Khái niệm đặc điểm vai trò kinh tế tri thức và quan điểm của đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và giáo dục đào tạo của Việt Nam

Khái niệm đặc điểm vai trò kinh tế tri thức và quan điểm của đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và giáo dục đào tạo của việt nam 1 /QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC a. Sự hình thành kinh tế tri thức: - Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu . nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức họat động. - Kinh tế tri thức: Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có định nghĩa của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra năm 1995: “Nền kinh tế tri thức là nên kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. + Định nghĩa trên được hiểu là: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội + Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ + Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo ( khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành nào đó. Một nền kinh tế được coi đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 20178 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái niệm đặc điểm vai trò kinh tế tri thức và quan điểm của đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và giáo dục đào tạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây, và khu kinh tế Nhơn Hội. So với hai vùng kinh tế trọng điểm còn lại, vùng kinh tế này yếu kém hơn về mặt hạ tầng và nhân lực nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển lớn và phát triển du lịch nghỉ dưỡng (chiếm phần lớn các dự án khu nghỉ mát biển của cả nước) và di sản thế giới (khu vực Trung Bộ chiếm 6/7 di sản thế giới tại Việt Nam). Khu vực này cũng có tiềm năng về phát triển công nghiệp đóng tàu và dịch vụ hàng hải. Hạ tầng gồm có: sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay trung chuyển hàng hóa Chu Lai (tương lai); cảng Đà Nẵng và đặc biệt là dự án cảng trung chuyển Vân Phong có tổng vốn lên đến 15 tỷ USD do Tập đoàn Sumimoto chủ trì đầu tư; Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh. Đà Nẵng là điểm cuối trong Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Đông Bắc Thái Lan, Trung Lào và Trung Trung Bộ Việt Nam. - Phát triển kinh tế biển theo một chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Với vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng, điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú và đa dạng, tiềm năng phát triển kinh tế biển để làm giàu, đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển là rất lớn. Tuy nhiên, để chuyển từ tiềm năng thành hiện thực, phát triển kinh tế biển bền vững, cân bằng sinh thái, giữ biển trong lành và an toàn cho nhiều thế hệ mai sau là bài toán lớn cần có lời giải đồng hành với việc tổ chức thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Để phát triển kinh tế biển bền vững trên cơ sở thực hiện thắng lợi các Chỉ thị, Nghị quyết của ban Bí thư, của Thủ tướng chính phủ mà trong đó có “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; về một số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, đồng thời để thu hút mạnh đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào đầu tư phát triển kinh tế biển, rất cần có một chiến lược toàn diện về tài nguyên và môi trường biển. + Cần đẩy mạnh công tác điều tra, khảo sát, nghiên cứu, củng cố thông tin về tài nguyên và môi trường biển để hiểu hơn về tài nguyên trên biển cũng như dưới đáy biển, tiềm năng băng cháy, khả năng ứng dụng năng lượng thủy triều…để bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển; bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng; phát triển các ngành kinh tế biển bền vững; kiểm soát các nguồn ô nhiễm từ đất liền; phòng ngừa ô nhiễm từ các hoạt động trên biển và ô nhiễm xuyên biên giới; phòng chống thiên tai, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ là các nội dung quan trọng của chiến lược biển. Bên cạnh đó, biển và vùng ven biển là nơi diễn ra nhiều hoạt động đan xen với sự tham gia của nhiều bên liên quan. Chúng ta đã có nhiều chương trình, dự án, đề tài điều tra, nghiên cứu, tìm hiểu về biển nhưng hiểu biết của chúng ta về biển Đông còn hạn chế; thiếu phương tiện, thiết bị, cán bộ có chuyên môn sâu và nguồn lực tài chính hạn hẹp nên thông tin, số liệu thu được còn sơ lược, độ tin cậy thấp. Đây là thách thức lớn nhất và cũng là những rào cản khó khăn nhất trên con đường tiến ra biển, làm giàu từ biển. + Cần tăng cường sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành Trung ương, địa phương và các nước lân cận nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên biển, giảm thiểu các xung đột lợi ích; phương thức quản lý tổng hợp, tiếp cận yếu tố sinh thái trong phát triển biển và vùng ven biển đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng cũng cần được đưa vào áp dụng ở Việt Nam để phát triển biển bền vững, giữ biển hữu hiệu hơn nữa cho các thế hệ mai sau. + Nhà nước cần có một cơ chế, chính sách đặc thù xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm tạo ra những lợi thế ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư, để các nhà đầu tư nối cánh tay dài, chung tay cùng đất nước, tham gia sâu vào lĩnh vực xây dựng, khai thác, sử dụng và phát triển kinh tế biển, đảo để biển, đảo mang lại hiệu quả cao nhất. +Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển,khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo.Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu, hình thành một số hành lang kinh tế biển. - Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ: Cơ cấu lao động: Đến năm 2010 có cơ cấu lao động đồng bộ, chất lượng cao và tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn dưới 50%. Muốn đạt được những kết quả như trên, Đảng và Nhà nước ta cần đầu tư: + Phát triển nguồn nhân lực. + Phát triển khoa học công nghệ. + Chú trọng phát triển công nghệ cao, đi ngay vào công nghệ hiện đại để tạo đột phá kết hợp với sử dụng công nghệ nhiều lao động để tạo việc làm. + Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ. + Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học công nghệ với giáo dục và đào tạo. + Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính. - Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên. Tăng cường quản lí tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước,khoáng sản, và rừng. Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thuỷ văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn Xử lí tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lí tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lí, khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Thời đại chúng ta là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX (1917). Cũng không phải ngẫu nhiên mà cách mạng khoa học công nghệ bùng lên từ khoảng giữa thế kỷ XX dẫn đến sự khởi đầu kinh tế tri thức và trở thành đặc trưng của thời đại. Phải chăng đây là phản ánh mối quan hệ biện chứng tất yếu giữa khoa học và cách mạng, cơ bản tương tự như những lần biến động thay đổi hình thái kinh tế - xã hội trước đây, nhưng phức tạp và dữ dội hơn nhiều. Phát triển nhanh các ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao sẽ tạo ra được kết cấu hạ tầng kinh tế- kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh năng suất và hiệu quả lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế là điều kiện để hình thành nền kinh tế tri thức. Thực hiện chủ trương từng bước phát triển kinh tế tri thức. Kinh tế nước ta những năm gần đây đã xuất hiện những mô hình phát triển dựa vào tri thức đó là những ứng dụng khoa học công nghệ của ngành bưu chính viễn thông, các cơ sở trồng hoa dựa trên cơ sở công nghệ cao ở Đà Lạt; những kết quả ứng dụng công nghệ mới trong ngành thuỷ sản, ngành công nghiệp đóng tàu biển … Phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế, xây dựng xã hội thông tin, xã hội học tập… Qua đó trình độ mọi mặt của con người sẽ được nâng cao. Mọi người sẽ tiếp cận được với văn minh nhân loại, kiến thức con người được mở mang hơn, tầm nhìn sâu rộng hơn, có lối sống văn hoá hơn, con người phát triển toàn diện hơn, đó là những tiền đề để đạt tới mục tiêu " Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". 2) QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ QUÁ QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (CNH-HĐH) GẮN VỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO (GD- ĐT) a. Vị trí, vai trò của GD-ĐT trong thời kì CNH-HĐN: Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Và phát triển đất nước trong thời kì CNH-HĐH là một quá trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để nhằm hướng tới một xã hội văn minh và hiện đại. - Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân cách con người là do nhiều yếu tố tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng giữ vai trò quyết định trong sự phát triển trí tuệ và nhân cách con người. Mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất cần thiết có những con người mới xã hội chủ nghĩa do đó phải chăm lo đến việc phát triển giáo dục đào tạo. Chính vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. - Xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế tri thức các sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao có hàm lượng chất xám cao từ 70% trở lên. Việc sản xuất hàng hóa sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, ít ô nhiễm môi trường hơn, giá thành hạ, chất lượng cao hơn. Ngày nay những phát minh mới về khoa học công nghệ được ứng dụng nhanh vào sản xuất và hiệu quả sản xuất. Những phát minh mới, những tiến bộ mới về khoa học công nghệ tồn tại không lâu nhanh chóng bị lạc hậu. Yêu cầu tất yếu đặt ra là lãnh đạo phải được đào tạo và đào tạo đạt trình độ cao để tham gia sản xuất, để sử dụng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. - Xuất phát từ nhu cầu được học tập và không ngừng nâng cao tri thức của nhân dân. - Xuất phát từ nhu cầu về sự bình đẳng của xã hội đòi hỏi phải đảm bảo quyền con người. Để kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì quyền con người phải được đảm bảo như : quyền học hành, quyền lao động, quyền làm chủ xã hội…Trong rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm chủ. Muốn làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri thức. Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để học, vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó. à Những nhân tố trên đã làm giáo dục có tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia, là “quốc sách hàng đầu”. Có thể nói rằng GD& ĐT là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Kinh nghiệm một số nước cho thấy rằng phát triển nguồn lực chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững, Nhật Bản là một ví dụ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo(ăn khoai, sắn...). Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản lại phục hồi nhanh chóng (1945 –1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954 –1973), trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau Mỹ). Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước. CNH-HĐH đòi hỏi phải phải phát huy tối đa nguồn nhân lực. Sự phát triển nguồn nhân lực do tích hợp nhiều nhân tố: giáo dục và đào tạo; sức khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm và cả sự giải phóng con người. Trong đó, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng nhất. Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH đã chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là hết sức cần thiết,  vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. Nó tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như những phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp CNH-HĐH. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp GD & ĐT chậm đổi mới, chậm đẩy mạnh và  phát triển thì nguy cơ tụt hậu càng cao; CNH-HĐH sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ và kém về hiệu quả. Giáo dục – đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH-HĐH và CNH- HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa GD-ĐT (như các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho GD-ĐT  tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng chính yêu cầu của công cuộc CNH-HĐH). Nó không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của sự nghiệp GD-ĐT theo hướng hiện đại mà còn đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đòi hỏi con người phải luôn luôn học tâp và rèn luyện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì lẽ đó, GD-ĐT cũng đòi hỏi sự bổ sung, đổi mới thường xuyên về nội dung, chương trình, phương pháp và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bên cạnh đó, vì CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm thay đổi ít nhiều về giá trị, thang giá trị kéo theo sự biến động trong nhân cách con người nên GD-ĐT phải có sự tác động vào việc định hướng giá trị xã hội, đến với thang giá trị lành mạnh để phát huy được tính tích cực, sự sáng tạo của mỗi cá nhân nhằm tạo ra những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tóm lại, phát triển GD&ĐT là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và CNH-HĐH tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển theo hướng hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. CNH, HĐH và GD – ĐT là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau. b/ Tính tất yếu khách quan và sự lãnh đạo của Đảng về CNH-HĐH gắn với giáo dục đào tạo. Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; Thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; Thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng đầu. Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Cần phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo với sử dụng. + Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn. + Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đó phổ cập xong trung học cơ sở. + Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. + Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập. - Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lên và cán bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số ; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học sinh người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn. Có chính sách bổ túc kiến thức cần thiết cho số học sinh dân tộc thiểu số đó tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp để các em trở về địa phương tham gia công tác ở cơ sở Nhìn lại tình hình đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đó đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong khi Việt Nam bước vào quá trình CNH-HĐH thì nhiều nước đó vượt qua thời đại cách mạng công nghiệp đi vào thời đại cách mạng thông tin, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Khoảng cách về trình độ kinh tế, khoa học và công nghệ giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có xu hướng ngày càng mở rộng thêm, mà một nguyên nhân quan trọng là do chất lượng trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ năng chuyên môn bất cập của nguồn nhân lực. Trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi mà nước ta đó trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt về mọi mặt, mà chủ yếu là đua tranh về trí tuệ của các quốc gia trên toàn cầu, sự yếu kém, bất cập và tụt hậu của giáo dục và đào tạo đang trở thành lực cản đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mọi người học tập và học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: "Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam; Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến.Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đó nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước như sau: - Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển. - Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào tạo ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm đó). Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, Đến Đại hội IX, Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc"  và tại đại hội này cũng nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII: Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Trong nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào các cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tổ chức phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài. Hai là, phát triển hợp lý quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội; vấn đề bổ túc trên tiểu học cho người lớn và phát triển giáo dục không chính quy; xây dựng hệ thống trung tâm học tập cộng đồng. Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là cơ hội học cao đẳng và đại học cho con em nông dân và các gia đình diện chính sách. Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học – công nghệ. Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ. Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học – công nghệ. Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện: + Chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội người học tập và học tập suốt đời. + Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp GD-ĐT nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến. c/ Tình hình nền Giáo dục nước ta và yêu cầu của thời kì đổi mới: c.1) Những bước tiến bộ đạt được : Trong những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội và sự nỗ lực phấn đấu của ngành giáo dục, sự nghiệp GD-ĐT đã có một số tiến bộ mới: Ngân sách đầu tư cho giáo dục nhiều hơn, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, quy mô giáo dục được mở rộng, trình độ dân trí được nâng cao,đã đề ra phương hướng đổi mới toàn diện giáo dục và đạo tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như sau: Đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo sau 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường, quy mô đào tạo mở rộng, nhất là bậc trung học và dạy nghề. Trình độ dân trí được năng cao. Điều đó được thể hiện : Phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được củng cố, phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở được triển khai tích cực. Đến hết năm 2005 có 31 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí được năng lên rõ rệt. Số học sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, sinh viên các trường đại học và cao đẳng đều tăng. Các trường sư phạm tiếp tục được củng cố và phát triên. bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực. Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non phổ thông, dạy nghề đến cao dẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp được thành lập. Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005 chi cho giáo dục đào tạo chiếm gần 18% tổng chi ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục, như thông qua phát hành công trái, huy động đóng góp của nhân dân, của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp được tăng cường, đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. nhiều tỉnh đã xây dựng được các trường chuẩn quốc gia. c.2) Những bất cập hiện nay: Cùng với kết quả quan trọng nêu trên, trong thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém thể hiện ở các điểm sau : Giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực trong giai đoạn đẩy mạnh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động sáng tạo của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa thật phù hợp, phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với giáo dục phổ thông. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo dục đào tạo ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp, chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long, để giáo dục và đào tạo ở vùng này tụt hậu dài so với các vùng khác trong cả nước. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập. Công tác thanh tra giáo dục còn yếu kém. Những hiện tượng tiêu cực như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục trong học tập, tuyển sinh, thi cử cấp bằng và tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, kéo dài chậm được khắc phục. c.3) Định hướng phát triển: Đảng lãnh đạo giáo dục đào tạo là một tất yếu khách quan để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi mà nước ta đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt về mọi mặt, mà chủ yếu là đua tranh về trí tuệ của các quốc gia trên toàn cầu, sự yếu kém, bất cấp và tụt hậu của GD-ĐT đang trở thành lực cản đối với sự phát triển nhanh và vững của đất nước. Một nền giáo dục hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội đó phải là một nền giáo dục mở, hướng tới đối tượng trung tâm là người học, có trách nhiệm tạo điều kiện và môi trường cho mọi cá nhân người học được trang bị một nền học vấn vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, vừa hiện đại về tri thức, khoa học và công nghệ… Mỗi con người mà nền giáo dục đó đào tạo phải có: 1. những hiểu biết và cảm thụ sâu sắc đối với những tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc; 2. những kiến thức khoa học và công nghệ hiện đại; 3. năng lực tư duy độc lập trên cơ sở kết hợp tư duy khoa học với phương pháp tư duy hệ thống, tư duy phức hợp, để có khả năng sống và hoạt động một cách linh hoạt, sáng tạo trong một thế giới phức tạp, đầy những bất định và đổi thay, đan xen những thách thức và cơ hội… Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo như sau: - Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và bảo vệ đất nước. - Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo, nhát là chính sách công bằng xã hội. - Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. - Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi người, mọi cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo. - Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. - Giữ vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các loại hình giáo dục đào tạo. - Chăm lo giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với các yêu cầu và tiêu chí được xác lập. - Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn lion với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. 3) Quan điểm của Đảng về quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với Khoa học công nghệ: a.Khái niệm: Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ. b.Quan điểm: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ: b.1) Định hướng chung của chiến lược khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2020 là: 1. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi mới đất nước. Xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 2. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng - an ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi trọng nghiên cứu cơ bản, làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài, tiến tới sáng tạo ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của đất nước trong thế kỷ 21. 3. Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà: đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nhân lành nghề, trẻ hoá và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có đủ đức, tài, kiện toàn hệ thống tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành một nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. b.2) Nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa học và công nghệ: Khoa học xã hội và nhân văn - Vận dụng sáng tạo lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản hiện đại, những biến đổi trong các quan hệ quốc tế; dự báo xu hướng phát triển của thế giới, khu vực và đất nước. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. - Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Nghiên cứu lý luận và chính sách quản lý kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; nghiên cứu vấn đề đảng cầm quyền và xây dựng đảng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường theo con đường xã hội chủ nghĩa. - Tổng kết thực tiễn sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo kinh nghiệm phát triển của thế giới, đề xuất luận cứ khoa học về mô hình và các giải pháp của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. - Nghiên cứu các vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, triết học và đặc điểm con người Việt Nam qua các thời đại, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, làm chỗ dựa cho việc giáo dục và bồi dưỡng truyền thống cách mạng, lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân ta. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước trong lịch sử dân tộc; xây dựng, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. - Nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, kinh tế, chính trị, quân sự... của các nước, nhất là các nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương. Khoa học tự nhiên Nghiên cứu cơ bản có định hướng, có trọng điểm các lĩnh vực khoa học tự nhiên (toán học, tin học, cơ học, vật lý, hoá học, sinh học, các khoa học về trái đất và biển...) nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống, hạn chế hậu quả thiên tai và nhằm xây dựng năng lực khoa học cho việc làm chủ các công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ nước ngoài và sáng tạo ra công nghệ mới. Chú trọng đúng mức những nghiên cứu lý thuyết hiện đại cần thiết để đón đầu sự phát triển của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ Đến năm 2020 đạt trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng điểm như công nghệ sinh học, sản xuất lương thực, chế biến nông - lâm - hải sản, cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông, khai thác và chế biến dầu khí, giao thông vận tải, xây dựng, vật liệu cơ bản, sản xuất và sử dụng năng lượng, y dược. Phát triển một số ngành công nghiệp biển. Ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại nhằm tiếp cận với trình độ thế giới trong một số lĩnh vực quan trọng, làm cơ sở vững chắc cho phát triển các ngành công nghiệp hiện đại. Tiềm lực khoa học và công nghệ Nâng cao năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để có khả năng tiếp thu các tri thức mới của thế giới, thích nghi, làm chủ các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài; nghiên cứu giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ do thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển; bảo đảm căn cứ khoa học cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển. Đến năm 2020 có một số phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, trường đại học đạt trình độ quốc tế. Đạt mức độ tiên tiến trong khu vực về các chỉ tiêu đặc trưng cho tiềm lực khoa học và công nghệ như: tỷ lệ phần trăm tổng thu nhập quốc dân đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, số lượng cán bộ nghiên cứu - triển khai trên 1 vạn dân, số phát minh, sáng chế được đăng ký cấp giấy chứng nhận, v.v.. Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược trên, cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây: - Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ. Đảng và Nhà nước có chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ. - Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh. Khoa học và công nghệ gắn với giáo dục và đào tạo, khoa học tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn. -Phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng, của các tập thể khoa học và công nghệ, của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội và của mỗi công dân trong hoạt động khoa học, công nghệ. - Phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ thế giới. - Phát triển khoa học, công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Nội dung: Tập trung phát triển mạnh khoa học kỹ thuật và công nghệ để phục vụ trực tiếp cho mục tiêu đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện các kế hoạch khoa học và công nghệ trung hạn 5 năm 2011 - 2015 và các chương trình quốc gia có tác động và tầm ảnh hưởng lớn như: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao… Cần hình thành và đưa vào hoạt động Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia. c) Mục tiêu phát triển khoa học công nghệ: Xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý. Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới Việt Nam. d) Thành tựu đáng chú ý : Khai thác có hiệu quả vệ tinh VINASAT-1, đang tiến hành các hoạt động nghiên cứu, chuẩn bị phóng vệ tinh VINASAT-2 vào năm 2012. Hàng loạt công nghệ hiện đại đã được ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng cáp quang, công nghệ GSM, CDMA, 3G Cơ khí hóa các hoạt động nông nghiệp( áp dụng tiến bộ kỹ thuật; tạo ra những diện mạo mới trên cánh đồng thông qua việc đưa công nghệ, máy móc vào sản xuất) Công nghệ thông tin phát triển mạnh (5 năm trước đây, Việt Nam thua xa các nước trong khu vực về phát triển CNTT nhưng nay Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách và trong một số lĩnh vực như truy cập Internet và sử dụng CNTT, Việt Nam thậm chí còn vượt cả Phillippines. “Sự phát triển CNTT-TT (gồm ĐTDĐ, cố định và Internet, băng rộng) ở Việt Nam đã vượt qua nhiều nước châu Á khác, doanh thu ngành CNTT-TT Việt Nam đạt trên 10 tỷ USD, tỷ lệ sử dụng Internet đạt khoảng 25% và phổ cập điện thoại ở mức độ cao. Người dân ở các vùng nông thôn có thể