Khảo sát tình hình sử dụng thuốc - Hóa chất trong nuôi tôm và sự tồn lưu của enrofloxacin và furazolidone trong tôm sú (penaeus monodon)

- Nhiều loại thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu, thuốc diệp tạp và thuốc tẩy trùng được sử dụng trong nuôi tôm. Kháng sinh nhóm fluoroquinolones (enrofloxacin, norfloxacin and oxolinic acid) được sửdụng nhiều nhất. Chi phí thuốc và hóa chất chiếm tỉtrọng lớn trong tổng chi phí sản xuất (24,8%). - Mức tồn của furazolidone (AOZ) trong tôm khá lâu, sau khi dừng cho ăn kháng sinh 7 ngày thì độ tồn lưu của AOZ là 306 ppb và sau 28 ngày là 115 ppb trong bểthí nghiệm. - Mức đào thải của enrofloxacin trong tôm rất nhanh. Trong bểnuôi thì sau khi dừng cho ăn thức ăn có kháng sinh 7 ngày thì mức tồn lưu chỉcòn 17,3 ppb và sau 28 ngày là 10 ppb. Trong mô hình nuôi thâm canh, không phát hiện độtồn lưu enrofloxacin trong cơ tôm sau 7 ngày ngừng cho tôm ăn thức ăn có enrofloxacin.

pdf9 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3780 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình sử dụng thuốc - Hóa chất trong nuôi tôm và sự tồn lưu của enrofloxacin và furazolidone trong tôm sú (penaeus monodon), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 70 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC - HÓA CHẤT TRONG NUÔI TÔM VÀ SỰ TỒN LƯU CỦA ENROFLOXACIN VÀ FURAZOLIDONE TRONG TÔM SÚ (Penaeus monodon) Huỳnh Thị Tú 1, Nguyễn Thanh Phương1, Frédéric Silvestre2, Caroline Douny3, Châu Tài Tảo1, Guy Maghuin-Rogister3 và Patrick Kestemont2 ABSTRACT There has been an increasingly use of drugs and chemicals in shrimp farming as it has been moving from low to high level of intensification. The results of the investigation of 60 shrimp farming and drug and chemical stores in Soc Trang and Bac Lieu provinces showed that there were 74 kinds of drugs and chemicals used in shrimp farimg, of which there were 19 antibiotics. The accumulation and elimination kinetics of enrofloxacin (fluoroquinolones) and furazolidone (nitrofuran) residues in shrimpmuscle were conducted both in tanks and in improved extensive and intensive ponds. Shrimps were treated with medicated feed of 4 g/kg feed during 1 week followed by a recovery period..Muscle were sampled at different time and analyzed for residues by liquid chromatography mass spectrometry (LC/MS-MS). Results showed that in tank condition, enrofloxacin and furazolidone residues were increasing during one week of contamination. The maximum concentrations of AOZ (furazolidone metabolite) and enrofloxacin were 874 ppb and 441 ppb, respectively. After 28 days of decontamination, the concentration of AOZ dropped to 115 ppb and the concentration of enrofloxacin dropped to 10.4 ppb. Whereas the maximum residue levels for enrofloxacin and furazolidone have been set at 100 ppb and 0 ppb, respectively. Enrofloxacin was not detected either in improved extensive or intensive shrimp farm after 1 week of decontamination. The present study suggests that time needed before enrofloxacin disappears from shrimp muscle tissue is about 2 weeks in farm condition, and furazolidone should not be used. Keywords: enrofloxacin, furazolidone, residue, back tiger shrimp Title: Investigation on the use of drugs and chemicals in shrimp farming and the kinetics of Enrofloxacin and Furazolidone in black