Khóa luận Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Điền hải, huyện Phong điền, tỉnh thừa thiên Huế

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời. Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp.  Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng thôn. Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong xã. Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hằng năm. Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây dựng NTM với xã bạn. Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư xây dựng NTM xã.

pdf104 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2044 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Điền hải, huyện Phong điền, tỉnh thừa thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B KTNN 64 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Vì vậy, cần phải duy trì hình thức đóng góp tiền mặt và phát huy hơn nữa sự tham gia của người dân thông qua các hình thức như tận dụng nguyên vật liệu tại chỗ, đóng góp ngày công lao động và đóng góp ý kiến. 2.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM  Yếu tố từ phía người dân Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM đang được phát huy, thể hiện sự đồng tình hưởng ứng trong các hoạt động xây dựng NTM như hiến đất, hiến tài sản, đóng góp công xây dựng đường GTNT và các công trình phúc lợi xã hội khác. Người dân ngày càng nhận thức và phát huy được vai trò của mình, họ tích cực tham gia các hoạt động như tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập kinh tế cho hộ gia đình; Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; Giữ gìn an ninh trật tự; Giữ gìn vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, người dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc tham gia xây dựng NTM. Do đó, vẫn còn tồn tại một số thực trạng: Một là, người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực vào việc xây dựng NTM. Thường thì tham gia theo phong trào và mang tính hình thức. Hai là, người dân vẫn chưa nhận thức được vai trò của mình đối với việc tham gia xây dựng NTM. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước cho địa phương mình, là việc của cấp trên chứ không phải là việc của mình. Nhận thức của người dân là yếu tố quan trọng, vì nó có tác động lớn đến sự tham gia của người dân. Để thay đổi được nhận thức của người dân về vấn đề này không phải là một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình. Và nó cần sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, từ tăng cường công tác tuyên truyền để thay đổi nhận thức của người dân.  Yếu tố hộ gia đình Khóa luận sẽ tiến hành so sánh mối tương quan giữa độ tuổi và nghề nghiệp với mức độ quan tâm của người dân đối với việc tham gia xây dựng NTM: SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 65 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Biểu đồ 7: Ảnh hưởng của độ tuổi đến mức độ quan tâm của người dân trong việc xây dựng NTM (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016) Chính sách NTM thường hướng đến người dân, tuy nhiên những người trẻ và người già thường ít quan tâm đến việc xây dựng NTM. Còn những người từ độ tuổi từ 35 đến 55 tuổi thường quan tâm nhiều hơn. Vì đa số những người ở độ tuổi này thường có ý thức cao và hiểu biết nhiều hơn, nên họ thường quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng NTM. Và họ chính là những lực lượng nòng cốt, tiên phong trong việc xây dựng NTM. Biểu đồ 8: Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến mức độ quan tâm của người dân trong việc xây dựng NTM (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016) SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 66 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Quả biểu đồ trên, chúng ta thấy được CB, CC, VC quan tâm đến việc xây dựng NTM nhiều nhất, vì tính chất đặc thù của nghề nghiệp, những người có trình độ học vấn cao thường nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ thường nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách NTM hơn. Tiếp theo đó số người làm nông cũng rất quan tâm đến việc xây dựng NTM vì họ là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi chương trình NTM. Và những người công nhân, buôn bán cũng quan tâm nhiều đến việc thực thi chính sách, vì các tác động của chính sách ảnh hưởng đối với nghề nghiệp của họ. Kết quả cho thấy rằng độ tuổi, nghề nghiệp cũng có ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân. Nhìn chung đa phần người dân đều biết đến chương trình xây dựng NTM. Người dân biết đến Chương trình thông qua nhiều kênh khác nhau do đó, số lượng người dân tham gia thực hiện chương trình là khá cao, bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Ngoài ra, các yếu tố như mức sống, trình độ học vấn, số lượng người trong hộ,... Cũng có thể ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân. Chẳng hạn, những người có trình độ học vấn cao, nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ thường nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách hơn. Hay những người có mức sống khá và trung bình họ sẽ có điều kiện để tham gia hơn. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối và tùy thuộc vào từng hoàn cảnh, từng thời điểm thực hiệc các hoạt động của xã. Có trường hợp, số lượng thanh niên hầu như đi học và đi làm xa nhà khá nhiều, từ đó một lượng lao động trẻ không có để tham gia xây dựng NTM bị giảm đi một phần. 2.2.8. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM 2.2.8.1. Khó khăn và hạn chế ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM Xây dựng NTM là một chương trình tổng thể về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, chính trị ở các địa phương, Nhằm phục vụ cuộc sống người dân nông thôn. Tuy nhiên, sự SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 67 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng tham gia của người dân trong thực thi chính sách NTM trên địa bàn huyện còn nhiều khó khăn và hạn chế. Một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, nội dung và ý nghĩa của chương trình. Chỉ khi nào người dân hiểu được chương trình thực hiện là vì nâng cao chất lượng cuộc sống của chính họ thì họ mới tích cực, chủ động tham gia. Và chỉ khi nào chính quyền địa phương hiểu được tầm quan trọng của người dân trong việc thực thi chính sách NTM thì mới có những hoạt động, những giải pháp hướng đến sự tham gia của người dân, trong đó người dân đóng vai trò chủ thể. Có như vậy thì chương trình mới phát huy hiệu quả. Người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực vào việc xây dựng NTM. Vì người dân quen với cách làm “từ trên xuống” nên vẫn còn dựa dẫm, phụ thuộc vào cán bộ. Và do tâm lý e ngại nên người dân chưa mạnh dạn đóng góp ý kiến, mặc khác đa số trình độ của người dân còn thấp nên họ sợ ý kiến của mình nói ra sợ mọi người cười cho. Hoặc cũng có lúc ý kiến của người dân không trọng tâm nên không được cán bộ công chức thừa nhận. Từ đó, tạo cho người dân tâm lý là ý kiến của mình cũng thừa nên không đóng góp. Đây như một vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Vậy thì công tác tuyên truyền làm sao cho người nhận thức được tầm quan trọng của họ trong xây dựng NTM và người dân xóa bỏ tư tưởng đó. Người dân thường thì tham gia theo phong trào, khi nào có đợt phát động thì tham gia, thấy cái gì có lợi mang lại hiểu quả kinh tế thì tham gia nhiệt tình còn không thì họ dường như không quan tâm đến. Họ chưa hiểu rõ rằng cùng với việc tham gia đóng góp sức lao động, tiền của, ý kiến vào các hoạt động thực hiện chính sách là việc tự đầu tư để góp phần nâng cao thu nhập trong các hoạt động kinh tế, giữ gìn nếp sống văn hóa, chỉnh trang ngõ xóm, giữ vững an ninh trật tự, Góp phần nâng cao chất lượng đời sống của chính họ. Người dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc thực thi chính sách. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước cho địa SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 68 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng phương mình, là việc của cấp trên, chứ không phải là việc của mình. Người dân chưa thực sự tham gia nhiều trong thực thi chính sách, chưa tham gia lựa chọn thực hiện tiêu chí nào trước, tiêu chí nào sau; Chưa tham gia lập kế hoạch thực hiện; Chưa tham gia vào việc quyết định mức độ đóng góp; Chưa tham gia một cách đầy đủ vào các cuộc họp thôn xóm;... Trong khi đây là những nội dung quan trọng cần có sự tham gia của người dân để hoạt động triển khai xây dựng NTM sát với thực tiễn, để nói lên được phần nào về mức độ dân chủ trong thực thi chính sách. Người dân vẫn còn tồn tại tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Sự tham gia của người dân mới tập trung ở khâu huy động đóng góp vào xây dựng hạ tầng, ngoài ra thiếu tập trung chú trọng về phát triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân. Đồng thời, sự tham gia của người dân không đồng đều giữa các vùng địa hình trong xã. Trong đó, các hình thức tham gia tuy đã phong phú, nhưng những hình thức có thể khai thác ngay tại địa phương như cung cấp vật liệu, dụng cụ, hiến đất, đóng góp ngày công lao động thì chưa được phát huy hết tiềm năng. Vì vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền để huy động sự tham gia của người dân thông qua các hình thức này, nhằm làm giảm bớt gánh nặng về tài chính cho người dân, đồng thời làm tăng thu nhập cho họ. Công tác đào tạo, tập huấn cho người dân nông thôn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí của người dân thấp, kiến thức về quản lý của cán bộ Ban quản lý xây dựng NTM còn chưa cao. Trong khi đó một phần tầng lớp thanh niên trí thức nông thôn được đào tạo không muốn trở về gắn bó xây dựng nông thôn. Một số hộ khi tham gia các hoạt động trong mô hình NTM chỉ theo kinh nghiệm của bản thân chứ không theo cơ sở khoa học. Ví dụ như khi họ tham gia vào việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện các mô hình NTM đều theo kinh nghiệm của họ, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn thấp vì vậy nên năng suất thấp hơn so với dự kiến, hiểu quả kinh tế chưa đạt mức cao nhất có thể. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 69 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Tổ chức hoạt động của Ban quản lý xây dựng nông thôn gặp nhiều khó khăn do kinh phí dành cho các hoạt động xây dựng NTM còn hạn hẹp, trong khi các hoạt động đề ra lại tốn khá nhiều kinh phí. Những thành viên của Ban quản lý xây dựng NTM cũng chỉ được trợ cấp một phần nhỏ, điều này cũng ảnh hưởng đến sự nhiệt tình tham gia đóng góp công sức của bản thân từng thành viên, của cộng đồng trong công cuộc phát triển làng xã. Công tác tuyên truyền về xây dựng NTM chưa được thường xuyên, chưa sát với thực tiễn. Điều này đã dẫn tới nhận thức của nhân dân về ý nghĩa của chương trình này chưa thực sự đầy đủ. Không ít người dân coi chương trình xây dựng NTM là cơ hội để có được nguồn đầu tư từ Nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng, mà coi nhẹ vai trò chủ thể là người dân. Như vậy, những khó khăn và hạn chế về sự tham gia của người dân đã được lồng ghép đánh giá trên các phương diện về mức độ tham gia, nội dung tham gia, hình thức tham gia và nhận thức của người dân. Trên cơ sở đánh giá để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, nhằm làm cơ sở cho những giải pháp ở chương 3. 