dễ dàng truy cập Internet và các dịch vụ viễn thông khác với giá cả phải chăng) Ứng dụng công nghệ trong quản lý hành chính được chú trọng đầu tư và phát triển. Xây dựng mạng diện rộng (WAN) của tỉnh; Nâng cấp mạng LAN của cơ quan nhà nước; Xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu của Tỉnh; Hội nghị truyền hình trực tuyến, xây dựng, hoàn thiện các hệ thống thông tin số, hệ thống thông tin quản lý văn bản tích hợp; triển khai hệ thống thư điện tử và hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế-xã hội; Xây dựng các phần mềm chuyên ngành phục vụ hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ; Số hóa các thông tin chưa ở dạng số theo thứ tự ưu tiên về thời gian và tầm quan trọng; triển khai ứng dụng các phần mềm mã nguồn mở thay thế các phần mềm thương mại cho máy tính. Thành tựu khoa học, công nghệ đóng góp cho phát triển KT-XH: Nông nghiệp: Chỉ riêng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chọn tạo và đưa vào sản xuất 114 giống lúa, trong đó 45 giống được công nhận chính thức. Ngoài ra, hàng năm có hàng chục giống mới triển vọng được đưa vào sản xuất thử nghiệm ở hầu khắp các địa phương trong vùng. Hầu hết các giống lúa do Viện chọn tạo đều có thời gian sinh trưởng ngắn từ 90-100 ngày, đã giúp nông dân trong vùng có điều kiện thâm canh, tăng vụ, né tránh lũ, tăng năng suất và sản lượng. Viện cũng đã kịp thời chọn tạo và phóng thích các giống lúa mới có khả năng chống chịu với rầy nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn đã đáp ứng nhu cầu của sản xuất và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do bệnh dịch gây ra. Hiện nay diện tích sử dụng giống lúa do Viện Lúa ĐBSCL chọn tạo đã đạt trên 2,4 triệu ha, chiếm 34,87% diện tích giống lúa của cả nước. Ngoài ra, Viện còn xây dựng được 11 quy trình kỹ thuật được công nhận ở cấp Quốc gia, trong đó có 5 quy trình kỹ thuật canh tác lúa, 2 quy trình kỹ thuật canh tác cây trồng cạn luân canh với lúa và 4 quy trình phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng. Các tiến bộ kỹ thuật do Viện phát triển là cơ sở quan trọng để xây dựng giải pháp kỹ thuật “Ba giảm, ba tăng” đang được nông dân trồng lúa áp dụng rộng rãi hiện nay… Y học: Văcxin “ Rotavin-M1” là vắc xin sống giảm độc lực, uống phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ em dưới 5 tuổi, được sản xuất từ chủng virut rota G1P trên tế bào Vero tại cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm Y tế - Bộ Y tế, Chủng virut rota G1P được nghiên cứu, sản xuất tại phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn GLP của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật CDC-Atlanta-Hoa Kỳ và phòng thí nghiệm thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm y tế - Bộ Y tế . Chủng này đã được kiểm định chất lượng theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới tại phòng thí nghiệm chuẩn thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm y tế- Bộ Y tế. Chủng G1P đã được Viện Kiểm định Quốc gia vắc xin và Sinh phẩm y tế phê chuẩn sử dụng cho sảnxuất vắc xin vào năm 2007. Thiết bị cơ khí công nghệ cao: E Sản xuất và ứng dụng công nghệ mới tại Nhà máy thủy điện Sơn La Công trình nhà máy thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, gồm 6 tổ máy, công suất lắp máy 2400MW, sản lượng điện bình quân hàng năm 9,4kWh. Đây là công trình có khối lượng công việc lớn nhất từ trước đến nay do Việt Nam tự đảm nhận. Nhiều công nghệ, giải pháp kỹ thuật mới, tiên tiến do các đơn vị tư vấn, thiết kế, sản xuất thiết bị, thi công Việt Nam làm chủ và ứng dụng thành công. Khoa học và công nghệ Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc đưa công trình vào vận hành sớm hơn 2 năm so với dự kiến, tận dụng nguyên vật liệu trong nước, hạ giá thành sản phẩm, làm lợi cho đất nước trên 24.000 tỷ đồng. Một số công nghệ có thể kể ra là: chế biến và sản xuất tro bay tử tro xỉ của Công ty Cổ phần Sông Đà 12-Cao Cường phối hợp với Viện Khoa học vật liệu; Ứng dụng công nghệ bê tông đầm lăn trong thi công; Thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công (các đơn vị trong nước đảm nhận hơn 27.000 tấn, chiếm 62% thiết bị siêu trường, siêu trọng, tải trọng lớn, chịu áp lực lớn, hệ thống thủy lực điều khiển với tải trọng nâng đến 700 tấn/cửa van…); Sản xuất hệ thống các thiết bị nâng hạ lớn (cẩu trục gian máy 1120 tấn, cẩu chân què 350 tấn, cẩu chân xích sức nâng 100-600 tấn), với tỉ lệ nội địa hóa trên 90% với giá thành hạ (bằng 50% giá sản phẩm tương đương của Châu Âu và 75% giá sản phẩm của Trung Quốc); Đây là những sản phẩm của Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung, được sản xuất với sự hỗ trợ của Bộ E Sản xuất các sản phẩm cơ điện tử made in Vietnam Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI) đã tạo dựng được nền móng để phát triển một ngành cơ khí mới (ngành cơ điện tử), có khả năng cạnh tranh