Khóa luận Khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ

Hoạt động đầu tư nước ngoài từ các quốc gia khác rót vốn vào Eurozone cũng sụt giảm bởi tình hình tài chính bất ổn của các nước này. Dòng vốn đầu tư giảm khiến cho kinh tế eurozone tăng trưởng chậm và lợi nhuận của các nhà đầu tư quốc tế cũng bị sụt giảm đáng kể. Phân tích dòng vốn FDI chảy vào Eurozone cho thấy sự sụt giảm từ năm 2008. Trong các quốc gia chịu hậu quả nặng nề từ khủng hoảng nợ công, Tây Ban Nha nhận được khoản FDI cao nhất vào năm 2007 với mức 148,7 triệu USD. Sau đó, con số này giảm dần qua các năm và đỉnh điểm là năm 2011 còn 23,7 triệu USD ( Nguồn: CIA The World Factbook). Tại Hy lạp, dòng vốn chảy vào nước này năm 2010 là 45 triệu USD, đến năm 2011, con số này chỉ bằng một nửa. Các nhà đầu tư quốc tế phải tìm môi trường mới để kinh doanh và phải đảm bảo nền kinh tế đó ổn định và khả năng sinh lời cao. Như vậy, nếu như cuộc khủng hoảng nợ công chỉ xảy ra tại một nước, các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư ở những nước lân cận, có cùng những điều kiện kinh tế và nhu cầu giống với nước khủng hoảng. Nhưng hiện tại, cả khu vực đồng tiền chung Châu Âu bị khủng hoảng thì vấn đề tìm kiếm ra thị trường đầu tư mới là hết sức khó khăn.

pdf91 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ và quyết đoán hơn trong việc giảm thiểu tác động của khủng hoảng nợ công và có những biện pháp giải quyết phù hợp. Trung Quốc với nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ cũng là một quốc gia có nhiều khả năng hỗ trợ cho Eurozone nhất. Tháng 4/2011, Trung Quốc có ý định mua trái phiếu của Hy Lạp và Bồ Đào Nha. Nước này cũng cam kết và khẳng định đã đầu tư nhiều tỷ USD vào trái phiếu chính phủ Châu Âu. Khủng hoảng nợ công Châu Âu khiến thế giới phải nhìn lại chặng đường phát triển của khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu- một khối kinh tế được biết đến bởi sự phát triển bền vững trong suốt thập kỷ qua. Khủng hoảng nợ công không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, đời sống xã hội của các quốc gia trong khu vực mà còn ảnh hưởng đến toàn thế giới. Để giải quyết khủng hoảng nợ công cần những biện pháp cụ thể tránh những ảnh hưởng nghiêm trọng tiếp tục xảy ra trong tương lai. 59 CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ 3.1. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 3.1.1. Duy trì tính ổn định của nền kinh tế vĩ mô 3.1.1.1. Kiềm chế lạm phát Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế. Nếu như lạm phát xảy ra ở mức cao, đồng tiền mất giá, khả năng quản lý của nhà nước thông qua tiền tệ bị vô hiệu hóa. Nguyên nhân là bởi nội tệ mất giá, sẽ không ai tin vào đồng nội tệ nữa mà thay vào đó là sử dụng ngoại tệ hoặc đầu tư vào vàng, bất động sản để tránh sự trượt giá của đồng tiền. Bên cạnh đó, các biểu thuế của nhà nước được áp dụng trong một thời gian nhất định sẽ không theo được mức độ tăng của lạm phát. Như vậy, lạm phát làm giảm tác dụng điều chỉnh kinh tế của chính phủ thông qua hệ thống thuế. Do vậy, chi tiêu ngân sách tăng cao, trong khi đó nguồn thu từ thuế giảm đi về mặt giá trị dẫn đến thâm hụt ngân sách ngày càng tăng cao, chính phủ phải vay nợ để tài trợ cho khoản thâm hụt này. Nếu ngân sách tiếp tục tăng cao, thâm hụt ngân sách càng nhiều và tạo ra một vòng luẩn quẩn giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, lạm phát tăng cao khiến cơ cấu nền kinh tế bị mất cân đối khi các nhà sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất những hàng hóa đang có xu hướng tăng giá cao, những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, khả năng thu hồi vốn nhanh thay vì những ngành sản xuất có chu kỳ dài và lâu thu hồi vốn. Tuy nhiên, kiềm chế lạm phát không có nghĩa là đẩy mức lạm phát về con số 0 mà phải giữ mức lạm phát vừa phải. Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, dưới 10%. Lạm phát khiến cho người đang vay nợ có lợi vì giá cả tài sản đều tăng lên, còn giá trị tiền tệ giảm xuống. Ngược lại, những người làm công, cho vay đều chịu thiệt hại. Khi đó, mức lạm phát vừa phải khiến chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầy vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Bởi vậy, nếu một quốc gia có thể duy trì mức độ lạm phát vừa phải có thể sẽ có lợi cho sự phát 60 triển của quốc gia đó. Lúc đó, lạm phát sẽ không còn là mối nguy hại đến kinh tế mà là công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế hiệu quả. 3.1.1.2. Giữ mức tăng trưởng ổn định Tăng trưởng ổn định là mức độ phát triển hiệu quả, bền vững của nền kinh tế. Biểu hiện là tốc độ tăng trưởng ở mức vừa phải trong một thời gian kéo dài, thường là 20-30 năm. Như vậy, các quốc gia không nên cố gắng theo đuổi mức tăng trưởng cao, quá nóng. Nguyên nhân là bởi tăng trưởng nóng tạo ra nhiều công ăn việc làm, sản lượng kinh tế tăng dẫn đến cung tăng trong khi đó cầu về hàng hóa không đổi. Từ đó, dẫn đến lạm phát cao và sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt, kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh. Bên cạnh đó, tăng trưởng nóng ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, sự tập trung lao động thành thị sẽ tạo nhiều hệ lụy khác cho xã hội. Nếu một nền kinh tế phát triển nóng sẽ rơi vào tình trạng suy thoái ngay sau đó. Mục tiêu trong ngắn hạn để đảm bảo tăng trưởng ổn định là thu hẹp giữa khoảng cách tiết kiệm và đầu tư vào khu vực công. Trong dài hạn, phải tăng cường kiềm chế lạm phát và không nên cố gắng nâng cao tăng trưởng. Mức đầu tư công cao tác động đến nhập siêu, tỷ giá hối đoái và lạm phát. Bên cạnh đó, các quốc gia phải áp dụng một loạt các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực đi kèm với dòng vốn nước ngoài trong khi vẫn khai thác tác động tích cực của nợ đến tăng trưởng: tăng dự trữ ngoại hối, thực thi chế độ tỷ giá ổn định, giảm nợ nước ngoài và tự do hóa trong giao dịch quốc tế. 3.1.1.3. Minh bạch tài chính công Trước hết, thông tin về các khoản thu chi của chính phủ phải chính xác, không được che giấu các khoản nợ hay các tín hiệu bất ổn trên thị trường. Nếu tình trạnh che giấu xảy ra, các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương cũng như dân chúng không thể biết được cán cân ngân sách quốc gia và không có biện pháp chi tiêu hợp lý. Người dân sẽ chi tiêu lãng phí mà không hề hay biết về mức thâm hụt ngân sách của chính phủ. Bên cạnh đó, việc minh bạch trong quản lý thu chi ngân sách còn góp phần chống lại nạn tham nhũng. Việt Nam cũng như một số quốc gia đang phát triển khác, nạn tham nhũng trở nên phổ biến và lấy đi khối tài sản công không nhỏ. Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp giống như một hồi chuông báo động về nạn tham nhũng của nước này và bài học kinh nghiệm cho các quốc gia 61 khác. Ngoài ra, việc minh bạch tài chính công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính trong tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra. Do đó, chính phủ phải luôn công bố tình trạng thâm hụt cán cân ngân sách nhà nước một cách trung thực để các tổ chức, cá nhân trong nước có kế hoạch chi tiêu hợp lý, giảm nhẹ gánh nặng cho chính phủ. 3.1.2.Thắt chặt hoạt động tài khóa 3.1.2.1. Kiểm soát và quản lý nợ công Quản lý nợ công phải quan tâm đến tỷ lệ nợ công trên GDP. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc tỷ lệ đó có vượt qua ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Để đảm bảo an toàn, các nước thường sử dụng tiêu chí sau để làm giới hạn vay và trả nợ: tỷ lệ nợ công trên GDP không vượt quá 50%-60% hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, các khoản phải trả cho nợ công không được vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho nền kinh tế. Theo khuyến cáo của WB và một số tổ chức tài chính trên thế giới, tỷ lệ nợ công an toàn là không vượt quá 50%GDP. Tỷ lệ này là tương đối phù hợp đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối quan hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân như tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, các quốc gia phải quan tâm đến kế hoạch trả nợ sao cho phù hợp, không để nợ quá hạn làm phát sinh thêm lãi suất và tăng gánh nặng trả nợ trong tương lai. Bên cạnh đó, các quốc gia phải phân biệt rõ ràng giữa giám sát và quản lý nợ công. Bởi giám sát là khả năng đánh giá, phân tích và kiến nghị còn quản lý là khả năng cho phép, xử lý phạt nếu vi phạm. Nếu một số đơn vị, tổ chức sử dụng nợ công không hợp lý cần có những chế tài xử phạt nghiêm minh. 62 3.1.2.2. Đầu tư hợp lý và hiệu quả Việc đầu tư kém hiệu quả do những nguyên nhân chính sau: cơ cấu đầu tư không hợp lý, quá trình đầu tư bị thất thoát, lãng phí, chất lượng đầu tư kém. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, chỉ số ICOR ( Incremental Capital Output Rate) là thích hợp nhất. ICOR đo lường hiệu quả đầu tư tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia tăng 1 đơn vị sản lượng hay nói cách khác, ICOR được tính bằng việc đầu tư hàng năm chia cho tăng trưởng GDP như một bằng chứng cho thấy tính hiệu quả của đầu tư. ICOR càng cao chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng thấp. Lấy Hy Lạp là một ví dụ về đầu tư phi hiệu quả. Năm 1981, Hy Lạp gia nhập liên minh Châu Âu. Tháng 1 năm 2001, Hy Lạp gia nhập cộng đồng eurozone với kỳ vọng sẽ trở thành cường quốc về kinh tế trên thế giới. Với sự nôn nóng này, Hy Lạp đầu tư quá nhiều và cơ sở vật chất, xây dựng cơ bản mà không tính đến khả năng thu hồi vốn đã gây ra khoản nợ lớn cho quốc gia này. Tiêu biểu là thế vận hội Athens năm 2004, các công trình xây dựng dàn trải, quy mô lớn, hiệu quả sử dụng vốn thấp và nạn tham nhũng hoành hành gây lãng phí khoản vốn vay quá lớn. Như vậy, vay vốn là một vấn đề không dễ nhưng quản lý và sử dụng nợ công sao cho hợp lý lại càng khó hơn. Do đó, phải có một cơ chế giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay hiệu quả để có nguồn trả nợ. Phải có kế hoạch chi tiêu cụ thể đối với các khoản vay, đầu tư vào từng lĩnh vực và kiểm tra để không sử dụng lãng phí. 3.1.3. Quản lý chặt chẽ hệ thống ngân hàng 3.1.3.1. Kiểm soát hoạt động tín dụng Ireland là một ví dụ điển hình cho việc không tuân thủ các quy định cho vay gây ra những khoản nợ xấu khổng lồ. Điều này dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nợ công xảy ra tại nước này. Do hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia nên khi hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, chính phủ phải hỗ trợ kịp thời để không sụp đổ. Chính bởi vậy, việc kiểm soát hoạt động tín dụng sẽ giúp cho các ngân hàng tránh được nguy cơ phá sản. Có rất nhiều giải pháp được đưa ra để lành mạnh hóa hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát nợ xấu, giám sát chặt chẽ các đối tượng cho vay và mức tăng trưởng tín dụng. Cùng với việc kiểm soát chất lượng tín 63 dụng còn có việc ban hành về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng cho khách hàng, cân đối cho vay trung và dài hạn từ nguồn vốn ngắn hạn. 3.1.3.2.Thiết lập cơ cấu phục hồi tối đa nợ xấu Nợ xấu của ngân hàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau trong đó nguyên nhân sâu xa nhất là nhiều đơn vị kinh doanh thua lỗ, gặp khó khăn về tài chính khiến các đối tác của doanh nghiệp phải gánh thêm khoản nợ khó đòi. Vì vậy, trước khi cho vay, các ngân hàng nên tìm hiểu kỹ lưỡng mục đích sử dụng vốn vay, bên cạnh đó, giám sát chặt chẽ đơn vị vay vốn đảm bảo rằng vốn vay được sử dụng đúng mục đích. Một khi các khoản nợ có dấu hiệu trở thành nợ xấu, các ngân hàng phải trích lập dự phòng giúp bù đắp khoản nợ không thể thu hồi được cũng như ngăn chặn nợ xấu xuất hiện. Để xóa nợ xấu, ngân hàng cũng có thể bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp. Ngoài ra, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng là một giải pháp giúp cho hệ thống ngân hàng tránh được khủng hoảng. Hệ thống ngân hàng sau khi được tái cấu trúc cần phải được giám sát và quản lý rủi ro chặt chẽ nhằm tránh tăng trưởng tín dụng quá nóng và tích tụ quá nhiều nợ xấu là tiền đề cho cuộc khủng hoảng tiếp theo. Một kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng có sự tham gia của đồng vốn nhà nước cần tuân thủ nguyên tắc các chủ ngân hàng phải là người chịu lỗ đầu tiên. Có như vậy mới không kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng mà chính phủ phải gánh chịu. Ngoài ra, các ngân hàng nên công bố số liệu một cách minh bạch, tránh trường hợp khủng hoảng thanh khoản xảy ra thì đã không thể cứu vãn nổi. Trước hết, các ngân hàng cần công bố thông tin về tài sản và nợ xấu, giúp giảm bất ổn của hệ thống và giúp chính phủ nhìn rõ hơn các rủi ro và chuẩn bị nguồn lực để ứng cứu. Tiếp theo là việc giải quyết các vấn đề của hệ thống ngân hàng phải nằm trong tổng thể một gói chính sách vĩ mô đúng đắn của chính