2.2.8.2. Nguyên nhân ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM Quá trình huy động sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách NTM trên địa bàn xã Điền Hải gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Ở phương diện quản lý nhà nước, có thể thấy những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân chính sau: Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và địa phương thể hiện nhiều mặt hạn chế như: Còn mang nặng tính áp đặt từ trên xuống, không phù hợp với thực tế phát triển. Tới nay vẫn còn một số cơ chế chính sách của Trung ương chậm được ban hành hoặc chậm sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế như: Chính sách cho các vùng đặc thù, cơ chế lồng ghép các chương trình, dự án trên địa bàn xã; Cơ chế quản lý và thủ tục vay vốn ngân hàng; Hướng dẫn về quy chế quản lý xây dựng nông thôn, SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 70 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Hai là, công tác tuyên truyền ở cơ sở thiếu các giải pháp tổ chức đa dạng, phù hợp điều kiện đặc điểm của từng địa bàn, thiếu thường xuyên nên cán bộ và nhân dân chưa hiểu rõ về tầm quan trọng, nội dung, ý nghĩa của chương trình. Các hoạt động hưởng ứng phong trào “Chung sức xây dựng NTM” đang tập trung ở các thôn; Chưa đồng đều, thường xuyên, liên tục giữa các cấp, các ngành và các địa phương; Chưa gắn tinh thần của phong trào với các hoạt động thiết thực, cụ thể để đẩy nhanh tiến độ, chất lượng xây dựng NTM. Ba là, sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể một số địa phương còn chung chung, thiếu phân công trách nhiệm thực hiện các tiêu chí cụ thể trong xây dựng NTM. Bốn là, năng lực của cán bộ phụ trách công tác xây dựng NTM ở các xã còn hạn chế, làm theo chế độ kiêm nhiệm, chưa bám sát nội dung đề cương quy hoạch đã được huyện phê duyệt và các chương trình, đề án cũng như Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, xã do đó chưa tham mưu tốt cho Ban quản lý các xã triển khai thực hiện tốt nội dung đồ án quy hoạch của xã. Năm là, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế. Tổng hợp điều tra hộ nông dân cho thấy, đa số người dân chủ yếu là học cấp 1, cấp 2, học hết cấp 3 chiếm tỷ lệ khá thấp hoặc không được đào tạo qua một chương trình đào tạo sơ cấp nào. Mặt khác, số được đào tạo qua các chương trình sơ cấp, trung cấp và đại học thì chưa phát huy được khả năng của mình, chưa biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn và cách nhìn nhận vấn đề còn hạn chế. Sáu là, một bộ phận cán bộ quản lý trình độ chưa cao, chưa có kinh nghiệm làm việc, trong công tác còn thiếu sự nhiệt tình, sáng tạo, chưa đáp ứng được nhu cầu trong tiến tình thực hiện dự án. Do đó chất lượng làm việc chưa cao, chưa tạo được niềm tin trong nhân dân. Bảy là, do kinh tế của xã phát triển còn chậm nên đã làm ảnh hưởng đến sự đóng góp của người dân cho các hoạt động trong xây dựng NTM, cũng như điều kiện của xã để thu hút các nguồn vốn đầu tư. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 71 Đạ i h ọ K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM 3.1. Định hướng Tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong xây dựng NTM trước hết phải gắn với lợi ích của người dân và các tổ chức xã hội, thực hiện một cách có hiệu quả chủ trương dân chủ cấp cơ sở và thực thi một số mô hình. Chỉ thị 30 CT/TW ngày 12 tháng 8 năm 1998 của Trung ương Đảng về thực hiện dân chủ cấp cơ sở, Nghị định số 79/2003/NĐCP ngày 07 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ là cách tiếp cận, đánh giá đúng tình hình ở cơ sở, thể chế hoá, pháp quy hoá những nội dung, nguyên tắc, phương châm cho sinh hoạt dân chủ ở nông thôn, Quyết định số 81/2005/QĐTTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về danh sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. Đây là cách tiếp cận, là sự đánh giá đúng tình hình cơ sở; Là hành lang pháp lý cho các hoạt động phát triển nông thôn, nâng cao dân chủ cấp cơ sở, nhất là nâng cao vai trò, sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong xây dựng và phát triển nông thôn. Việc tăng cường vai trò của người dân trong xây dựng NTM cấp xã được thực hiện theo phương châm dựa vào sức lực của người dân địa phương là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần làm động lực để phát huy sự đóng góp của người dân và cộng đồng. Các hoạt động cụ thể do chính người dân đề xuất và thiết kế trên cơ sở bàn bạc dân chủ, công khai và quyết định thông qua cộng đồng. Chính quyền các cấp chỉ đóng vai trò hướng dẫn kỹ thuật, tổng hợp các đề xuất, kiến nghị, phê duyệt kế hoạch phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện vai trò làm chủ thông qua cộng đồng. Các mô hình thí điểm được triển khai phải đảm bảo phát triển nông thôn bền vững, hài hoà với môi trường, góp phần bảo tồn giá trị truyền thống của địa phương. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 72 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để vận động người dân tham gia chương trình. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền với nhiều hình thức, qua các kênh thông tin khác nhau, đa dạng cách tuyên truyền: Phát thanh, truyền hình, tờ rơi, cataloge, Poster,... Hoặc sự lồng ghép các nội dung trong sinh hoạt câu lạc bộ của các tổ chức xã hội,... Thực hiện các biện pháp tuyên truyền tác động và làm thay đổi nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng đối với phát triển nông thôn nhằm khơi dậy phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Nội dung xây dựng NTM cần phải được xem xét trong chương trình học bậc phổ thông, nhằm tăng cường nhận thức và tầm quan trọng của việc xây dựng NTM, giáo dục thế hệ trẻ để tạo động lực về trí và lực trong việc thực hiện xây dựng NTM thật sự thành công và bền vững. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Đối với các cấp chính quyền Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy chỉ có phát huy vai trò chủ thể của người dân mới bảo đảm sự thành công trong xây dựng NTM. Để làm được điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền ở địa phương phải năng động, sáng tạo, chú ý thực hiện tốt một số giải pháp sau: Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách tạo điều kiện cho sự tham gia của người dân Cần phải linh hoạt, không nên quá cứng nhắc, vì như thế sẽ làm khó cho người dân, đặc khi người dân muốn vay vốn để mở rộng sản xuất nhưng vốn vay lại ít không mang lại kết quả cao, vậy nên có những cơ chế chính sách phù hợp, có thể cho vay theo mục đích của người dân, nếu người dân vay để mở rộng sản xuất thì cho vay với nguồn vốn cao hơn, và các thủ tục vay cần ngắn gọn, không quá rườm rà. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 73 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Các ngân hàng chính sách nên ổn định và giảm lãi suất cho vay, vì hầu hết người dân muốn vay để sản xuất nhưng lãi suất lại không ổn định, như thế sẽ tác động tới tâm lý của người dân. Nhưng cũng qua đó cán bộ địa phương cần có sự khảo sát để những hộ vay sử dụng đúng mục đích, đưa ra những quy chế cho những hộ vay không đúng mục đích. Khuyến khích giao cho thôn, bản và cộng đồng dân cư thực hiện những công trình, dự án gắn liền với lợi ích của họ để nâng cao để nâng cao tính chủ động, trách nhiệm và vai trò của người dân trong triển khai thực hiện chương trình. Đúc rút, ban hành cơ chế lồng ghép các nguồn vốn để hỗ trợ nhân dân thực hiện các nội dung xây dựng NTM thông qua cơ quan thường trực xây dựng NTM. Cần có cơ chế thống nhất để giảm chi phí đầu tư trong xây dựng NTM như: Thiết kế mẫu, phân nhóm công trình để người dân tự tổ chức xây dựng (Nhà nước chỉ hỗ trợ vật tư). Đồng thời, trao quyền chủ động cho người dân để góp phần thực hiện có hiệu quả phương pháp “từ dưới lên”. Người dân và cộng đồng thôn sẽ tự lựa chọn dự án để triển khai thực hiện. Lập kế hoạch từ cơ sở, thay cho việc chạy theo thành tích thực hiện theo các chỉ tiêu không đúng với nhu cầu ưu tiên của người dân; Người dân tự lựa chọn tiêu chí nào thực hiện trước, tiêu chí nào thực hiện sau. Các tiêu chí được ưu tiên lựa chọn phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của người dân, điều kiện sống của người dân. Trong quá trình thiết kế dự án phải có sự tham gia của người dân, người dân sẽ tự triển khai và giám sát dự án, chính quyền địa phương chỉ được quản lý mà không có quyền can thiệp. Như vậy người dân sẽ phải tự lực phấn đấu để thay đổi cuộc sống của chính mình, bên cạnh đó khi nguồn lực có hạn người dân phải biết huy động từ cộng đồng để đạt hiệu quả cao nhất của dự án. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 74 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Thứ 2: Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của họ trong thực thi chính sách NTM Công tác tuyên truyền phải được chú trọng để xây dựng thành kế hoạch cụ thể cho từng thời kỳ, cần phải được tiến hành thường xuyên và phải thống nhất phương châm “Người dân làm, Nhà nước hỗ trợ” thay cho khẩu hiệu “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Các cơ quan thông tin, báo chí tiếp tục tăng thời lượng để phổ biến mục tiêu, nội dung các cơ chế chính sách của Chương trình, rút kinh nghiệm và phổ biến cách làm hay, các mô hình hiệu quả. Có cơ chế tuyên dương, khen thưởng đối với những cá nhân điển hình, tôn vinh những đơn vị xuất sắc. Từ đó, tạo ra sự cạnh tranh giữa các đơn vị trong xã, thúc đẩy sự tham gia của người dân trong đơn vị đó. Nhưng phải có cơ sở đánh giá, đảm bảo khách quan và công bằng. Hoạt động tuyên truyền cần phối hợp với các cấp chính quyền địa phương trong việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, làm sao để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Để huy động tổng hợp sức mạnh của toàn xã hội tham gia đóng góp sức người, sức của để xây dựng NTM, cần công khai, minh bạch các công việc. Người dân cần phải được thông tin đầy đủ, đa chiều. Chẳng hạn, trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, người dân cần biết được chủ trương của Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình này là vì muốn tạo điều kiện để người dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của họ. Muốn làm được điều này, thì cần có sự ủng hộ, tự nguyện đóng góp thêm của nhân dân, vì nguồn ngân sách còn hạn hẹp. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần, hỗ trợ kỹ thuật, còn giá trị còn lại của công trình thì người dân cần tự nguyện đóng góp sức lao động, góp đất để giải phóng mặt bằng, đóng góp một phần kinh phí, Nếu người dân hiểu kỹ được vấn đề, thì sẽ xoá được tư tưởng trông chờ, ỷ lại và vui vẻ đóng góp. Linh hoạt hình thức và phương pháp tuyên truyền để người dân dễ dàng tiếp cận và hiểu được mục tiêu, ý nghĩa của chính sách, hiểu được vai trò của họ trong thực thi chính sách NTM. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 75 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Có nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của đối tượng tiếp nhận, điều kiện cụ thể của mỗi xã mà lựa chọn hình thức phù hợp và hiệu quả nên áp dụng hình thức thông qua loa phát thanh hay là hội diễn văn nghệ quần chúng. Mục đích là làm cho người dân thấy được lợi ích của họ khi thực hiện thành công chính sách, đó là động lực để họ tham gia. Thứ 3: Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình huy động sự tham gia của người dân Để phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong xây dựng NTM, mặt trận các đoàn thể phải tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch lựa chọn tiêu chí, hạng mục ưu tiên và giám sát quá trình thực hiện. Mặt trận tổ quốc làm tốt công tác tuyên truyền thực hiện tốt việc xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, động viên huy động mọi nguồn lực để xây dựng các nội dung trong đề án đã được phê duyệt. Đồng thời tham gia giám sát các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Hội nông dân chịu trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu trong việc xây dựng các mô hình kinh tế như cải tạo vườn tạp, chỉnh trang vườn hộ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hàng hóa có năng suất chất lượng cao, giám sát các việc thực hiện các chỉ tiêu xây dựng NTM. Hội Liên hiệp phụ nữ có nhiệm vụ thực hiện tốt cuộc vận động “nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, hội viên giúp nhau xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đi đầu trong phong trào chăn nuôi theo hình thức gia trại, làm tốt công tác vệ sinh môi trường trong từng gia đình hội viên. Hội Cựu chiến binh có trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu trong phong trào xây dựng NTM, làm nồng cốt trong kinh tế trang trại và cải tạo vườn tạp. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, lực lượng xung kích đi đầu trong phong trào lập thân lập nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh trật tự của địa phương, vận động đoàn viên thanh niên xây dựng bộ mặt nông thôn xanh, sạch, đẹp từ vườn hộ, ngõ xóm, đường làng. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 76 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Ngoài ra các tổ chức chính trị cần liên kết với các trung tâm dạy nghề, các lớp dạy nghề tại xã,... Để đào tạo tay nghề cho người dân, nhằm tạo điều kiện cho người dân mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm và nâng cao thu nhập. Cùng với việc ra sức kiện toàn các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương là việc củng cố và phát triển các tổ chức chính trị - xã hội. Để các tổ chức này là tổ chức của dân thực sự, đại diện cho họ giám sát các hoạt động của cấp chính quyền, tổ chức Đảng; Bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai trong thôn, xã; Giúp họ định hướng phát triển sản xuất; Giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống, tình làng nghĩa xóm; Cùng nhau khắc phục những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, phòng chống các tệ nạn xã hội; Giúp nhau thi đua làm giàu chính đáng. Tóm lại, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện cần phải thực sự phát huy được vai trò của mình trong quá trình thực thi chính sách NTM, cùng góp sức với chính quyền các cấp trong huy động sự tham gia đóng góp ý kiến, đóng góp nguồn lực, nâng cao nhận thức của người dân, tạo nên khối đại đoàn kết trong dân, từ đó sự tham gia của người dân mới mang lại ý nghĩa thiết thực. Thứ 4: Tăng cường đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ cấp cơ sở Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó nội dung trước tiên cần tập trung bồi dưỡng là nhấn mạnh tới sự cống hiến và nêu gương cho quần chúng, tiếp đến là các kỹ năng về thảo luận nhóm, khuyến nông, khuyến lâm,... Đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tư tưởng, dân vận cho cán bộ ở cơ sở. Ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ tại huyện, cần mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về công tác tư tưởng, dân vận tại Trường Chính trị tỉnh để nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chú trọng những kiến thức cơ bản và kỹ năng thực hành. Quan tâm tổ chức tập huấn chuyên đề, nhất là các SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 77 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng chuyên đề về công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao nhân dân giúp cán bộ của các xã có thể tham mưu tốt cho cấp ủy về các hoạt động thông tin đối ngoại, ngoại giao nhân dân trên địa bàn. Thường xuyên tổ chức tham quan, trao đổi kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ. Tiếp tục triển khai có hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngoài ra, lập các hòm thư góp ý để giải đáp cho người dân hiểu hơn về NTM. Đặc biệt, chú trọng việc lựa chọn cán bộ cơ sở cũng là khâu quan trọng, phải là người có uy tín, được nhân dân tín nhiệm, đáp ứng được các tiêu chuẩn đề ra. Hệ thống các giải pháp được đưa ra nhằm phát huy sự tham gia của người dân trên địa bàn huyện xã Điền Hải, không chỉ cần sự nỗ lực của CQĐP mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, chung lòng của người dân để xây dựng thành công NTM. 3.2.2. Đối với người dân Thứ nhất: Nâng cao ý thức của người dân Người dân có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng NTM. Vì vậy, việc khuyến khích sự tham gia của người dân vào việc xây dựng NTM ở xã là rất cần thiết. Người dân nông thôn chủ yếu là nông dân, do vậy họ vẫn còn tâm lý tự ti, thậm chí là ỷ lại, ngại va chạm hay né tránh các công việc cộng đồng. Muốn thay đổi được nhận thức của người dân thì Ban quản lý xây dựng NTM cần không ngừng tuyên truyền và vận động người dân tham gia vào việc xây dựng NTM, nói cho người dân hiểu được mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng mô hình là làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho chính họ. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 78 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Tổ chức lồng ghép các chương trình, phong trào của làng xã với chương trình xây dựng NTM sẽ tăng cường được sự tham gia của người dân. Gắn việc bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên; Lồng ghép chương trình xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa với phong trào xây dựng NTM trên địa bàn xã. Tuy xã đã bầu ra Ban quản lý xây dựng NTM nhưng sự tham gia của người dân trong các hoạt động là rất cần thiết, như trong công tác kiểm tra, giám sát, lập kế hoạch nhằm giúp cho việc xây dựng NTM có hiệu quả hơn. Khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến, nói rõ nhu cầu và quan điểm của họ trong các buổi họp thôn với mục tiêu 100% các hộ đều tham gia các hoạt động. Nói cách khác, người dân cần phát huy hơn nữa tinh thần tham gia lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát của chính mình để cho các hoạt động được triển khai và đạt kết quả tốt. Thứ hai: Nâng cao trình độ dân trí Xây dựng NTM nhằm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao thu nhập của người nông dân không thể thiếu vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục chú trọng ưu tiên đầu tư cho tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Chương trình xây dựng NTM. Muốn vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc nâng cao trình độ dân trí để người dân có thể nắm bắt được những tiến bộ kỹ thuật mới. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học, nhất là giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ dân trí, trí thức hoá đội ngũ cán bộ cơ sở ở địa phương. Song trước hết là đào tạo, nâng cao tay nghề cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương mình. Cán bộ xã và cán bộ Ban quản lý cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao tiến bộ KHKT tới bà con nhằm nâng cao trình độ của người dân trong sản xuất. Nâng cao trình độ của người dân toàn diện, mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đào tạo và trang bị các kiến thức, kỹ năng cơ bản về hoạt động của cộng đồng. Tổ chức cho người dân được đi SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 79 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng tham quan học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh ở các địa phương khác. Khuyến khích người dân tự học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hội nông dân xã, trung tâm giáo dục cộng đồng cần chủ động xây dựng kế hoạch mở các lớp dạy nghề tại địa phương, đề nghị với nhà nước mở các lớp dạy nghề ngắn hạn tại huyện để nhân dân có điều kiện tham gia học tập nâng cao trình độ hiểu biết. Khuyến khích, vận động và phối hợp thực hiện phân luồng giáo dục sau trung học cơ sở; Tạo cơ hội học tập cho các em học sinh lớp 9 không đủ điều kiện vào trường trung học phổ thông đi học nghề hoặc bổ túc văn hóa để thực hiện mục tiêu phổ cập trung học trong độ tuổi. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục. Phát huy vai trò của hội khuyến học, hội phụ huynh học sinh trong giáo dục đạo đức và ý thức học tập của học sinh; Ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường. Khuyến khích, vận động các dòng họ, các tổ chức xã hội xây dựng và phát triển quỹ khuyến học. Xây dựng phong trào thi đua học tập trong con em toàn xã. Từng hộ gia đình cần tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu học sinh có đủ điều kiện học tập nhằm đưa tỷ lệ các cháu đậu vào các trường Đại học – Cao đẳng cao hơn. Tạo ra một thế hệ trẻ có tri thức và tài năng để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh. Để việc xây dựng NTM thành công, đòi hỏi người dân cần phải có ý thức tự nâng cao trình độ của mình nhằm đưa các hoạt động đi theo đúng kế hoạch và tiến độ. Vì lợi ích của chính mình và lợi ích của cộng đồng. Thứ 3: Phát triển kinh tế hộ Muốn phát triển được kinh tế của hộ trước hết cần phát triển nền kinh tế chung của xã. Cán bộ Ban quản lý xây dựng NTM cần tuyên truyền, khuyến khích người dân tham gia vào các buổi tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất. Để nâng cao thu nhập của hộ thì người dân phải thay đổi hướng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu bằng hướng sản xuất tập trung. Giúp người nông dân thay đổi hướng sản xuất tự cung tự SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 80 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng cấp sang hướng sản xuất hàng hóa để thay vì người dân chỉ sản xuất đủ ăn thì giờ họ đã có của ăn của để. Trước đây, người dân chỉ sử dụng sức người trong do đó sản xuất chỉ đủ ăn, bây giờ thay bằng việc áp dụng cơ khí hóa, sử dụng máy móc hiện đại giúp người nông dân tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Xây dựng kế hoạch sản xuất hàng vụ hàng năm phù hợp, thực hiện tốt công tác khuyến cáo khuyến nông dự thính dự báo sâu bệnh, dịch bệnh, phòng chống thiên tai bão lụt, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của nông dân. Hình thành đội ngũ khuyến nông viên cơ sở để hướng dẫn giúp đỡ chuyển giao công nghệ tới tận người dân. Tạo điều kiện cho nông dân được học nghề để tiếp cận nhanh với việc làm, nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Định hướng cho nông dân kết hợp lợi ích giữa bốn nhà: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Địa phương cần phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư để phát triển nền kinh tế địa phương từ đó phát triển kinh tế hộ, thu hút lực lượng lao động trẻ, khỏe có kỹ thuật ở lại xây dựng quê hương. Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng làng, xã sẽ khuyến khích người dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập của hộ. Tổ chức các lớp đào tạo nghề, xây dựng và phát triển các làng nghề truyền thống của địa phương nhằm tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho hộ gia đình, năng cao mức sống của hộ. Khi có được những điều kiện thuận lợi, người dân sẽ yên tâm sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế hộ, đồng thời góp phần phát triển kinh tế của xã. Điều kiện kinh tế được nâng cao sẽ tạo điều kiện tốt cho người dân tham gia các hoạt động xây dựng NTM cả về nguồn lực vật chất cũng như nguồn lực tinh thần. Thứ 4: Huy động nguồn lực từ dân Để thực hiện các hoạt động phát triển từ mô hình NTM, ngoài nguồn kinh phí hỗ trợ, còn có sự đóng góp các nguồn lực của người dân cả về sức SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 81 Đạ i h ọc K inh t H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng người lẫn sức của. Cần có các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của người dân bằng việc đóng góp sức lao động, do đó sẽ làm giảm nguồn kinh phí mà người dân phải đóng góp. Người dân là người trực tiếp hưởng lợi từ các công trình, khi họ đã nhận ra được tầm quan trọng của các hoạt động phát triển làng, xã thì họ sẽ hưởng ứng ngày càng nhiệt tình hơn. Nguồn kinh phí được huy động từ dân bao gồm 2 nguồn sau: - Huy động tại chỗ: Huy động người dân đang sinh sống tại làng, xã đóng góp cả về sức người lẫn sức của như đóng góp tiền, công lao động, vật tư tại chỗ,... Vào công tác xây dựng mô hình NTM. - Huy động từ bà con xa quê: Đây là thành phần người dân trong làng, xã nhưng đi làm ăn ở nơi xa hoặc thanh niên có trình độ thoát ly ra ngoài làm ăn gửi tiền về đóng góp cho gia đình và làng xóm. Để công tác huy động nguồn lực từ người dân vào việc xây dựng NTM đạt được hiệu quả cao thì những hoạt động của Ban quản lý xây dựng NTM phải có kế hoạch rõ ràng, cụ thể, khiến người dân tin tưởng vào sự thành công của mô hình NTM. Việc cần làm và quan tâm hiện nay là giúp người dân nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của mình, cần phải có ý thức tự lập chủ động được nguồn vốn, không phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nguồn lực của nhân dân là đòn bẩy để các hoạt động được thành công, họ không chỉ đóng góp sức lao động, tiền của mà họ là người trực tiếp được hưởng lợi của các hoạt động đó. Vì vậy, để xây dựng thành công NTM, cần phát huy và huy động nguồn lực của người dân tham gia nhiệt tình, đem lại những kết quả thắng lợi không chỉ cho riêng xã Điền Hải mà cho tất cả các địa phương khác trên đất nước Việt Nam. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 82 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Có thể khẳng định rằng, qua 5 năm thực hiện mô hình NTM tại xã Điền Hải đã mang lại những kết quả vượt bậc. Tổng giá trị sản xuất của các ngành có chiều hướng tăng lên. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm thay vào đó là tỷ trọng ngành phi nông nghiệp tăng lên. Nhờ đó mà đời sống vật chất của người dân đã được nâng cao rõ rệt, tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt được đảm bảo. Tạo tinh thần hăng say làm việc cho người dân, làm nền tảng để phát triển kinh tế đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Để chính sách NTM đi vào đời sống xã hội một cách thiết thực, cần nâng cao năng lực và tăng cường hơn nữa vai trò của các chủ thể trong chu trình chính sách, đó là các cơ quan thực thi chính sách, đó là đối tượng thụ hưởng chính sách,...Và cần sự tập trung của cả nhà nước và người dân để giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng NTM. Sự tham gia của người dân là một nguyên tắc quan trọng trong quản trị địa phương. Và do đó, nó lại càng có ý ngĩa quan trọng trong việc xây dựng NTM. Để thực hiện tốt và có hiệu quả chương trình xây dựng NTM, vấn đề đặt ra là phải phát huy được vai trò chủ thể của người dân. Thực tế trên địa xã Điền Hải, người dân đã có những chuyển biến bước đầu về nhận thức, đã có những đóng góp cơ bản trong xây dựng NTM ở địa phương. Đó là đa phần người dân biết đến chương trình nhưng chưa thực sự hiểu sâu, người dân tham gia xuyên suốt các nội dung trong xây dựng NTM nhưng mức độ tham gia thực sự chưa cao và có những hình thức có thể tận dụng ngay tại địa phương nhưng chưa được phát huy. Do đó, cần đề ra được các giải pháp để phát huy sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM, góp phần vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 83 Đạ i h ọc K i h tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Vì vậy, cần phải huy động sự tham gia vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát huy vai trò của cấp Đảng ủy, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội; Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân; Tăng cường đạo tạo đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; Cụ thể hóa, hướng dẫn sự tham gia và sự chủ động tham gia tích cực của nhân dân là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công chương trình. Từ đó, xây dựng nên hình ảnh chính quyền gần dân; Tạo nên sự đồng lòng, đồng thuận trong dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi chính sách NTM. Bởi khi dân chúng đồng lòng, ủng hộ thì họ sẽ tích cực hành động, hăng hái và không quản ngại khó khăn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên” . 3.2. Kiến nghị Xây dựng NTM là quá trình lâu dài và liên tục, cần thiết phải xây dựng một kế hoạch phát triển tổng thể có định hướng dài hạn.Với sự hỗ trợ, chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước cùng với sự hỗ từ các tổ chức bên ngoài về cả mặt tài chính và kỹ thuật thì việc triển khai xây dựng NTM sẽ đáp ứng tiến độ và kết quả như mong muốn. Qua nghiên cứu tìm hiểu tình hình thực hiện chủ trương xây dựng NTM tại xã Điền Hải, tôi đưa ra một số kiến nghị như sau: 3.2.1. Đối với các cấp chính quyền  Đối với Trung ương Có cơ chế, chính sách đối với việc tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM. Tạo điều kiện cho mỗi địa phương linh động trong việc thực thi chính sách, chủ động trong việc thực hiện các tiêu chí. Kịp thời tổng kết, đánh giá hiệu quả xây dựng NTM trên cơ sở những tiêu chí đánh giá hiệu quả cụ thể. Cần có cái nhìn bao quát và đánh giá kịp thời những tiêu chí nào cần thiết, những tiêu chí nào bất hợp lý để đưa ra điều chỉnh phù hợp. Những điều chỉnh đó chính là cơ sở góp phần thúc đẩy thực thi chính sách hoàn thiện hơn. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 84 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Tăng thời lượng tuyên truyền trên phương tiện thông tin của Trung ương về xây dựng NTM để thống nhất nhận thức và hành động trong cán bộ và nhân dân.  Đối với chính quyền huyện Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời. Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp.  Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng thôn. Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong xã. Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hằng năm. Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây dựng NTM với xã bạn. Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư xây dựng NTM xã. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 85 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Lãnh đạo chỉ đạo toàn diện việc thực hiện xây dựng NTM; Phân công thành viên phụ trách chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc các thôn thực hiện tốt các quy định về xây dựng, quản lý vốn đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Cần nâng cao trình độ quản lý, các hoạt động phát triển thôn cần khuyến khích người dân tham gia cả trực tiếp lẫn gián tiếp, đảm bảo tính dân chủ của người dân; Các khâu trong hoạt động phát triển thôn nên giao trực tiếp công việc trong khả năng họ có thể làm, giúp giảm chi phí thanh toán, mua nguyên liệu vật tư và tư vấn bên ngoài. 3.2.2. Đối với người dân Phát huy vai trò làm chủ của mình trong quá trình xây dựng NTM. Đó là tích cực tham gia các hoạt động xây dựng NTM như tuyên truyền vận động mọi người tham gia xây dựng NTM, tự nguyện đóng góp sức người, sức của, vào xây dựng và quản lý những tài sản công cộng. Cần phải tham gia tích cực hơn nữa vào công cuộc xây dựng thôn, xóm làng giàu đẹp, các Dự án phát triển kinh tế. Mạnh dạn đưa các tiến bộ khoa học vào ứng dụng để tìm ra phương thức sản xuất phù hợp với địa phương và với điều kiện của từng hộ để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tích cực tham gia vào việc gìn giữ, phát huy truyền thống của các làng nghề truyền thống để tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi, tăng thêm thu nhập cho hộ. Tuy đã cố gắng nghiên cứu nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 86 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Đình Thắng - Hoàng Văn Đinh (2002), Giáo trình kinh tế Phát triển nông thôn, Trường ĐHNN Hà Nội. 2. Mai Thanh Cúc – Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình Phát triển nông thôn, Trường ĐHNN, Hà Nội. 3. Hồ Văn Thông (chủ biên): Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2005. 