và có hiệu quả kinh tế cao. IMI đã sáng tạo kết hợp cơ khí với tự động hóa, điện tử, công nghệ thông tin, để tạo ra các sản phẩm cơ khí mới có tính linh hoạt cao (sản phẩm cơ điện tử), qua đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chiếm lĩnh thị phần trong nước, tạo giá trị gia tăng lớn cho sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế. Các sản phẩm công nghệ cao của Viện chiếm lĩnh hầu hết thị trường trong nước, giá thấp hơn 30-40% so với nhập ngoại, giúp tiết kiệm mỗi năm hàng chục triệu USD do thay thế hàng nhập khẩu. Trong 10 năm gần đây, các cán bộ khoa học của Viện đã nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công cụm sản phẩm cơ điện tử, với hơn 100 sản phẩm công nghệ cao, được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất công nghiệp trên khắp mọi miền đất nước, mang lại giá trị doanh thu 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thành tựu khoa học công nghệ nổi bật trong nước năm 2010: 1. Công nghệ tạo màng bọc cho phép giữ rau quả tươi Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch Bộ NN&PTNT đã thử nghiệm thành công Công nghệ tạo màng bọc cho phép giữ rau quả tươi. Công nghệ này được áp dụng thực nghiệm trên cam Vinh tại xã Đông Tảo - Khoái Châu (Hưng Yên). Chế phẩm tạo màng là một loại dịch lỏng có thể dùng trực tiếp bằng cách phun, xoa, nhúng, lăn mảng để tạo một lớp mỏng lên trên bề mặt của quả. Sản phẩm sau thu hoạch rất tươi, quả màu vàng sáng đều, cuống vẫn xanh và không bị rụng, về hình thức đạt khoảng 90% so với khi vừa hái. Một lít chế phẩm có thể bảo quản được 0,5-1 tấn quả. 2. Cần cẩu siêu trường, siêu trọng 1.200 tấn Xí nghiệp cơ khí Quang Trung (Ninh Bình) đã thiết kế, chế tạo và lắp đặt cầu trục gian máy, cầu trục trung gian và cầu trục chân đế cho công trình thủy điện Sơn La - công trình trọng điểm cấp Quốc gia, công trình thuỷ điện thế kỷ của Việt Nam. Sản phẩm “Cầu trục gian máy 1200T/200T/20T” được dùng để nâng, hạ... Roto tuabin có trọng lượng 1.200 tấn. Đây là sản phẩm lớn nhất ở Việt Nam từ trước đến nay, do chính các kỹ sư Việt Nam nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. 3. Robot phun thuốc trừ sâu Các nhà khoa học Khoa Cơ khí Công nghệ (ĐH Nông lâm TP Hồ Chí Minh) đã thiết kế, chế tạo thành công robot phun thuốc cho cây trồng, giúp giảm sức lao động trong nông nghiệp. Robot này có khả năng thực hiện việc pha chế liều lượng một cách chính xác và phun thuốc hoàn toàn tự động theo chương trình lập sẵn. Robot có thể tự chạy theo hành trình, di chuyển dọc theo luống cây để phun đều cho các cây khi nó đi qua. Robot còn có thể được cài đặt để chỉ phun ở một số vị trí cần thiết được chỉ định trước. Robot cũng có thể chạy ở chế độ điều khiển bằng tay... Đặc biệt, giao diện điều khiển robot hiển thị bằng tiếng Việt, có thể điều chỉnh tùy theo yêu cầu. 4. Kit phân tích độc tố nấm  mycotoxin Độc tố nấm mycotoxin được hình thành và phát triền từ bào tử nấm từ các nông sản, ngũ cốc khi gặp điều kiện thuận lợi. Tác hại chủ yếu của mycotoxin là gây tổn thương tế bào gan, thận, bào mòn niêm mạc của ống tiêu hóa, ức chế hoạt động của các men tiêu hóa... của người và vật nuôi. Từ nguyên do này, các nhà khoa học của Công ty Innotech (thuộc Vườn ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao - Khu Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh) đã cho ra đời sản phẩm Kit phân tích độc tố nấm mycotoxin (INNOKIT). KIT này sẽ giúp phân tích nhanh, đơn giản, có độ nhạy và độ chọn lọc cao, giá thành bằng 1/2 so với nhập ngoại. 5. Tiết kiệm năng lượng nhờ... toitietkiem.com Lần đầu tiên ở Việt Nam, chàng trai 9X Phạm Ngọc Thắng (Đại học FPT Hà Nội) đã thiết kế thành công website tuyên truyềnwww.toitietkiem.com nhằm cổ vũ phong trào tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường. Đi kèm với wesbsite này, Ngọc Thắng còn viết phần mềm Toitietkiem trên máy tính với những tính năng như: Cấu hình tiết kiệm điện, biểu đồ tiết kiệm năng lượng, mẹo vặt tiết kiệm... “Bộ sản phẩm” này của Ngọc Thắng đã đoạt giải Nhất cuộc thi Ý tưởng xanh (25/4/2010) và được Toyota tài trợ 250 triệu đồng để hiện thực hóa. Ngoài ra, sản phẩm còn đoạt giải Nhất cuộc thi “Thanh thiếu niên tham gia đề xuất các giải pháp, ý tưởng tiết kiệm năng lượng năm 2010” do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức (16/12/2010). đ) Tổng kết: Với nền tảng những thành tựu đã đạt được cùng những quan điểm, chủ trương phát triển và sự quan tâm đầu tư đúng mức của Đảng và Nhà nước, trong tương lai, hứa hẹn ngành khoa học công nghệ ở nước ta sẽ đạt được những bước tiến mạnh mẽ hơn nữa, góp phần không nhỏ vào sự vươn mình của đất nước trong thời đại mới, thời đại hội nhập với thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhái niệm đặc điểm vai trò kinh tế tri thức và quan điểm của đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức v.doc
Luận văn liên quan