phủ. 3.2. Thực trạng nợ công của Việt Nam 3.2.1. Nợ công của Việt Nam trong thời gian qua 3.2.1.1.Tỷ lệ nợ công Tại Việt Nam, thâm hụt ngân sách liên quan đến tỷ lệ đầu tư tăng cao. Tỷ lệ đầu tư của Việt Nam trong những năm qua trung bình 40-42% GDP trong đó tỷ 64 trọng đầu tư công chiếm 45 %. Do tỷ lệ đầu tư cao, tăng liên tục trong nhiều năm khiến ngân sách bị thâm hụt. Chính phủ phải đi vay để tài trợ thâm hụt ngân sách. Để hiểu rõ hơn về tỷ lệ nợ công, chúng ta xem xét tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2011 để thấy được sự tăng lên của tỷ lệ nợ công liệu có tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế. Hình 3.1: Tăng trưởng GDP tại Việt Nam từ 2004 đến 2011 tăng trưởng GDP (%) 7.7 8.5 8.2 5.3 6.2 5.3 6.8 5.8 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 tăng trưởng GDP (%) Nguồn: The World Factbook. Việt Nam mở cửa nền kinh tế được 25 năm và đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên mức 102 tỷ USD năm 2010. Việt Nam là nước đang phát triển với nhu cầu đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế, xây dựng chiếm phần lớn trong chi ngân sách. Để có thể chi cho lĩnh vực này đòi hỏi một lượng vốn lớn trong khi thu vào ngân sách là rất hạn chế. Vì vậy,vay nợ là biện pháp giúp Việt Nam có thêm vốn tăng cường phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu như Việt Nam không sử dụng các khoản vay đúng mục đích, tình trạng vay nợ tràn lan thì có thể sẽ tiếp tục nối tiếp theo các nước đang bị khủng hoảng nợ trong khối eurozone. Trong những năm qua, nợ công của Việt Nam liên tục tăng cao. Biểu đồ dưới đây cho thấy tỷ lệ nợ công/ GDP của Việt Nam từ 2007 đến 2011 65 Hình 3.2: Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam từ 2007 đến 2011 Tỷ lệ nợ công/GDP (%) 33 .8 36 .2 41 .9 57 .1 57 .3 0 10 20 30 40 50 60 70 2007 2008 2009 2010 2011 Tỷ lệ nợ công /GDP Nguồn: The World FactBook. Tính đến hết năm 2010, nợ công của Việt Nam đã tăng lên 55,2 tỷ USD, chiếm 57,1% GDP. Đến năm 2012, nợ công Việt Nam chiếm 57,3% GDP, đứng thứ 44 trên thế giới về tỷ lệ nợ công/GDP. Như vậy, tỷ lệ nợ công/GDP đã tăng gần gấp đôi từ 2007 đến nay, trong khi đó tăng trưởng GDP không vượt quá 7%. Nếu cứ tiếp tục tăng tỷ lệ nợ công như vậy thì đến năm 2016, mức nợ công của Việt Nam sẽ vượt mức 100% GDP. Nếu điều này xảy ra, Việt Nam sẽ gặp vô vàn khó khăn bởi nền kinh tế còn non kém phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ không đủ khả năng để chống trọi với khủng hoảng nợ Theo điều 2, khoản 1, luật quản lý nợ công của Việt Nam, cơ cấu nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. 66 Hình 3.3:Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 đến 2010 Cơ cấu nợ công VN 2006-2010 78.10% 21.90% nợ chính phủ nợ CP bảo lãnh và nợ CQ địa phương Nguồn: Bộ Tài Chính. Trong đó, tỷ trọng nợ nước ngoài và nợ trong nước trong tổng nợ chính phủ Hình 3.4: Tỷ trọng nợ nước ngoài và nợ trong nước trong tổng nợ chính phủ Nợ chính phủ 61.90% 38.10% nợ nước ngoài nợ trong nước Nguồn: Bộ Tài chính. Trong năm 2011, cơ cấu nợ chính phủ có nhiều thay đổi 67 Hình 3.5: Cơ cấu nợ Việt Nam năm 2011 cơ cấu nợ của Việt Nam 75% 7% 18% ODA Vay thương mại Vay ưu đãi Nguồn: Bộ Tài chính Trong nợ chính phủ, cơ cấu nợ trong nước và nợ nước ngoài như sau Hình 3.6: Cơ cấu nợ trong nước và nước ngoài trong tổng nợ chính phủ năm 2011 Nợ chính phủ năm 2011 58% 42% nợ trong nước nợ nước ngoài Nguồn: Bộ Tài chính. Điều đáng chú ý là nợ trong nước đang ngày càng có xu hướng tăng lên. Hàng năm, chính phủ phải trích 14-16% ngân sách nhà nước để chi trả nợ. Nhìn vào những biểu đồ trên cho thấy tuy nợ công Việt Nam vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng về lâu dài, chúng ta phải đánh giá trên khía cạnh quy mô cũng như các chỉ 68 tiêu về rủi ro kỳ hạn, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro đồng tiền thanh toán để thấy được tính bền vững của nợ công. Bảng cơ cấu nợ công dưới đây cho thấy cái nhìn tổng quát nhất về nợ công của Việt Nam Bảng 3.1: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ 2006 đến 2011 Cơ cấu khoản nợ Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Nợ chính phủ Tỷ USD 23.7 24.1 31.2 37.8 45.3 69 Nợ chính phủ %GDP 39 33.8 36.5 40.4 44.6 58.7 Nợ chính phủ % nợ công 85 68 76.2 79.2 82.1 Nợ nước ngoài của chính phủ Tỷ USD 14.6 17.3 18.9 23.9 25.1 Nợ nước ngoài của chính phủ % nợ 61.6 71.6 60.7 60 55.4 Nợ nước ngoài của khu vực công %GDP 26.7 28.3 25.1 29.3 N/A Nợ nước ngoài của khu vực công % nợ công 58.2 56.9 52.4 57.5 N/A Nguồn: Bộ Tài chính. Trong giai đoạn này, nợ chính phủ vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nước ngoài của Việt Nam. Nợ nước ngoài của chính phủ chủ yếu dưới hình thức ODA với lãi suất thấp, thời hạn dài và nhiều ưu đãi khác. Tính đến ngày 31/12/2011, nợ nước ngoài của Việt Nam vào khoảng 50 tỷ USD, chiếm 42% GDP năm 2011, còn lại là nợ chính phủ và nợ chính quyền địa phương. Trong đó, nợ từ nguồn vốn ODA chiếm 75% trong số nợ nước ngoài nói trên. Vấn đề đáng quan tâm là ODA 69 chủ yếu từ Nhật Bản. Trong khi giá trị đồng Yên ngày càng lên giá thì trị giá của các khoản nợ ngày càng tăng và nguy cơ không trả được nợ tăng cao. Xét về khía cạnh bền vững, nợ công Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát khi chủ yếu là khoản nợ được vay trong thời hạn dài, lãi suất ưu đãi, thời hạn vay là 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, mức lãi suất 0,75%/năm, các khoản vay của ABD có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn, lãi suất 1%/năm, các khoản vay của của Nhật Bản có thời hạn 30 năm, lãi suất khoảng 1-2%/năm. Tuy nhiên, chúng ta không thể chủ quan bởi chính phủ còn rất nhiều kế hoạch phải chi, đầu tư cần đến nguồn vốn vay nước ngoài trong khi chưa có kế hoạch trả nợ cho các khoản vay trong quá khứ. Trong nhiều năm nay, việc các nhà tài trợ tăng cam kết vốn ODA hàng năm thường được xem là tín hiệu đáng mừng cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, nghĩa vụ trả nợ chiếm tới một phần bảy thu ngân sách hàng năm là điều đáng phải suy nghĩ. Tỷ lệ nợ cao ảnh hưởng đến cân đối ngân sách. Việt Nam vay nợ khoảng 5,5 tỷ USD năm 2010 và 6 tỷ USD trong năm 2011 để bù đắp bội chi ngân sách. Những con số này cho thấy nghĩa vụ trả nợ sẽ tiếp tục nặng thêm trong những năm tiếp theo. Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt Nam năm 2010 là 580,91 USD. Con số này ở Trung Quốc là 713,6 USD, Indonesia là 743USD, Malaysia là 4184 USD và các quốc gia như Thái Lan và 2064 USD, Philippines là 1071 USD. Nếu so sánh như vậy, tỷ lệ nợ công tính trên đầu người của Việt Nam không cao so với trong khu vực. Tuy nhiên, nếu tính trong tương quan trong quá khứ thì tỷ lệ này đã tăng quá cao. Cụ thể, năm 2001, mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2001 xấp xỉ 112 tỷ USD, thì trong vòng 10 năm trở lại đậy, con số này đã tăng gấp năm lần. Một điều đáng lưu ý nữa là tại Việt Nam khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư an toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì con số này sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Năm 2011 là một năm đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam khi hãng xếp hạng tín dụng Fitch đã quyết định hạ bậc tín nhiệm của Việt Nam từ BB- xuống B+. Theo báo cáo của Fitch, hai tiêu chí đánh tụt hạng là định mức tín nhiệm đối với các khoản vay bằng đồng nội tệ, ngoại tệ và trái phiếu ngoại tệ của Việt Nam đều bị hạ 70 một bậc từ BB- xuống B+. Các khoản vay ngắn hạn vẫn được Fitch giữ ở mức B. Nguyên nhân tổ chức này hạ tín dụng dài hạn của Việt Nam là do nhu cầu sử dụng vốn bên ngoài của nền kinh tế tiếp tục tăng trong khi nguồn cung yếu đi. Ngoài ra, do khung chính sách kinh tế của Việt Nam hiện chưa thực sự nhất quán và hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém. Tháng 8/2011: S&P hạ xếp hạng tín dụng nội tệ của Việt Nam từ BB xuống BB- . Nguyên nhân là do hãng thay đổi các cơ sở tính toán đối với xếp hạng tín dụng quốc gia. Hãng hạ xếp hạng tín nhiệm đối với khoản vay dài hạn bằng tiền đồng nhưng vẫn giữ nguyên xếp hạng tín dụng ngoại tệ và nợ ngắn hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của Việt Nam ở mức BB- và B. 3.2.1.2.Vấn đề sử dụng nguồn vốn đi vay Hệ số ICOR phản ảnh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, do vậy, chỉ số ICOR càng cao càng đáng báo động. Trong giai đoạn 1991-1995, hệ số ICOR của Việt Nam là 3,5. Đến giai đoạn 2007-2008, con số này là 6,15. Trong đó, hiệu quả thấp của đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn và là nguyên nhân chính đẩy ICOR của Việt Nam lên cao. Mặc dù, ICOR của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam đã cao, nhưng hiệu quả đầu tư công còn thấp hơn nhiều. Trong giai đoạn 2006-2008, ICOR trong khu vực công là 8,0. Trong khi đó, chỉ số này ở khu vực ngoài nhà nước là 4,3. Từ con số này, chúng ta có cái nhìn khái quát về tình trạng và hiệu quả sử dụng vốn của khu vực công. Hệ số ICOR của đầu tư công thấp ngoài nguyên nhân vốn ngân sách nhà nước chủ yếu đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tác động đến GDP, còn do các yếu kém trong quản lý đầu tư công. Năm 2009, hệ số ICOR tăng lên mức 8,0 cao hơn gấp 2,5 lần với mức 3 mà các tổ chức quốc tế khuyến cáo, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nền kinh tế chỉ bằng một nửa so với các quốc gia trong khu vực châu Á. Trong cùng năm 2009, tại Hàn Quốc là 3,2 ; tại Trung Quốc là 4,1. ICOR của Việt Nam liên tục tăng qua các thời kỳ chứng tỏ hiệu quả đầu tư không những thấp mà còn sụt giảm. ICOR năm 2011 ước tính là 7,9 – cao gấp 1,5 lần năm 1996, cao gấp 1,2 lần năm 2001 và 1,3 lần năm 2006. Như vậy, trong giai đoạn 2006- 2011, hiệu quả đầu tư là 7,98 đồng để tạo ra thêm 1 đồng GDP. ICOR tăng cao, hiệu quả đầu tư thấp và giảm là một trong những yếu tố tiềm ẩn sâu xa của lạm phát tăng cao, lặp đi lặp lại và là nguyên nhân chính gây ra bội chi ngân sách, tăng nợ 71 công và nhập siêu...Năm 2011, theo số liệu của Bộ Tài chính đầu năm 2011, Việt Nam vay nợ 25 tỷ . Với con số này, nếu tính đến năm 2016, chính phủ không vay thêm đồng nào từ nước ngoài thì mỗi năm Việt Nam phải trả 1 tỷ 700 triệu USD nợ gốc cộng với khoản lãi là 250 triệu USD. Trong khi đó, tỷ giá giữa VND và USD ngày càng tăng cao thì gánh nặng lên nền kinh tế Việt Nam càng lớn. 3.2.2.Đánh giá thực trạng quản lý nợ công của Việt Nam 3.2.2.1.Ưu điểm Công tác quản lý nợ công tại Việt Nam trong những năm qua cũng đã đạt được những thành tựu đáng chú ý góp phần ổn định kinh tế và phát triển đất nước. Chính phủ thông qua uy tín của mình đã thu hút được lượng vốn lớn trong nước và nước ngoài thông qua hoạt động vay nợ, tạo được nguồn vốn lớn cho đầu tư và xây dựng cơ bản, khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, Việt Nam đang kiểm soát được nợ trong giới hạn an toàn theo quy định của WB là dưới 60% GDP. Kế hoạch trả nợ và lãi của chính phủ luôn đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Từ đó, góp phần giảm thiểu các vụ nợ quốc tế và gánh nặng cho thế hệ tương lai. Thông qua hoạt động mua bán trái phiếu, tín phiếu kho bạc để hút vốn, chính phủ đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thị trường mở. Đây là một kênh tài chính ưu việt giúp chính phủ có thể thực thi được chính sách tiền tệ, tài khóa hiệu quả. Đồng thời, hoàn thiện cấu trúc thị trường tài chính và tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu chính phủ cũng như thị trường vốn trong nước. Bên cạnh đó, chính phủ cũng quan tâm đến vấn đề nợ công và đưa ra các văn bản pháp lý về nợ công cũng như hoàn thiện phù hợp với nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, công cụ quản lý nợ công rõ ràng, cụ thể bao gồm Luật quản lý nợ công, chiến lược nợ dài hạn, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm của chính phủ. Cùng với sự ra đời của văn bản luật này, tình hình nợ công được đánh giá rõ ràng và minh bạch hơn bao giờ hết. Chính phủ đưa ra các mục tiêu về vay nợ, giải pháp huy động và sử dụng vốn vay hiệu quả, các mức an toàn cho từng thời kỳ. Đồng thời, chính phủ cũng thực hiện nguyên tắc thống nhất quản lý nợ chính phủ, nợ quốc gia trên cơ sở phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan quản lý. 72 3.2.2.2.Nhược điểm và nguyên nhân Quản lý nợ công không chỉ là biện pháp của quản lý tổng thể kinh tế vĩ mô của quốc gia mà là một thành phần của quản trị công. Do vậy, quản lý nợ công có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các giải pháp kinh tế quốc gia. Tại thời điểm hiện tại, nợ công của Việt Nam có nhiều rủi ro lớn: đầu tư kém hiệu quả và bộ phận của nợ công không được thống kê rõ ràng. Thị trường trái phiếu trong nước còn hạn chế nên tỷ lệ huy động vốn thông qua trái phiếu còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Quản