiền để lấy lãi. Họ chưa quen với các dịch vụ của ngân hàng, khái niệm sản phẩm ngân hàng đối với họ còn rất trừu tượng. Do vậy, chi nhánh cần có những hình thức tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu để đưa thông tin đến với khách hàng để họ biết tới hoạt động của ngân hàng. Đồng thời họ thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng, về lãi suất, về các chính sách ưu đãi của các hình thức huy động vốn của ngân hàng. Việc nắm bắt được thông tin của khách hàng, nắm bắt được thông tin của thị trường sẽ giúp cho ngân hàng tận dụng được hấu hết các cơ hội. Từ đó có những định hướng, chính sách huy động phù hợp hơn, đa dạng hơn. 3.2.1.7 Mở rộng mạng lưới giao dịch Tiếp tục mở rộng mạng lưới giao dịch theo yêu cầu hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, tại những địa bàn có tiềm năng, đồng thời có chính sách chương trình hoạt động cụ thể của các đơn vị mạng lưới sao cho thích hợp với từng điều kiện kinh tế xã hội của vùng như thay đổi hình thức huy động, chú trọng vào các khoản tiền nhỏ lẻ trong dân cư, từ đó có thể thu hút tối đa lượng vốn nhàn rỗi từ trong nền kinh tế. Mặt khác Chi nhánh cũng cần quan tâm tới công tác trang bị các trang thiết bị cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu phục vụ khách hàng tốt nhất, thuận tiện nhất cho khách hàng. 3.2.8 Đào tạo, nâng cao năng lực nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên Tổ chức các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho CBVC, nhất là những cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế cần có sự bổ xung nâng cao nghiệp vụ, nhất là trình độ ngoại ngữ giúp cho hoạt động huy động vốn ngoại tệ một cách hiệu quả và cơ cấu hợp lý. Bố trí đúng người, đúng việc, theo khả năng của từng người, và quan trọng hơn là phải quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần để tạo cho họ sự tin tưởng gắn bó và chuyên tâm công tác. Tăng cường công tác giám sát, điều hành từ trên xuống, bảo đảm duy trì hoạt động có hiện quả chính xác, giảm thiểu sai sót. 3.3 KHUYẾN NGHỊ 3.3.1 Đối với Chính Phủ và Nhà Nước Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Do vậy, nhà nước phải đưa ra các định hướng, chiến lược phát triển kinh tế trong thời gian dài, tạo môi trường kinh tế ổn định, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thiểu phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, tranh thủ các nguồn tài chính của các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. Từ đó mở rộng quan hệ tín dụng trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM. Từng bước hoàn thiện củng cố môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng đồng bộ các luật, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người đầu tư, cho các doanh nghiệp và ngân hàng, hướng dẫn các tầng lớp dân cư tiêu dùng tiết kiệm, khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước, thực hiện sử phạt nghiêm minh các trường hợp tham ô, làm thất thoát đến tài sản của nhà nước, của nhân dân . Nhà nước quan tâm đến lợi ích của các ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng thương mại huy động các nguồn vốn trung và dài hạn vì đây là nguồn vốn rất quan trọng, tạo cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện giảm thuế lợi tức cho các ngân hàng thương mại. Xây dựng hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng đủ mạnh về nguồn vốn, vững về bộ máy tổ chức, hiện đại về công nghệ, mạng lưới hoạt động rộng khắp, tuyên truyền đến các thành phần kinh tế về bộ luật ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, từng bước thực hiện cải tiến và mở rộng các hình thức thanh toán, tuyên truyền vận động các tầng lớp dân cư thực hiện thanh toán chi trả hàng hoá dịch vụ qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, để nhân dân tin cậy và thành tập quán sử dụng các công cụ thanh toán qua ngân hàng, thường xuyên quan tâm, nâng cao hiệu quả của từng dịch vụ ngân hàng, củng cố sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái, nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tín dụng, tạo lập và củng cố uy tín của hệ thống ngân hàng. Hoàn thiện thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán, thiết lập củng cố và mở rộng quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, đòi hỏi các ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới hoạt động, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động, đưa ra các công cụ và phương tiện thanh toán thuận tiện phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường liên ngân hàng, đảm bảo điều hoà kịp thời giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn. Mở rộng quan hệ đối ngoại với các tổ chức tài chính nước ngoài, tranh thủ sự giúp đỡ và tài trợ các nguồn vốn với lãi suất thấp, mở rộng quan hệ tín dụng, đa dạng hoá các hoạt động về ngoại tệ, tham gia hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều hành tỷ giá đồng Việt nam một cách lonh hoạt phù hợp với tình hình hoạt động thị trường Ngân hàng nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, tăng cường các hoạt động thanh tra, chấn chỉnh xử lý kịp thời những hành vi, biểu hiện sai trái làm thất thoát vốn của nhà nước, của nhân dân, đưa hoạt động của các ngân hàng thương mại đi vào nề nếp, có hiệu quả, phục vụ tốt cho chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và không ngừng nâng cao uy tín của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, đề cao trách nhiệm của các NHTM trong việc quyết định cho vay, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước và thiết lập đồng bộ các cỏ chế phòng ngừa rủi ro, bảo đảm sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng . Lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng không chỉ là mục tiêu phấn đấu của bản thân ngành ngân hàng, mà còn bao quát cả một trận địa khá rộng và phức tạp, cần phối hợp đồng bộ của mọi ngành chức năng của nhà nước, từ lập pháp đến hành pháp và tư pháp trong việc vận hành chính sách tiền tệ quốc gia đúng như qui định trong luật NHTW và luật các TCTD. Hoàn thiện hệ thống thanh toán và cơ chế tín dụng để hội nhập và phát triển, đẩy nhanh tiến độ cải tổ và đổi mới mọi mặt, ngành ngân hàng Việt nam cần tập trung chỉnh sửa những hạn chế vốn làm suy yếu hệ thống nhằm đuổi kịp hệ thống ngân hàng các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới, đồng thời khai thác triệt để mọi tinh hoa về kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng thế giới với bề dầy lịch sử lâu đời của nghành công nghiệp đặc biệt này. Hệ thống ngân hàng Việt nam phải thực hiện tăng chất lượng và qui mô công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Khả năng này ở các ngân hàng Việt nam hiện nay mặc dù đã được cải tiến rất nhiều đặc biệt là việc đưa công nghệ tin học trong lĩnh vực thanh toán trong những năm gần đây, nhưng khả năng này ở các ngân hàng Việt nam phải nói là quá yếu chất lượng thấp và lạc hậu của hệ thống thanh toán khiến cho tâm lý ưa thích sử dụng và lưu giữ tiền của công chúng và doanh nghiệp không những không hề giảm đi mà càng có dấu hiệu tăng lên . Hệ thống tài khoản cứng nhắc, thiếu các tài khoản lưỡng tính (tài khoản vãng lai) khiến cho các NHTM gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng các kỹ thuật thanh toán linh hoạt và hiện đại, phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng . Muốn tăng nhanh số lượng tiền gửi thanh toán, tăng tỷ trọng thanh toán qua ngân hàng, các Ngân hàng thương mại nên cung ứng nhiều hơn nữa các dịch vụ trọn gói hoàn hảo, hiện đại hoá triệt để công tác thanh toán theo tốc độ phát triển hiện nay của công nghệ thông tin, hệ thống tài khoản kế toán phải được cải tiến để tác NHTM có thể ứng dụng rộng rãi kỹ thuật thấu chi. Nhà nước cũng nên có chế tài bắt buộc các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện chi trả thu nhập cho nhân viên thông qua tài khoản tại ngân hàng. Nếu làm được điều này, chắc chắn ngân sách nhà nước sẽ có thêm một nguồn thu không nhỏ là thuế thu nhập cá nhân lâu nay vốn rất khó tận dụng do nạn chi trả bằng tiền mặt không tài nào kiểm soát nổi. Nâng cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trường mở tới chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt của ngân hàng trung ương trên thị trường mở thông qua việc mua bán các chứng khoán tiếp đến các mức lãi suất.của các NHTM và gián tiếp đến các mức lãi suất. Nghiệp vụ thị trường mở thực chất là hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường mở để tác động tới lượng tiền tệ cung ứng trong từng thời kỳ . Một trong các điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân, và thực ra họ vẫn chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh . Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định, nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn . Các NHTMCP, ngân hàng liên doanh, quĩ tín dụng ít có được ưu thế này . Điều này không kích cầu tín dụng, tạo ra sự phân biệt đáng kể trên thị trường. Như thế để cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia NVTTM một cách thực sự thì NHTW phải tạo cho họ sự bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Tạo hàng hoá cho NVTTM, tạo phương thức giao dịch phù hợp, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các TCTD về nghiệp vụ này. + Về lãi suất : Không nên để các NHTM tự do hạ lãi suất cho vay theo kiểu phá giá như hiện nay. NHTW nên chỉ đạo các chi nhánh tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức hội nghị giữa các NHTM trên địa bàn nhằm thoả thuận một cam kết về mức lãi suất phù hợp khi cho vay đối với từng khu vực. + Kiềm chế đẩy lùi hiện tượng đô la hoá Trước hết, phải giữ vững ổn định giá trị VND ở mức lạm phát thấp với thời gian dài, gây lòng tin của dân chúng và của các doanh nghiệp vào tiền VND. Áp dụng cơ chế lãi suất tiền gửi VND cao hơn lãi suất tiền gửi USD để hướng mọi người tích luỹ và gửi vào NHTM bằng VND. + Nâng cao vai trò thanh tra giám sát Kiện toàn lại hệ thống thanh tra của NHTW có cơ chế và chỉ đạo theo chiều dọc thống nhất. Lập tiêu chí thanh tra giám sát đúng với vai trò của NHTW, với mục tiêu giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng. 3.3.2 Đối với NHNo&PTNT Việt Nam Là cơ quan quản lý, điều hành toàn bộ hệ thống NHNo&PTNT, NHNo&PTNT Việt Nam có trách nhiệm trong việc hoạch định chính sách, xây dựng quy chế và kế hoạch phát triển của toàn hệ thống, làm cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh trong đó có kế hoạch phát triển nguồn vốn của các chi nhánh trong hệ thống. Để cho các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào thực hiện được cần thiết phải có sự hỗ trợ, tác động, giúp đỡ của NHNo&PTNT Việt Nam. - Hỗ trợ công tác đào tạo và đào tạo lại kể cả trong nước và ngoài nước, đặc biệt là các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng hiện đại, kịp thời có các văn bản làm căn cứ pháp lý và cơ sở nghiệp vụ để mở rộng các sản phẩm, dịch vụ như dịch vụ thẻ thanh toán điện tử… - Bổ sung lao động đảm bảo đủ biên chế để hoàn thành công việc, hạn chế tình trạng làm việc quá tải, tạo điều kiện về thời gian cho cán bộ nhân viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn. - Tăng cường cơ sở vật chất, đảm bảo đủ mặt bằng giao dịch, tăng cường theo hướng hiện đại hoá các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó NHNo&PTNT Việt Nam cần phải thể hiện vai trò quản lý, chỉ đạo toàn bộ hệ thống qua các việc làm sau : - Thường xuyên tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa các chi nhánh, thu thập ý kiến đóng góp và những kiến nghị từ cơ sở góp phần đề ra các văn bản phù hợp với thực tế như hiện nay, nhất là các quy trình nghiệp vụ thực hiện trong thực tế nếu không được xây dựng sát thực và phù hợp sẽ làm cho các chi nhánh hoạt động hết sức khó khăn vì thực tế không đáp ứng được các yêu cầu đề ra của các quy định, trong khi các chi nhánh cũng không dám vận dụng hoặc vi phạm các quy định đó. - NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng định hướng chiến lược kinh doanh toàn ngành, phù hợp với thực tế từng địa phương. NHNo&PTNT Việt Nam là pháp nhân duy nhất của hệ thống NHNo&PTNT, các đơn vị chỉ là các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, do đó tất yếu cần đến định hướng chiến lược kinh doanh toàn ngành. Tuy nhiên điều kiện các đơn vị khác nhau nhất là sự khác nhau về điều kiện môi trường giữa khu vực miền núi, hải đảo, nông thôn với thành thị hoặc đặc thù khu vực thường xuyên thiên tai lũ lụt… do đó định hướng, chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam cũng nhất thiết phải lưu ý đến thực tế, điều kiện môi trường của các đơn vị thành viên. - Tăng cường đầu tư trang thiết bị, nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin để từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng từng chi nhánh không thể tự thực hiện được vì không có nguồn vốn, mặt khác nếu có sẽ không đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và sẽ không vận hành được. Do đó NHNo&PTNT Việt Nam cần phải chỉ đạo trong việc nghiên cứu, đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng - Hoàn thiện cơ chế khoán tài chính đối với các đơn vị chi nhánh thành viên, đây là động lực quan trong thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các chi nhánh phát triển. Các chi nhánh hiện nay đang thực hiện trên cơ chế khoán tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam, theo đó NHNo&PTNT Việt Nam sẽ điều tiết và quản lý thu nhập, chi phí đặc biệt toàn bộ nguồn vốn tài sản cố định hoàn toàn do NHNo&PTNT Việt Nam cấp phát. Cơ chế khoán tài chính cho các đơn vị thành viên là vấn đề hết sức nhạy cảm, đảm bảo phân phối công bằng mới có thể thúc đẩy sự phát triển của các chi nhánh. KẾT LUẬN Bước vào cơ chế thị trường đã hơn một thập kỷ, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những thành công đáng kể: giảm được chỉ tiêu siêu lạm phát xuống một tỷ lệ ổn định trong nhiều năm, ổn định nền kinh tế và đóng góp vào sự tăng trưởng của xã hội. Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào đã thật sự hoà nhập vào môi trường kinh doanh mới, đầy sức cạnh tranh và hấp dẫn trong nền kinh tế đang có nhiều thay đổi. Hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động có tầm quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại nói chung và của chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào nói riêng. Đồng thời, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn của hệ thống ngân hàng. Mặc dù vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định trong công tác huy động vốn, song chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào sẽ gặt hái được những thành công mới trong công tác huy động vốn trong một tương lai gần. Để đạt được kết quả như mong muốn, đòi hỏi chi nhánh phải có các biện pháp kết hợp đồng bộ: với sự cố gắng của bản thân ngân hàng là chính, trong đó có sự hỗ trợ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng như các cơ quan hữu quan khác. Chuyên đề trên đây đã đạt được những kết quả sau: - Bằng lý luận đã làm rõ hình thức huy động vốn của NHTM, các tiêu thức đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các NHTM. - Phân tích thực trạng để thấy được kết quả, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. - Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào. Với chuyên đề này em mong muốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn của các NHTM nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào nói riêng. Đây là một vấn đề lớn, khá rộng mà khả năng nhận thức, lý luận của em còn hạn chế vì vậy không tránh khỏi những hạn chế, sai sót cần hoàn thiện, bổ sung. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy, cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào, đặc biệt là cô giáo Lã Thị Lâm đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx1_4138.docx
Luận văn liên quan