tiger shrimp (Penaeus monodon) TÓM TẮT Sử dụng thuốc và hoá chất trong nghề nuôi tôm biển ngày càng gia tăng do sự chuyển đổi nhanh chóng từ nuôi quảng canh sang thâm canh. Kết quả điều tra 60 hộ nuôi tôm và người bán và phân phối thuốc và hóa chất ở tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu cho thấy có 74 loại thuốc và hóa chất trong đó có 19 loại kháng sinh đang được dùng trong nghề nuôi tôm. Thời gian tồn lưu và phân hủy của enrofloxacin (fluoroquinolones) và furazolidone (nitrofuran) theo thời gian trong Tôm sú được thực hiện trong bể và trong ao nuôi quảng canh cải tiến và thâm canh. Tôm được cho ăn kháng sinh với liều lượng 4g/kg thức ăn trong thời gian 1 tuần. Mẫu cơ tôm được thu và phân tích tồn lưu bằng phương pháp sắc ký lỏng phối phổ (LC/MS-MS). Trong bể, 1 tuần cho ăn mức tồn lưu của AOZ enrofloxacin cao nhất theo thứ tự là 874 ppb và 441ppb. Tuy nhiên, sau 28 ngày kể từ khi dừng cho ăn thức ăn có kháng sinh thì mức tồn lưu là 115 ppb AOZ và 10.4 ppb enrofloxacin. Dư lượng tối đa cho phép trong sản phẩm thủy sản là 100 ppb đối với enrofloxacin và 0 ppb với furazolidone. Tôm nuôi trong ao thâm canh và quảng canh cải tiến không phát hiên mức tồn lưu của enrofloxacin sau 1 tuần ngưng cho tôm ăn thức ăn có trộn enrofloxacin. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần 2 tuần từ khi dừng sử dụng enrofloxacin để không còn tồn lưu trong cơ tôm. Furazolidone nên cấm sử dụng trong thủy sản. Từ khóa: enrofloxacin, furazolidone, tồn lưu, Tôm sú 1Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ 2Đại học Namur, Bỉ 3Trung Tâm Phân Tích Dư Lượng, Đại học Liege, Bỉ . Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 71 1 GIỚI THIỆU Ở Việt Nam nuôi tôm biển đã trở thành hoạt động quan trọng nhất và được xem là mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 1999-2010 (224/1999/QĐ-TTg). Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản (2004) thì năm 2003 diện tích nuôi thủy sản nước lợ và mặn đạt khoảng 575.137 ha, trong đó có 546.000 ha là diện tích nuôi tôm và tổng sản lượng tôm nuôi xấp xỉ 200.000 tấn, và có khoảng 80% sản lượng tôm được nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Nghề nuôi tôm vì thế đã trở thành họat động quan trọng nhất của ngành nuôi trồng thủy sản vùng ven biển ĐBSCL. Từ đầu năm 2000, nuôi tôm của ĐBSCL chuyển nhanh chóng từ kỹ thuật nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến sang kỹ thuật nuôi thâm canh và bán thâm canh. Hơn nữa, Quyết định 09/NQ-CP ngày 15/6/2000 về việc chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến một sự chuyển dịch nhanh chóng từ đất trồng lúa sang đất nuôi tôm. Sự nhanh chóng mở rộng diện tích đất nuôi tôm ở Việt Nam, đặc biệt ở ĐBSCL thật sự đã đưa đến một số lưu ý đó là sự gia tăng sử dụng thuốc (đặc biệt thuốc kháng sinh) và hóa chất (đặc biệt hóa chất cải tạo ao, diệt tạp, xử lý nước,...) trong nuôi tôm. Theo khảo sát của Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Cà Mau năm 2002 thì hiện có trên 300 loại hóa chất và thuốc được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nuôi thương phẩm có thể gây ra những tác động xấu đến môi trường nước và đến chất lượng tôm. Tuy nhiên, ở Việt nam thì vần đề sử dụng thuốc và mức độ tồn lưu trong tôm nuôi chưa được nghiên cứu nhiều và vì thế các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này hiện rất quan trọng và có ý nghĩa lớn nhằm cải thiện sự bền vững trong nuôi tôm theo định hướng bảo vệ môi trường và sản xuất sản phẩm có chất lượng và an toàn. 