lý nợ công ở Việt Nam dường như chỉ nằm trong tay chính phủ và hệ thống chính quyền địa phương. Có nghĩa là chỉ nằm trong tay các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực công. Trong khi đó, các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước chưa có quyền tham gia vào vấn đề này. Như vậy, hiệu quả quản lý nợ công là khó đạt được. Ngưỡng an toàn trong nợ công tại Việt Nam gần như rất khó xác định. Có thời điểm nợ công của nước ta khoảng 30 %- 40% GDP. Khi đó, chính phủ cho rằng phải đạt mức 50% mới mất an toàn. Tuy nhiên, khi đến năm 2011, nợ công nước ta đã vượt mức 50% GDP thì chính phủ cho rằng mức 60% GDP mới vượt mức an toàn. Như vậy, ngay cả chính phủ cũng chưa xác định được ngưỡng an toàn cụ thể cho quốc gia thì khả năng kiểm soát nợ công là rất khó. Bên cạnh đó, trong báo cáo của chính phủ, chúng ta thấy có nguồn chi để trả nợ nhưng không thấy có nguồn thu từ việc vay nợ. Vậy hiệu quả của dự án đầu tư được đánh giá thấp và không phù hợp với chi phí đầu tư. Nói cách khác, chính phủ không xem xét đến nguồn trả nợ được lấy từ việc sử dụng nợ vay. Hiệu quả sử dụng vốn vay thấp bằng chứng là ICOR tăng cao đặc biệt là đối với khu vực công. Nguyên nhân Vai trò huy động nguồn vốn ODA của chính phủ còn thụ động, trong đó, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải thông qua hai hệ thống : thủ tục trong nước và thụ tục với nhà tài trợ. Vì vậy, chi phí đầu vào các dự án tăng cao. Ngoài ra, phân bổ vốn còn dàn trải, chủ trương huy động và sử dụng vốn chưa gắn kết với ngưỡng an toàn nợ. 73 Khả năng quản lý và giám sát chưa chặt chẽ. Biểu hiện là đầu tư bừa bãi, không tính lợi ích, dấu hiệu của tham nhũng. Bên cạnh đó, chính quyền không thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ cắt giảm đầu tư công hoặc cắt giảm không hợp lý. Theo số liệu của tổng cục thống kê, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước trong 9 tháng đầu năm 2011 là 131.364 tỷ đồng, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều dự án bị cắt giảm vốn đầu tư không phù hợp và đột ngột. Cách thống kê nợ của Việt Nam chỉ liệt kê những khoản nợ do chính phủ đi vay mà không kể đến các món nợ do khối công ty quốc doanh đi vay mà nếu công ty quốc doanh không trả được nhà nước phải trả thay. Mặc dù các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần đo lường chính xác hơn, rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của chính phủ. Quyền hành các chính quyền còn chồng chéo, năng lực cần được cải thiện và cần có cơ chế cảnh báo sớm nguy cơ khủng hoảng nợ. 3.3.Một số giải pháp để kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ công tại Việt Nam 3.3.1.Tăng cường quản lý nhà nước về nợ công Khủng hoảng nợ công Châu Âu đang làm thức tỉnh thế giới về việc tăng cường tính ổn định nền kinh tế vĩ mô, thắt chặt tài khóa để giảm thiểu nợ công. Cũng như Hy Lạp, tỷ lệ nợ công ở Việt Nam trong những năm qua luôn đạt mức trên 60% GDP – vượt mức khuyến cáo của WB dành cho các quốc gia đang phát triển. Điều đó cũng là một lưu ý cho Việt Nam trong quá trình ký kết các thỏa thuận nợ công cũng như chính sách vay nợ hợp lý bởi mức nợ của Việt Nam dù đang trong tầm kiểm soát nhưng vẫn có thể gặp phải các cú sốc không lường được như GDP thấp hơn dự tính, lạm phát tăng cao... Việt Nam nên sử dụng chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, ưu tiên sử dụng chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế phát triển. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng cao khi Việt Nam dành nhiều khoản cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà chưa thu được hiệu quả hợp lý. Do đó, ngay tại thời điểm này, chúng ta phải có những biện pháp nghiêm túc duy trì tỷ lệ vay nợ chính phủ ở mức an toàn và sử dụng vốn vay hợp lý để tránh cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra trong tương lai. Hiện nay, nước ta có rất nhiều công ty và tập đoàn lớn hoạt động dưới sự bảo trợ của nhà nước. Các đơn vị này được trực tiếp sử dụng vốn vay và không tính toán 74 đến khả năng trả nợ của cho chính phủ. Nếu không có sự quản lý vốn vay chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động không hiệu quả do nhận được sự bao cấp của nhà nước. Tập đoàn Vinashin là ví dụ điển hình với khoản nợ lên đến 80.000 tỷ đồng. Chính vì vậy, nếu không có biện pháp giám sát chặt chẽ cũng như giảm bớt sự bảo hộ, để các tổ chức này tự lực cánh sinh thì các khoản nợ của chính phủ ngày càng tăng cao. Tại Châu Âu, do lo sợ hiệu ứng domino xảy ra ảnh hưởng đến các quốc gia khác nên đã phải lập quỹ cứu trợ và như vậy, các nước này có một chiếc đệm an toàn nếu như khủng hoảng nợ xảy ra. Yếu tố này gây ra tâm lý chủ quan, ỷ lại và hiệu quả chi tiêu kém. Đây là bài học đắt giá từ cuộc khủng hoảng này. Bên cạnh đó, chính phủ cũng phải chú trọng đến các khoản vay và cho vay lại hoặc bảo lãnh. Bởi những khoản vay này được huy động trên thị trường vốn quốc tế trong trường hợp doanh nghiệp không đủ uy tín để đứng ra vay. Khi đó, chính phủ phải xem xét đến tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như tính hiệu quả của dự án đầu tư để đứng ra vay và bảo lãnh. Nếu như chính phủ lơ là trong khâu thẩm định dự án thì hiệu quả rất nghiêm trọng. Chính phủ sẽ phải đứng ra chịu trách nhiệm, các khoản nợ tư biến thành nợ công. Như vậy, việc cho vay lại hoặc bảo lãnh phải hết sức cẩn trọng và chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia và phải thường xuyên kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay bởi trong mọi trường hợp ngân sách sẽ phải gánh chịu hậu quả. 3.3.1.1.Xây dựng chính sách vay nợ công hợp lý Chính sách vay nợ công hợp lý trước hết được biểu hiện thông qua chức năng giám sát nợ công của nhà nước. Trước hết, cần có một quan điểm thống nhất và rộng mở về nợ công. Theo đó, nợ công không chỉ bao gồm nợ chính phủ, nợ chính quyền địa phương, nợ do chính phủ bảo lãnh mà còn bao gồm nợ của ngân hàng Phát triển Việt Nam và nợ của doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn hoặc giữ vốn chi phối. Bởi nếu như doanh nghiệp này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì người đứng ra thanh toán sẽ là chính phủ. Nếu theo điều 2 khoản 1 luật quản lý nợ công thì phạm vi của nợ công là quá hẹp. Trên thực tế, không chỉ có những đối tượng trong khoản này mới tham gia sử dụng nợ công. Đồng thời, nếu thêm nhiều đối tượng