4. Hoàng Mạnh Quân (2007), Giáo trình lập và quản lý dự án phát triển nông thôn, Trường ĐHNN, Hà Nội. 5. Vũ Thị Huyền Trang, Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, 2010. 6. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên), Cẩm nang hướng dẫn xây dựng nông thôn mới, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2015 7. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng chính phủ ban hành Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. 8. Tuấn Anh (2012), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số nước trên thế giới, Tạp chí Cộng sản. 9. Trần Cẩm Tú (2012), Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình - Kết quả bước đầu và những bài học kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản. 10. Đoàn Thiện Ngọc Vũ (2014), Nghiên cứu sự tham gia của người dân vào quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Học việc Hành chính Quốc gia. 11. Nghị quyết 26/NQ-TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 12. Đặng Hiếu (31/3/2015), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Nhân tố mới. 13. Theo TTXVN (24/1/2015), Lấy dân làm “ Gốc” - bài học trong lãnh đạo, SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 87 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Tạp chí tuyên giáo. 14. moi.html 15. nd-16393.html SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 88 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng PHỤ LỤC Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế Xin chào ông (bà), tôi là sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế đang thực hiện thực tập cuối khóa chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp. Mong ông (bà) trả lời những thông tin chính xác nhất về sự tham gia của ông (bà) vào việc xây dựng NTM. Thông tin do ông (bà) cung cấp chỉ được sử dụng làm báo cáo thực tập, những thông tin cá nhân do ông (bà) cung cấp sẽ được giữ bí mật. Họ và tên người điều tra: Nguyễn Thị Thanh Hà Thời gian điều tra: Ngày.. thángnăm Địa điểm điều tra: xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế I. Thông tin về hộ điều tra 1.1 Thông tin về người được phỏng vấn 1. Họ và tên chủ hộ:.. Nam/nữ: .Tuổi:.. 2. Địa chỉ: Thôn Số điện thoại:.. 3. Trình độ văn hóa lớp . 4. Trình độ chuyên môn Chưa qua đào tạo Cao đẳng – Đại học Sơ cấp, trung cấp Trên đại học SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 89 Đạ i h ọc K inh ế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 1.2 Thông tin về hộ gia đình 5. Đặc điểm kinh tế của hộ Giàu Trung bình Khá Nghèo 6. Số nhân khẩu của hộ: Số lao động chính của hộ....................Số lao động nông nghiệp:.. 7. Nghề nghiệp của hộ Làm nông Công nhân Buôn bán Cán bộ, công chức, viên chức Nghề khác.. 8. Mức thu nhập bình quân /tháng:triệu đồng/hộ. II. Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới. 9. Ông (bà) có biết được chủ trương chính sách của nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở xã ta không? Có Không Nếu có, ông (bà) biết qua kênh thông tin nào? Từ chính quyền xã Phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, báo, đài, internet, Qua các cuộc họp, hội thảo Tự tìm hiểu Khác SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 90 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 10. Ông (bà) có tham gia xây dựng nông thôn mới không? Có Không Nếu có tham gia, thì tham gia bằng hình thức nào? Đóng góp ý kiến Góp tiền mặt Đóng góp công lao động Góp vật liệu, dụng cụ tại chỗ Hiến đất Tham gia tập huấn Ý kiến khác 11. Mức độ quan tâm của ông (bà) trong việc xây dựng nông thôn mới? Rất quan tâm Quan tâm vừa phải Quan tâm Ít hoặc không quan tâm 12. Dưới đây là các mức độ tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới. Ông (bà) tham gia ở mức độ nào trong các mức độ dưới đây? STT Mức độ tham gia của người dân X 1 Tham gia thực sự 2 Tham gia ít 3 Không tham gia III. Sự tham gia của người dân trong các cuộc hoạt động phát triển thôn 13. Các hoạt động trong chương trình phát triển nông thôn mới gia đình có tham gia đóng góp không? Có Không SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 91 Đạ i h ọc K inh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng Gia đình tham gia đóp góp vào từng hoạt động sau như thế nào? Hoạt động Tham gia lao động (công) Đóng góp tiền (đồng) Hiến đất (m2) 1. Xây dựng nhà văn hóa 2. Làm đường giao thông 3. Bảo vệ môi trường 4. Hoạt động khác 14. Vì sao gia đình ông (bà) tham gia đóng góp như trên? Tham gia tự nguyện Do yêu cầu của thôn IV. Hiệu quả từ việc xây dựng mô hình nông thôn mới 15. Sau hoạt động nông thôn mới, thu nhập cho gia đình có tăng không? Có Không 16. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến địa phương? Làm đẹp cảnh quang cho xã Đời sống người dân được tăng cao Có thêm nhiều việc làm Không có tác động gì 17. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến môi trường? Tăng ô nhiễm môi trường Số hộ dùng nước sạch tăng Giảm ô nhiễm môi trường Không có tác động gì X. Một số đánh giá chung của người dân 18. Cách thực hiện kế hoạch có phù hợp với điều kiện của địa phương, gia đình không? Phù hợp Chưa phù hợp SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 92 Đạ i h ọc Ki nh tế H uế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 19. Để chương trình nông thôn mới phát triển, theo ông (bà) cần phải làm gì? Do dân tự làm Nhà nước tự làm Kết hợp giữa người dân và hỗ trợ của Nhà nước 20. Ông (bà) có đề xuất hay kiến nghị gì không? Xin chân thành cảm ơn ông (bà) đã hợp tác! SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 93 Đạ i h ọc K inh tế H uế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_tham_gia_cua_nguoi_dan_trong_viec_xay_dung_nong_thon_moi_tren_dia_ban_xa_dien_hai_huyen_phong_die.pdf
Luận văn liên quan