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Khảo sát việc sử dụng thuốc và hóa chất dùng trong nuôi tôm ở tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu Tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm tại tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu được khảo sát trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2004. Số liệu về thuốc và hoá chất được thu thập từ các cơ quan thủy sản địa phương, người bán và phân phối và phỏng vấn trực tiếp 60 hộ nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh. Nội dung phỏng vấn về kỹ thuật nuôi có lưu ý đến sự sử dụng thuốc và hóa chất trong vụ nuôi. Số liệu điều tra được dùng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá và phân tích. 2.2 Đánh giá mức độ tồn lưu của kháng sinh enrofloxacin và furazolidone trong Tôm sú (Penaeus monodon) Căn cứ vào kết quả điều tra chọn hai loại kháng sinh được sử dụng nhiều là enrofloxacin (fluoroquinolones) và furazolidone (nitrofuran) để nghiên cứu mức độ tồn lưu trong Tôm sú khi dùng qua thức ăn. 2.2.1 Thí nghiệm đánh giá sự tồn lưu của enrofloxacin và furazolidone trong tôm nuôi trong bể - Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được tiến hành vào tháng 3 và 4 năm 2005 tại Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Thí nghiệm gồm 9 bể composite có thể tích 2 m3/bể trong đó có 3 bể đối chứng (không cho tôm ăn thức ăn có thuốc), 3 bể Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 72 cho tôm ăn thức ăn trộn furazolidone (98%) và 3 bể cho tôm ăn thức ăn trộn enrofloxacine (98%). Enrofloxacin và furazolidone được trộn vào thức ăn với liều lượng 4 g/kg thức ăn cho mỗi loại kháng sinh. Thức ăn có trộn kháng sinh sẽ được áo bên ngoài bằng 3% dầu và 3% nước. Tôm khi thí nghiệm có khối lượng 10g/con và nuôi mật độ 70 con/bể. Tôm được cho ăn thức ăn có trộn kháng sinh liên tục trong thời gian 1 tuần và sau đó cho tôm ăn thức ăn thức không có kháng sinh trong 28 ngày. Tôm được cho ăn theo nhu cầu và cho ăn 4 lần/ngày, thức ăn thừa sẽ loại bỏ sau 3 giờ cho ăn. - Thu mẫu: thu mẫu cơ tôm vào thời điểm (i) trước khi cho tôm ăn thức ăn có thuốc kháng sinh; (ii) 4 và 7 ngày sau khi tôm ăn thức ăn có kháng sinh; (iii) 1, 4, 7, 14 và 28 ngày sau khi tôm dừng ăn thức ăn có kháng sinh. Mỗi bể thu 4 tôm/lần thu. Mẫu cơ tôm được giử ở nhiệt độ –80oC đến khi phân tích. 2.2.2 Thí nghiệm đánh giá sự tồn lưu của enrofloxacin trong tôm nuôi trong ao - Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được tiến hành tại Sóc Trăng và Cà Mau vào tháng 8 đến 11 năm 2005. Thí nghiệm tiến hành trên mô hình nuôi là nuôi thâm canh ở Sóc Trăng và quảng canh cải tiến ở Cà Mau. Thí nghiệm được tiến hành trên 3 ao nuôi thâm canh có diện tích là 3.000 m2/ao và 3 ao nuôi quảng canh có diện tích từ 2.000-6.000 m2/ao. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Tôm được cho ăn thức ăn có chứa enrofloxacin (98%) với liều lượng là 4 g/kg thức ăn. Tôm được cho ăn liên tục 7 ngày, cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7giờ và 16 giờ. Tôm khi tiến hành thí nghiệm có kích cỡ trung bình 10 g/con. - Thu mẫu: thu mẫu tôm gồm (i) thu trước khi cho tôm ăn thức ăn có kháng sinh; (ii) 7 ngày sau khi tôm sử dụng thuốc; (iii) 7 ngày sau khi tôm ngưng sử dụng thuốc; và (iv) lúc thu hoạch tôm. Tôm thu sẽ được vận chuyển tươi sống về phòng thí nghiệm ở Cần Thơ. Tôm sẽ được thu mẫu cơ và bảo quản trong tip nhựa ở -80oC đến khi phân tích. Mỗi ao thu 6 tôm/lần. 2.2.3 Phương pháp phân tích sự tồn lưu dư lượng kháng sinh trong mẫu tôm thí nghiệm Phân tích tồn lưu thuốc kháng sinh trong tôm được thực hiện tại Trung tâm phân tích dư lượng thuộc Đại học Liege (Bỉ) sử dụng máy khối phổ liên hoàn (LC/MS-MS). 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm tại Sóc Trăng và Bạc Liêu 3.1.1 Chi phí sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm Kết quả điều tra cho thấy chi phí thuốc và hóa chất chiếm 24,8% tồng chi phí, cao thứ nhì sau chi phí thức ăn là 50,5%. Các chi phí khác chiếm tỉ trọng nhỏ (Bảng 2). Theo Nguyễn Thị Phương Nga (2004) thì chi phí trung bình của thuốc và hóa chất so với chi phí biến đổi là 21% đối với vụ 1 và 20,8% với vụ 2. Kết quả này cho thấy trong nuôi tôm cần phải giảm chi phí thuốc và hóa chất để tăng hiệu quả và giảm rủi ro về chất lượng tôm. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 73 Bảng 2 : Chi phí được tính trong 1 vụ nuôi tôm Chi phí % Tổng chi phí (triệu đ/ha/vụ) 149±99,5 100 Khấu hao (triệu đ/ha/vụ) 4,34±1,6 2,90 Chi phí biến đổi - Cải tạo ao 6,81±5,38 4,60 - Giống 12,6±6,86 8,50 - Thức ăn 75,1±64,5 50,5 - Lao động 0,79±1,87 0,50 - Thuốc và hóa chất 36,9±40,8 24,8 - Khác 12,2±13,6 8,20 Tổng thu (triệu đ/ha/vụ) 220±214 Giá bán (x 1.000 VND/kg) 96,3±18,4 Lợi nhuận (triệu đ/ha/vụ) 75,7±151 3.1.2 Tình hình bệnh tôm Kết quả ghi nhận được 10 loại bệnh trên Tôm sú nuôi (Bảng 3), trong số này bệnh đóng rong, bệnh đen mang và bệnh đốm trắng và được ghi nhận ở tỉ lệ cao nhất, lần lượt là 65%, 26,7% và 25%. Nhìn chung, đây là các bệnh phổ biến trên Tôm sú nuôi (Chanratchakool et al., 1998 ). Đặc biệt, bệnh phân trắng mới xuất hiện ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng cũng được ghi nhận ở tỉ lệ 16,7% số hộ điều tra. Sự chuẩn đoán bệnh tôm của người dân thường dựa vào thay đổi tập tính hoặc những dấu hiệu bên ngoài của tôm. Bảng 3: Một số bệnh tôm phổ biến trong khu vực khảo sát Tên bệnh Tỉ lệ số hộ bắt gặp (%) Thuốc và hóa chất dùng để phòng và trị bệnh tôm Đóng rong Đen mang Phân trắng Mòn đuôi Bệnh nhiễm độc Đầu vàng Mềm vỏ Đốm trắng Nấm Phát sáng 65,0 26,7 16,7 13,3 8,33 3,33 11,7 25,0 1,67 10,0 20 12 7 6 5 1 3 3 2 4 3.1.3 Thuốc và hóa chất sử dụng phổ biến trong nuôi tôm tại địa bàn nghiên cứu Trên địa bàn nghiên cứu đã ghi nhận được 74 loại thuốc và hóa chất trong đó có 20 loại thuốc và hóa chất dùng diệt tạp và tẩy trùng; 19 loại kháng sinh; 10 loại hóa chất dùng xử lý đất và nước; 10 loại men vi sinh; và một số loại thuốc và hóa chất khác như phân bón, sản phẩm dùng tăng cường hệ miễn dịch bổ sung vào thức ăn cho tôm. Bảng 4 trình bày các nhóm thuốc trừ sâu, diệt tạp và tẩy trùng thường được sử dụng trong nuôi tôm tại khu vực nghiên cứu. Theo kết quả điều tra của Nguyễn Thị Phương Nga (2004) về thuốc và hóa chất dùng nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh tại Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau cho thấy có đến 116 sản phẩm thuốc và hóa chất được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản thuộc các nhóm khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau. Trong đó nhóm hóa chất là 40 loại, chế phẩm sinh học 35 loại, nhóm kháng sinh có 15 loại, nhóm khoáng thiên nhiên 4 loại, nhóm vitamin, khoáng, lipid có 22 loại. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 74 Theo Nguyễn Thị Phương Nga (2004) trong 40 loại hóa chất được sử dụng trong mô hình nuôi thâm canh và bán thâm canh chủ yếu với mục đích diệt tạp và xử lý nước. Hóa chất với hoạt chất như saponin, trichlorofon, dichlorofon organophosphate, pyrethorid được sử dụng phổ biến nhất để diệt tạp trong ao nuôi thâm canh và bán thâm canh, trong khi nhóm calcium hypochloride (tên thương mại Chlorine Indo, Kaporit 65) và postassium thiosulfate (tên thương mại Virkon A) được sử dụng nhiều nhất trong cải tạo ao. Bảng 4: Một số loại thuốc trừ sâu, diệt tạp và tẩy trùng Thuốc trừ sâu, diệt tạp và tẩy trùng Tên thương mại % số hộ sử dụng Calcium hypochloride (thuốc tẩy) Trichlorofon Formalin/formaldehyde Potassium permanganate Saponin Potassium thiosulfate Benzalkonium chloride Iodophores Copper sulfate Dichlorovos Endosulfan Humic acid Chlorine Indo, Kaporit 65 Neguvon A, Dipterex, Địch Bách Tùng Formol Thuốc tím Saponin Vikon BKC 80, Clear 80 Iodine, Lugol, Povidine CTC90, Copper control Fos 500EC Endosulfan, Thiodan D best 41,7 20,0 16,7 15,0 15,0 10,0 11,7 11,7 5,00 3,33 1,67 1,67 Kháng sinh trên thị trường dùng nuôi tôm hiện tồn tại ở dạng đơn hoặc kết hợp nhiều loại kháng sinh với nhau. Tên thương mại cũng rất đa dạng, cùng một loại kháng sinh nhưng có thể mang nhiều tên thương mại khác nhau và điều này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn cho người sử dụng (Bảng 5). Nhóm kháng sinh fluoroquinolones (enrofloxacin, norfloxacin và a-xít oxolinic) được sử dụng nhiều nhất trong khu vực khảo sát. Sulfonamides được sử dụng kết hợp với norfloxacin và trimethoprim hoặc với trimethoprim để phòng trị bệnh thuôc nhóm Vibrio. Chloramphenicol không có sử dụng ở khu vực khảo sát. Kháng sinh được người nuôi tôm sử dụng thường ở dạng bột hay dạng viên và được mua ở cửa hàng bán thuốc thú y nhỏ tại địa phương. Tương tự, theo kết quả điều tra của Nguyễn Thị Phương Nga (2004) thì kháng sinh được người nuôi sử dụng trong quá trình nuôi thường ở dạng kháng sinh đơn lẻ chủ yếu là nhóm fluoroquinolones. Trong đó 42,9% số hộ điều tra sử dụng enrofloxacin và 25% số hộ điều tra sử dụng norfloxacin. Ngoài ra, sulfamethoxazol, cortrimoxazol, aminosid, colistin và trimethoprim cũng được sử dụng nhưng chiếm tỉ lệ thấp. Bảng 5: một số loại thuốc kháng sinh thường sử dụng trong nuôi tôm Tên kháng sinh Tên thương mại Enrofloxacin (10) Enroxin và Enrofloxacin Norfloxacin (7) Noracin, Anti – white, Anti – WW và N300 Oxolinic acid (8) Oxolin Sulphamethoxazole + Trimethoprim (4) Dai-Trim và Vi- trim Sulfamid + Trimethoprim (4) Cotrim-Fort, Trimesul và Sulfa-Prim 01 Enrofloxacin + Metronidazole + Colistin (3) Enro DC Enrofloxacin + Gentamycin + Colistin (2) Genrodexacol và EGC-mycine Norfloxacin + Sulfamid + Trimethoprim (2) Anti –V Norfloxacin + Colistin + Gentamycin (2) Norlp-Septryl Sorbitol (2) Sorbitol Ampicillin + Furaltadone + Sulfachlorpuridazin (2) Bioxide for shrimp Số được ghi trong ngoặc là số hộ sử dụng một hay nhiều loại kháng sinh trong khu vực khảo sát Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 75 Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm dẫn đến tình hình sử dụng thuốc và hóa chất cũng gia tăng. Khi nhu cầu sử dụng tăng, nhiều loại kháng sinh với tên thương mại khác nhau, phòng trị bệnh khác nhau đã xuất hiện trên thị trường làm cho công tác quản lý thuốc và hóa chất trở nên khó khăn hơn. 3.2 Kết quả phân tích độ tồn lưu của enrofloxacin và furazolidone 3.2.1 Thí nghiệm đánh giá sự tồn lưu của enrofloxacin và furazolidone trong tôm ở điều kiện thí nghiệm trong bể Kết quả phân tích về độ tồn lưu của kháng sinh furazolidone (AOZ - dẫn xuất của furazolidone) và enrofloxacin cho thấy mức tồn lưu của AOZ luôn cao và lâu hơn mức độ tồn lưu của enrofloxacin. Sau 7 ngày cho ăn kháng sinh thì mức tồn lưu của AOZ trong tôm đạt cao nhất là 874 ppb trong khi mức tồn lưu của enrofloxacin cao nhất chỉ là 441 ppb. Sau 7 ngày dừng cho ăn thì mức độ tồn lưu của enrofloxacin chỉ là 17,3 ppb thấp hơn mức cho phép lưu tồn lưu trong động vật thủy sản 100 ppb, trong khi đó mức tồn lưu của AOZ là 306 ppb cao hơn mức cho phép là 0 ppb (Bộ Thủy sản, 2005). Sau 28 ngày kể từ khi dừng cho ăn thức ăn có kháng sinh thì mức độ tồn lưu của enrofloxacin còn rất thấp (10 ppb) và của AOZ thì vẫn cao (115 ppb). Kết quả này cho thấy mức độ tồn lưu kháng sinh furazolidone (AOZ) trong tôm khá lâu (Hình 1). H àm lư ợ ng (p pb ) Thời gian 0 giờ 7 ngày Không dùng thuốcDùng thuốc 7 ngày 14 ngày 28 ngày H àm lư ợ ng (p pb ) H àm lư ợ ng (p pb ) Hình 1: Sự tồn lưu 3-amino-2-oxazolidne (AOZ) và enrofloxacin trong cơ Tôm sú (P. monodon) cho ăn kháng sinh (7 ngày) và không cho ăn kháng sinh (28 ngày) 3.2.2 Thí nghiệm đánh giá sự tồn lưu của enrofloxacin trong tôm ở điều kiện ao nuôi Kết quả phân tích mức tồn lưu của kháng sinh enrofloxacin trong mẫu cơ tôm cho thấy sau 7 ngày cho ăn thức ăn có enrofloxacin liên tục thì không phát hiện mức tồn lưu đối với tôm nuôi quảng canh cải tiến nhưng phát hiện ở mức thấp của hai trong 3 ao nuôi thâm canh. Sau khi dừng cho ăn 7 ngày thì mức tồn lưu của enrofloxacin không thể phát hiện ở cả hai mô hình nuôi. Kết quả này cho thấy mức độ phân hủy của kháng sinh enrofloxacin trong điều kiện ao nuôi là rất nhanh (Bảng 7). Furazolidone là loại kháng sinh được sử dụng trị một số bệnh vi khuẩn trên cá (Samuelsen et al., 1991), thuốc có phổ hoạt tính rộng và diệt được vi khuẩn gram âm và gram dương. Furazolidone là loại kháng sinh có khả năng gây ung thư lâu dài, do đó furazolidone bị cấm sử dụng từ nhiều năm qua (Timperio et al., 2003). Bảng 7: Mức tồn lưu của enrofloxacin trong cơ tôm cho ăn enrofloxacin Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 76 Thời gian thu mẫu Mức tồn lưu của enrofloxacin (ng/g) trong cơ tôm nuôi QCCT (Cà Mau) Mức tồn lưu của enrofloxacin (ng/g) trong cơ tôm nuôi thâm canh (Sóc Trăng) Ao 1: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 2: <LOQ Ao 2: <LOQ Trước lúc cho tôm ăn enrofloxacin Ao 3: <LOQ Ao 3: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 2: <LOQ Ao 2 : 75.3 ± 8.8 7 ngày cho tôm ăn enrofloxacin Ao 3: <LOQ Ao 3: 130.8 ± 15.4 Ao 1: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 2: <LOQ Ao 2: <LOQ 7 ngày sau khi ngưng cho tôm ăn enrofloxacin Ao 3: <LOQ Ao 3: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 1: <LOQ Ao 2: <LOQ Ao 2: <LOQ Thu hoạch tôm Ao 3: <LOQ Ao 3: <LOQ QCCT: quảng canh cải tiến LOQ: Giá trị giới hạn phân