cũng phải có những biện pháp để tránh trùng lặp, chồng chéo tổng số nợ. 75 Về chính sách nợ công, cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính sách và chính sách đó được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học nào. 3.3.1.2. Đảm bảo tính bền vững trong quy mô và tốc độ tăng trưởng hợp lý Để đạt được mục tiêu trên, chính phủ cần giám sát chặt chẽ tỷ lệ nợ công. Các chỉ tiêu nợ công cũng như các chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội và ngân sách nhà nước nên hướng đến kế hoạch dài hạn. Để kiểm soát nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là mức an toàn trong đó quan trọng là tỷ lệ nợ công/GDP và nợ nước ngoài trên GDP. Ngoài ra, chính phủ phải phân tích rõ bản chất của nợ công đặt trong mối quan hệ với cơ cấu nợ, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, dự trữ quốc gia và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Trong lịch sử, khủng hoảng nợ công xảy ra ở những nước có tỷ lệ nợ công tương đối thấp như Argentina năm 2001 với tỷ lệ nợ công là 45% GDP, trong đó; khủng hoảng Thái Lan 1996 với tỷ lệ nợ công là15% GDP. Chính phủ phải có kế hoạch trả nợ hợp lý. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều quốc gia có tỷ lệ nợ công cao nhưng không rơi vào hoàn cảnh vỡ nợ. Nguyên nhân là bởi họ chi tiêu công hợp lý cùng với kế hoạch trả nợ đã được lập sẵn và thực hiện theo đúng kế hoạch đó. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển ổn định, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ. Do nhu cầu hội nhập kinh tế, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nợ công để đáp ứng nhu cầu vốn đang tăng cao. Tuy nhiên, gia tăng nợ công gây ra những tiềm ẩn rủi ro với ngân sách nhà nước, nhất là rủi ro về tài khóa. Do vậy, để giảm sự tăng nhanh của tỷ lệ nợ công, chính phủ cần kích thích đầu tư các nguồn vốn của khu vực tư nhân và phát triển vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. 3.3.1.3. Kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả việc sử dụng các khoản nợ công Kiểm soát chặt chẽ được thể hiện rõ ràng nhất qua việc minh bạch tài chính công. Một trong những lý do khiến Hy Lạp rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công là do hành vi che giấu thông tin và nạn tham nhũng có hệ thống. ở Việt Nam Nạn tham nhũng không còn là khái niệm xa lạ và biện pháp chống tham nhũng tối ưu 76 nhất là công khai thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc công khai thông tin nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra. Công khai, minh bạch còn được thực hiện thông qua đấu thầu dự án công khai, minh bạch, tránh tình trạng cơ chế xin cho dự án. Cần có chế độ hỗ trợ hơn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng cách để các doanh nghiệp này chịu trách nhiệm đấu thầu các dự án đầu tư nhiều hơn thay cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả sử dụng vốn vay là yếu tố quan trọng nhất để tạo nguồn trả nợ cho khoản vay. Sử dụng nợ công phải được chi cho đầu tư phát triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quá kinh tế mới được đưa vào đầu tư. Chính phủ cần thẩm định kỹ càng, tránh đâu tư dàn trải không hiệu quả và tình trạng đọng vốn xảy ra. Để đảm bảo hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là : không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đảm bảo khả năng trả nợ. Đồng thời, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. 3.3.2. Đảm bảo chính sách tài khóa bền vững 3.3.2.1.Trong ngắn hạn Chính phủ nên áp dụng chính sách tài khóa nhằm giữ mức tổng thu vào ngân sách ổn định, không tăng, giảm để không tăng thêm gánh nặng cho nền kinh tế. Đối với chính sách quản lý nợ, không nên làm tăng quy mô nợ trong cả nước và nợ nước ngoài. Đặc biệt chú ý đến quản lý rủi ro nợ vay nhằm tránh được tình trạng không phát hành được các công cụ nợ và không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ. 3.3.2.2.Trong dài hạn Chính phủ nên thực hiện những biện pháp kinh tế quyết liệt nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và hướng tới giải pháp bền vững. Một trong 77 những chính sách mà chính phủ nên hướng đến là sử dụng chính sách tài khóa mở rộng với các gói kích cầu nhằm hỗ trợ lãi suất, kích thích đầu tư. Bên cạnh đó, chính phủ phải đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần chọn lọc kỹ hơn khi triển khai các gói kích thích kinh tế bổ sung, chỉ ưu tiên hỗ trợ những ngành, lĩnh vực sản xuất tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, cần có các biện pháp cải cách hành chính phù hợp. 3.3.3.Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng 3.3.3.1. Quản lý nợ xấu ngân hàng Kinh tế suy thoái, vấn đề quản lý nợ xấu trở thành mối lo hàng đầu của các doanh nghiệp. Nhu cầu xử lý nợ xấu và tối đa hóa lợi nhuận cho các ngân hàng giúp ngăn chặn khủng hoảng hệ thống tài chính. Có thể nói, nợ xấu là một bộ phận bình thường trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng tỷ lệ nợ xấu bao nhiêu là bình thường thì còn phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu quá cao khiến ngân hàng vỡ nợ thì nó sẽ kéo theo sự sụp đổ của nhiều ngân hàng khác. Đối với Việt Nam, do ảnh hưởng của chính sách bao cấp mà chính phủ dành cho các ngân hàng quốc doanh cũng như sự dựa dẫm của các ngân hàng cổ phần thương mại đã khiến cho tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng ngày một tăng cao. Trước hết, để giải quyết dứt điểm nợ xấu cần phải xác định được tiêu chí phân loại nợ. Để quản lý nợ xấu, tối đa hóa lợi nhuận các ngân hàng cần phải kiểm soát mục đích sử dụng các khoản vay của doanh nghiệp. Để làm được điều này, ngân hàng cần có các bước thẩm định tín dụng cụ thể, có chứng từ vay vốn rõ ràng cũng như việc giám sát tín dụng chặt chẽ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần trích lập dự phòng khi có những khoản phát sinh phải thu khó đòi. Thêm vào đó, doanh nghiệp có thể bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp. Đây có thể coi là phương án nhanh nhất để xử lý nợ xấu. Chính phủ không nên áp dụng trần lãi suất huy động. Trong giai đoạn hiện nay, việc bỏ trần lãi suất là điều cần thiết bởi hành động này sẽ giải quyết được nhu cầu thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Khi áp dụng chế độ trần lãi suất huy động, 78 người dân không hứng thú với việc gửi tiền vào hệ thống ngân hàng bởi mức lạm phát thực tế còn cao hơn lãi