tích (Limit of analytical quantitation ) Rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của furazolidone lên môi trường cũng như loài cá, tôm nuôi. Plakas et al. (1991) nghiên cứu mức tồn lưu và phân hủy của furazolidone dùng cho cá nheo Mỹ (channel catfish) với liều sử dụng là 1 mg/kg khối lượng cơ thể. Kết quả sau 5 giờ sau khi ngưng cho ăn thì hàm lượng furazolidone tồn lưu trong máu rất thấp (<20 ng/ml máu). Trong quá trình sử dụng furazolidone, một lượng lớn furazolidone thải ra môi trường qua thức ăn hoặc bài tiết (Samuelsen et al., 1991). Samuelsen et al. (1991) nhận xét rằng furazolidone thông qua hệ vi sinh vật trong nền đáy và biến đổi thành dạng 3-(4-cyano-2- oxobutylidene-amino)-2-oxazolidone. Thời gian bán phân hủy của furazolidone trong nền đáy với nhiệt độ 4oC là 18 giờ. Enrofloxacin (fluoroquinolones) là loại kháng sinh diệt khuẩn có hoạt phổ rộng với cả vi khuẩn gram âm và gram dương (Gore et al., 2005). Nghiên cứu về mức tồn lưu và phân hủy của enrofloxacin đã được thực hiện trên nhiều loại cá, chủ yếu là nhóm cá Hồi, với liều lượng 5-10 mg/kg khối lượng cơ thể (Bowser et al, 1992 và Intorre et al, 2000). Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu về độ tồn lưu của enrofloxacin trong Tôm sú. Gore et al. (2005) nghiên cứu thời gian tích lũy và đào thải của enrofloxacin trên cá cuttlefish (95,7-129 g), với liều dùng là 10 mg/kg khối lượng cơ thể bằng phương pháp tiêm 1 lần trực tiếp vào cơ thể và thu mẫu máu trước và sau khi tiêm enrofloxcin 1, 3, 6, 24 và 48 giờ. Kết quả sau 1 giờ tiêm thì lượng enrofloxacin là cao nhất (10,9 ug/ml máu) và thời gian bán hủy là 1 giờ. Tuy nhiên, không phát hiện tồn lưu của enrofloxacin cũng như ciprofloxacin (dẫn xuất của enrofloxacin) trong máu cá sau 24 giờ tiêm. Như vậy, thời gian đào thải của enrofloxacin trong cá cuttlefish là rất nhanh. Ngược lại, Dario et al. (2004) nhận thấy thời gian đào thải enrofloxacin trong cơ (bao gồm cả phần da cá) của cá Hồi chậm. Cá Hồi cho ăn thức ăn có chứa enrofloxacin với liều 10 mg/kg khối lượng cơ thể và cho ăn liên tục 5 ngày. Kết quả là 30 ngày sau khi cá ngưng cho ăn thức ăn có enrofloxacin, độ tồn lưu của enrofloxacin là 240 ppb và sau 59 ngày là 100 ppb. Như vậy, trên cơ cá Hồi (gồm phần da) khả năng tồn lưu enrofloxacin lâu hơn. Steffenark et al. (1997) nhận xét khi cá Hồi nuôi trong điều kiện nhiệt độ 6oC và cho ăn thức ăn có enrofloxacin 10 Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 77 mg/kg khối lượng cơ thể liên tục trong 10 ngày thì 60 ngày sau khi ngưng sử dụng thì mức tồn lưu của enrofloxacin trong cơ cá là 6 ppb. Hơn nữa, ông cho rằng enrofloxacin có khả năng tích lũy trên da cá Hồi và thời gian đào thải ở da cá chậm hơn. Như vậy, độ tồn lưu của enrofloxacin khác nhau theo loài, và phụ thuộc vào cơ quan thu để phân tích độ tồn lưu. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận - Nhiều loại thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu, thuốc diệp tạp và thuốc tẩy trùng được sử dụng trong nuôi tôm. Kháng sinh nhóm fluoroquinolones (enrofloxacin, norfloxacin and oxolinic acid) được sử dụng nhiều nhất. Chi phí thuốc và hóa chất chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất (24,8%). - Mức tồn của furazolidone (AOZ) trong tôm khá lâu, sau khi dừng cho ăn kháng sinh 7 ngày thì độ tồn lưu của AOZ là 306 ppb và sau 28 ngày là 115 ppb trong bể thí nghiệm. - Mức đào thải của enrofloxacin trong tôm rất nhanh. Trong bể nuôi thì sau khi dừng cho ăn thức ăn có kháng sinh 7 ngày thì mức tồn lưu chỉ còn 17,3 ppb và sau 28 ngày là 10 ppb. Trong mô hình nuôi thâm canh, không phát hiện độ tồn lưu enrofloxacin trong cơ tôm sau 7 ngày ngừng cho tôm ăn thức ăn có enrofloxacin. 