suất huy động. Do vậy, dân chúng sẽ đầu tư vào ngoại tệ, bất động sản, vàng ...gây những biến động mạnh cho kinh tế. Khi đó, nguồn vốn huy động của ngân hàng bị khan hiếm, do vốn vay hạn hẹp nên các ngân hàng đánh mức lãi suất cao vào các doanh nghiệp. Như vậy, kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế bị ách tắc khiến các doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn ở chợ đen. Vô hình chung, việc áp dụng trần lãi suất đã kích thích thị trường chợ đen phát triển và suy giảm nhu cầu đầu tư sản xuất. Như vậy, trần lãi suất gián tiếp đẩy nền kinh tế đến mức trì trệ. Trường hợp ngược lại, nếu trần lãi suất được dỡ bỏ, các ngân hàng có quyền tự do huy động mức vốn mà mình đề ra. Khi huy động lãi suất ở mức cao kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng và lãi suất cho vay cũng tăng cao tương ứng. Khi huy động lãi suất ở mức cao, các ngân hàng và doanh nghiệp phải có phương án sản xuất kinh doanh tốt mới dám vay, còn doanh nghiệp không đủ điều kiện thì không dám đi vay và chỉ dám hoạt động cầm chừng. Khi đó, nhu cầu vốn sẽ giảm và ngân hàng sẽ hạ lãi suất đầu vào và đầu ra. Tóm lại, ngân hàng nhà nước cần để lãi suất do thị trường quyết định và điều tiết, có như vậy hoạt động của ngân hàng mới được phát triển. Đồng thời, ngân hàng nhà nước nên nới lỏng tái cấp vốn cho ngân hàng. Ngân hàng nhà nước nên mở rộng và nới lỏng vai trò của mình trong khâu tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại. 3.3.3.2.Mua lại và sáp nhập ngân hàng Hoạt động M&A đang trong giai đoạn đầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, ngành ngân hàng là ngành đi đầu với những thương vụ lớn với 15 vụ sát nhập từ 2008 đến 2010 thành công chiếm khoảng 30% tổng giá trị các thương vụ. Việt Nam đang từng bước nỗ lực tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn vì nợ xấu. Nợ xấu do tăng trưởng tín dụng tăng quá nhanh trong nhiều năm. Do thâm hụt thương mại và lạm phát ở mức cao nhất Châu Á đã khiến người dân ưu tiên gửi tiền tiết kiệm ngắn ạn và nguồn tiền này lại được ngân hàng sử dụng để cho vay dài hạn. Đồng thời, với quyết định tăng vốn điểu lệ của ngân hàng thương mại lên mức 3000 tỷ đồng là điều không dễ với hầu hết các ngân hàng. Giá trị các thương vụ sáp nhập trong năm 2010 khoảng 20-180 triệu USD tương đương với 1,2 -1,5 lần giá trị ghi sổ so với cùng kỳ năm trước. Một đặc điểm khác trong 79 năm 2010, không có ngân hàng Việt Nam nào tham gia mua cổ phần của các ngân hàng nước ngoài. Với con số tăng trưởng tín dụng năm 2010 là 28%, các ngân hàng trong nước đang có xu hướng tập trung phát triển nội tại doanh nghiệp và chú trọng vào thị trường trong nước. Tuy nhiên, để hoạt động M&A hiệu quả, trước hết chỉ sáp nhập ngân hàng nhỏ với ngân hàng lớn. Nước ta hiện nay đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng thực sự mạnh. Các ngân hàng đã phát triển nhanh theo chiều rộng, mở rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn. Cùng với đó, các ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà không phát triển sản phẩm tiện ích kèm theo. Các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng công tác quản trị lại không theo kịp. Giải pháp là sáp nhập những ngân hàng nhỏ vào ngân hàng lớn để nâng cao năng lực quản trị là cần thiết. Việc sáp nhập này phải dựa theo tiêu chí thị trường. Như vậy, những ngân hàng nào hội đủ ba điều kiện : đủ vốn theo quy định, có hệ thống kiểm soát rủi ro tốt và công khai minh bạch thì mới được duy trì. Việc làm này sẽ khiến cho công tác quản trị, điều hành ở các ngân hàng tập trung và dễ quản lý hơn. Hơn nữa, khi hệ thống ngân hàng đủ mạnh sẽ tạo ra giá trị lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, các ngân hàng nên tôn trọng nguyên tắc tự nguyện trong việc giải quyết, sáp nhập trên cơ sở giá trị thị trương giữa các ngân hàng với nhau. Nợ xấu do tăng trưởng tín dụng tăng quá nhanh trong nhiều năm. Do thâm hụt thương mại và lạm phát ở mức cao nhất Châu Á đã khiến người dân ưu tiên gửi tiền tiết kiệm ngắn ạn và nguồn tiền này lại được ngân hàng sử dụng để cho vay dài hạn. Đồng thời, với quyết định tăng vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại lên mức 3000 tỷ đồng (theo Nghị định số 10/2011/NĐ-CP vào ngày 26/1/2011) là điều không dễ với hầu hết các ngân hàng. Giá trị các thương vụ M&A trong năm 2010 khoảng 20-180 triệu USD tương đương với 1,2 -1,5 lần giá trị ghi sổ so với cùng kỳ năm trước. Một đặc điểm khác trong năm 2010, không có ngân hàng Việt Nam nào tham gia mua cổ phần của các ngân hàng nước ngoài. Với con số tăng trưởng tín dụng năm 2010 là 28%, các ngân hàng trong nước đang có xu hướng tập trung phát triển nội tại doanh nghiệp và chú trọng vào thị trường trong nước. Bước sang năm 2011, làn sóng M&A ngày càng sôi động hơn, thương vụ M&A giữa Ngân hàng LienViet Bank và Công ty dịch vụ Tiết kiệm bưu điện đã đánh dấu một bước 80 phát triển rất mạnh mẽ cho làn sóng M&A tại Việt Nam. Đặc biệt là trong quý 1 năm 2012 đã có thêm các vụ M&A như Ngân hàng Ngoại Thương Vietcombank đã bán 15% cổ phần cho ngân hàng MiZuho thuộc tập đoàn Mizuho…Tuy nhiên, để hoạt động M&A hiệu quả, trước hết chỉ sáp nhập ngân hàng nhỏ với ngân hàng lớn. Nước ta hiện nay đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng thực sự mạnh. Các ngân hàng đã phát triển nhanh theo chiều rộng, mở rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn. Cùng với đó, các ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà không phát triển sản phẩm tiện ích kèm theo. Các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng công tác quản trị lại không theo kịp. Giải pháp là sáp nhập những ngân hàng nhỏ vào ngân hàng lớn để nâng cao năng lực quản trị là cần thiết. Việc sáp nhập này phải dựa theo tiêu chí thị trường. Như vậy, những ngân hàng nào hội đủ ba điều kiện : đủ vốn theo quy định, có hệ thống kiểm soát rủi ro tốt và công khai minh bạch thì mới được duy trì. Việc làm này sẽ khiến cho công tác quản trị, điều hành ở các ngân hàng tập trung và dễ quản lý hơn. Hơn nữa, khi hệ thống ngân hàng đủ mạnh sẽ tạo ra giá trị lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, các ngân hàng nên tôn trọng nguyên tắc tự nguyện trong việc giải quyết, sáp nhập trên cơ sở giá trị thị trương giữa các ngân hàng với nhau. Để có thể tiến hành thương vụ M&A ngân hàng được thành công bao gồm chiến lược rõ ràng, tìm cơ hội tiềm ẩn, thẩm định tài chính và giám sát, nghiên cứu và có kế hoạch cụ thể. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần đưa ra những giải pháp vĩ mô và vi mô cho hoạt động M&A được phát triển một cách tốt nhất, đảm bảo cả trước và sau M&A được thành công tốt đẹp. Trước hết, Chính phủ cần hoàn thiện chính sách và khung pháp lý điều chỉnh M&A: thủ tục thông báo M&A tự động tho tiêu chí kết hợp giữa thị phần và quy mô vốn điều lệ giữa các ngân hàng tham gia, điều này sẽ giúp cho các ngân hàng có thể giải quyết vấn đề lúng túng trong việc xác định mình có thuộc trong diện nộp hồ sơ thông báo hay không…Chú trọng hơn trong việc kiểm soát tập trung kinh tế bằng việc nâng cao công tác quản lý của các cơ quan ban ngành trong tất cả các khâu về hoạt động M&A. Trước tình hình kinh tế như hiện nay, cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính đang diễn ra gay gắt, không chỉ đối với các tổ chức trong nước mà với cả các tổ chức nước ngoài, do đó, mỗi ngân hàng cần có những biện pháp để bảo vệ cho chính bản thân mình trước khả 81 năng bị mua lại. Từ đó, các Ngân hàng cần chú trọng hơn việc xác định mục tiêu khi thực hiện hoạt động M&A cũng như việc phân tich kỹ lưỡng đối tác, thận trọng hơn trong quá trình đàm phán để có thể những bước định giá doanh nghiệp mục tiêu được tốt nhất và chính xác nhất, có như vậy mới có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay với những biến động hết sức phức tạp của thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động tài chính, chứng khoán đã khiến các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn. Để có thế thoát khỏi tình trạnh này, các ngân hàng công ty chứng khoán đã thực hiện việc bán lại cổ phần cho các cổ đông mới, thường là các nhà đầu tư nước ngoài- đây cũng là cơ hội để các ngân hàng trong nước được tiếp xúc và trau dồi kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản trị. Đây là một xu thế tất yếu trong tương lại, và sẽ nở rộ trong ngành tài chính nhất là lĩnh vực Ngân hàng. Theo nhận định của các chuyên gia thì hoạt động M&A sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn và sôi động hơn khi mà nền kinh tế hiện nay khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án bất động sản không có nguồn tài chính để triển khai cần được chuyển nhượng…Do đó, mỗi ngân hàng cần có những chiến lược cụ thể để bảo vệ cho mình, những ngân hàng có cơ sở bền vững thì sẽ thực hiện được mục tiêu tăng quy mô, giảm thiểu chi phí, mở rộng thị trường, hợp lực cạnh tranh được tốt hơn; ngược lại những ngân hàng vị thế cạnh tranh còn yếu kém, tất yếu sẽ trở thành mục tiêu của các ngân hàng lớn hay nói cách khác sẽ trở thành thành viên của các ngân hàng lớn thông qua hoạt động M&A. Như vậy, hoạt động M&A là xu thế tất yếu trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ khi mà các tổ chức tài chính ngày càng gia tăng nhưng năng lực cạnh tranh chưa cao, quy mô vốn còn thấp. Trong cuộc đua này, ngân hàng phát triển mạnh sẽ khẳng định được đẳng cấp và thương hiệu, còn những ngân hàng kém phát triển sẽ bị thôn tính hoặc phá sảnh. Để có thể đứng vững và tăng hiệu quả cạnh tranh thì việc thực hiện hoạt động M&A sẽ giúp các ngân hàng tận dụng được lợi thế của nhau và tăng cường hiệu quả kinh tế nhờ quy mô tăng thị phần, giảm chi phí… KẾT LUẬN 82 Khủng hoảng nợ công đang là mối quan tâm hàng đầu của tất cả quốc gia trên thế giới bởi ảnh hưởng nghiêm trọng của nó tới đời sống, kinh tế, xã hội của một quốc gia. Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu gây ra những tác động đến nền kinh tế khu vực và thế giới: đồng euro sụt giảm về giá trị, hoạt động xuất nhập khẩu cũng như đầu tư nước ngoài sụt giảm, lạm phát, thất nghiệp tăng cao. Bên cạnh đó, thông qua cuộc khủng hoảng nợ này, các nước đang phát triển như Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học quý báu trong kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ công. Việt Nam là một nước đang phát triển với nhu cầu về lượng vốn lớn dành cho xây dựng cơ bản . Do vậy, Việt Nam phải huy động nguồn vốn trong nước và cả nước ngoài. Trong những năm gần đây, con số về tỉ lệ nợ công của Việt Nam ngày càng cao, hiệu quả sử dụng vốn vay chưa thực sự hiệu quả khi vẫn để xảy ra thất thoát cũng như chưa thu hồi được vốn ban đầu. Nếu trong những năm tới, Việt Nam không có những biện pháp khắc phục tình trạng nợ công như hiện nay thì rất có thể Việt Nam sẽ nối theo bước chân của Hy Lạp và các nước Châu Âu đang khốn đốn trong tình cảnh nợ nần. Những bài học mà Việt Nam nên lưu ý, áp dụng đó là : Tăng cường trách nhiệm và hiệu quả quản lý nợ công, có kế hoạch chi tiêu và đầu tư hiệu quả, minh bạch hóa vấn đề nợ công, có kế hoạch trả nợ phù hợp. và đặc biệt chú ý đến vai trò và hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việt Nam cần tiếp thu những bài học này để từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng nợ công ngày càng tăng. Nợ công không xấu nhưng vấn đề là nhà nước cần cân nhắc, tính toán đến mức nợ công bao nhiêu là phù hợp , đồng thời có kế hoạch cụ thể trong vay nợ sử dụng và hoàn trả nợ công. Có như vậy, nền kinh tế mới phát triển theo đúng hướng cũng như đời sống của nhân dân mới thực sự tăng. 83 DANHMỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A.SÁCH VÀ GIÁO TRÌNH THAM KHẢO 1.Samuelson Paul A., Nordhalls William D.,(2007), Kinh tế học, NXB Tài chính. 2.Detragiache, Enrica, and Antonio Spilimbergo, 2001, “Crisis and Liquidity : Evidence and Interpretation” IMF Working Paper No.01/2 3.IMF Staff Papers Vol.54, No.2 , 2007. 4.Public Finance in EMU 2009.. 5.Trần Kim Chung , Viện Nghiên Cứu quản lý kinh tế trung ương , “ Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2011 – Vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài” 6. Lê Thị Minh Ngọc, Học viện ngân hàng “ Nợ công – sự tác động đến tăng trưởng kinh tế và gánh nặng lên thế hệ tương lai” 7.From Financial Crash to Debt Crisis ,Carmen M. Reinhart and Kenneth S. Rogoff ,NBER Working Paper No. 15795 .March 2010 B. WEBSITE VÀ CÁC TÀI LIỆU KHÁC 8. Bản tin nợ nước ngoài, Cục quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính. 10.European Economy , Economic Papers 321 / May 2008 11. Standard and Poor’s (2002), Sovereign Default : Moving Higher Again in 2003 12. Tạp chí đảng cộng sản 13. 14. 15. 16. 17. 18. 84 PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhoa_luan_thu_trang_7422.pdf