4.2 Đề xuất Nên khảo sát mức độ tồn lưu của các kháng sinh thường dùng trong nuôi tôm để đề xuất giải pháp quản lý sử dụng phù hợp. Sử dụng enrofloxacin trong tôm nuôi trong thời gian 2 tuần với liều lượng 4 g/kg thức ăn là an toàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bower,P.R., Wooster, G.A., Leger, J.St., Babish, J.G. (1992). Pharmacokinetics of enrofloxacin in figerling Rainbow Trout (Oncorhynchus mykiss). J.Vet. Pharmacol. Therap. 15: 62-71. Bộ Thủy Sản (2004). Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2003 và biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2004. Chanratchakool, P., Turnbull, J.F., Funge-Smith, S., MacRae, I.H. và Limsuwan, C. (1998). Health management in shrimp ponds. Third edition. Published by AAHRI, Bangkok, Thailand,152 pages. Dario, L., Laura F., Emilio, G., Elisabette, P., Luigi, M., Anna, Z., Ettore, C. (2004). Long depletion time of enrofloxacin in Rainbow Trout (Oncorhynchus mykiss). Antimicrobial Agents and Chemotherapy 10: 3912-3917. Gore, S.R., Harms, C. A., Kukanich, B., Forsythe,J., Lewbart,G.A. and Papich, M.G. (2005). Enrofloxacin pharmacokinetics in the European cuttlefish, Sepia officinalis, after a single i.v. injection and bath administration. J.Vet. Pharmacol. Therap. 28:433-439. Intorre,L., Cecchini, S., Bertini, S., Cognetii varriale, A.M., Soldani,G., Mengozzi, G. (2000). Pharmacokinetics of enrofloxacin in seabass (Dicentrarchus labrax). Aquaculture 182: 49-59. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006:70 -78 Trường Đại học Cần Thơ 78 Nguyễn Thị Phương Nga (2004). Phân tích tình hình phân phối và sử dụng thuốc trong nuôi thủy sản tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Luận văn thạc sĩ , chuyên ngành nuôi trồng Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ về một số chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Plakas, S.M., El Said, K.R., Stehly, G.R. (1994). Furazolidone disposition after intravascular and oral dosing in the channel catfish. Xenobiotica 24: 1095-1105. Quyết định số 07/2005/QĐ-BTS ngày 24/2/2005 của Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản về việc ban hành danh mục hoá chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản. Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 8/12/1999 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2010. Samuelse, O.B., Solheim, E., Lunestad, B.T. (1991). Fate and microbiological effects of furazolidone in a marine aquaculture sediment.Sci Total Environ. 108: 275-283 Stoffregen, D.A., Wooster, G.A., Bustos, P.S., Bower, P.R., Babish. J.G. (1997). Multiple route and dose pharmacokinetics of enrofloxacin in juvenile Atlantic salmon. J.Vet. Pharmacol. Therap.20: 111-123. Timperio, A.M., Kuiper, H.A., Zolla,L. (2003). Identification of a furazolidone metabolite responsible for the inhibition of amino oxidases. Xenobiotica 33: 153-167.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf40tu_thuoc_9212.pdf
Luận văn liên quan