Khóa luận Thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế

Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn giữa vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, là nguyên liệu cho ngành công nghiệp và các ngành khác, nhiều hàng cho xuất khẩu Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái, nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với con người nói chung và mỗi nước nói riêng. Việt Nam là một nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời. Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta vẫn sống chủ yếu ở khu vực nông thôn và dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Sản xuất nông nghiệp nước ta không những phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, mà còn phục vụ xuất khẩu ra thị trường thế giới, vì thế nó đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Những cơ hội và thách thức mới của một nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi nước ta phải xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, hiện đại và có năng lực cạnh tranh cao. Để đạt được những mục tiêu trên, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phải tập trung huy động mọi nguồn lực, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nguồn lực quan trọng và góp phần đẩy nhanh sự phát triển của toàn ngành và kinh tế của toàn đất nước. FDI là nguồn bổ sung vốn cho phát triển, là nguồn cung cấp công nghệ, tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cũng như tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao mức sống cho người dân. Tuy nhiên, kết quả thu hút FDI vào ngành nông nghiệp tử sau năm 1987 cho đến nay còn nhiều hạn chế, chưa thực sự phát huy được hết tiềm năng của ngành. MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ FDI VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 8 I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 8 1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 8 2.Các đặc điểm của FDI 10 3.Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI 11 3.1. Những nhân tố quốc tế. 11 3.2. Những nhân tố trong nước. 12 II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ, CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 14 1. Các khái niệm 14 1.1. Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế. 14 1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 18 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 19 2.1. Nhóm các nhân tố khách quan. 19 2.2. Nhóm các nhân tố chủ quan. 23 3. Những xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 24 3.1. Những xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành. 24 3.2. Những xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. 25 3.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế. 25 2. Tác động tới cơ cấu vùng lãnh thổ. 27 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NỀN KINH TẾ 30 I. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NỀN KINH TẾ 30 1. Sơ lược về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam 30 1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành. 30 1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. 34 1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế. 36 2. Khái quát về thu hút FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây. 38 2.1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư 40 2.2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo địa bàn đầu tư 42 2.3.Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo hình thức đầu tư 43 2.4. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo đối tác đầu tư. 44 II. THỰC TRẠNG FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM . 45 1. Tình hình thu hút và triển khai hoạt động FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam 45 1.1.Tình hình thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam từ 1988-2008 45 1.2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. 57 2. Một số nhận xét về hoạt động FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam 59 2.1.Một số nhận xét 59 2.2. Nguyên nhân hạn chế nguồn vốn FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam 61 III. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 64 1.Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành. 64 1.1.Tác động tích cực. 64 1.2.Tác động tiêu cực. 71 2.Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. 73 2.1.Tác động tích cực. 73 2.1.Tác động tiêu cực. 78 3.Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. 79 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA VIỆT NAM . 82 I. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM GẮN VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 82 1. Định hướng chung về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 82 2. Quan điểm và phương hướng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam 85 2.1. Quan điểm thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp. 85 2.2. Phương hướng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp đến năm 2010. 87 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC 88 1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy hoạch về thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài 88 1.1.Quy hoạch phát triển ngành. 89 1.2.Quy hoạch phát triển vùng. 91 2.Nâng cao hiệu quả quản lý các dự án đầu tư. 93 2.1.Quá trình thẩm định và triển khai dự án. 93 2.2.Quản lý nhà nước đối với các dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư 94 3.Xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành nông nghiệp, địa bàn theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 95 4.Cụ thể hoá các định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các chương trình và kế hoạch đầu tư. 97 5.Hoạt động xúc tiến đầu tư phải coi trọng mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 97 6. Hoàn thiện chính sách chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ. 99 7.Đào tạo đội ngũ cán bộ làm tốt công tác đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 100 KẾT LUẬN 102

doc104 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3241 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t số vấn đề xã hội ở những vùng có dự án. Năm 2005 có hơn 5000 lao động nông thôn có việc làm mới, thu nhập cao hơn hẳn lao động của địa phương. Trình độ nghề nghiệp của lao động nông lâm nghiệp được nâng cao qua thực tế sản xuất có tính hàng hóa cao trong các dự án. Đó chính là hình thức đào tạo nghề nghiệp và kiến thức kinh tế thị trường cho lao động nông thôn qua các dự án FDI. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI của ngành cũng tăng từ 4283 người năm 2001lên 7910 người năm 2006. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn vùng có dự án được xây dựng mới và nâng cấp so với trước, nhất là điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông lâm sản, trạm y tế. Đối với các vùng miền núi, vùng đồng báo các dân tộc ít người như Sơn La, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, các dự án FDI trong nông lâm nghiệp còn góp phần quan trọng xóa bỏ các thủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng theo hướng văn minh phù hợp với nền sản xuất nông lâm nghiệp hàng hóa. Nhà nước đã quan tâm và đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến làm cho hiệu suất sử dụng sản phẩm nông nghiệp tăng lên, giá trị tăng lên nhiều lần. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự ưu đãi đã định hướng hoạt động về thị trường nông thôn để khai thác về đất đai và lao động. Các ngành nghề truyền thống và dịch vụ nông thôn phát triển khá nhanh, mỗi năm bình quân 9% đến 10% về giá trị sản lượng. Làm cho tỷ trọng giá trị sản lượng các ngành nghề và dịch vụ tăng dần trong cơ cấu kinh tế nông thôn, từ dưới 10% lên trên 30% như hiện nay. 2.1.Tác động tiêu cực Quy  mô vốn đầu tư quá nhỏ. Số vốn đăng ký bình quân 1 dự án mới đạt 6 triệu USD, Với số vốn như vật chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện ở các địa phương, nhất là ở các tỉnh miền núi cao, vốn đối ứng phí VN chỉ có giá trị quyền sử dụng đất, không có vốn bằng tiền. Tuy nhiên, trong thời gian qua, phần lớn dự án FDI tập trung vào vùng Đông Nam là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng chuyên canh như các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc,…Trong khi đó, khu vực đồng bằng sông Hồng, dù được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp, và các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên, tỷ trọng đầu tư FDI vào nông nghiệp rất thấp. Các dự án FDI chưa khai thác tiềm năng, lợi thế của các vùng; chưa có dự án đầu tư vào khoa học - công nghệ cao. Điều này dẫn tới tình trạng mất cân đối cơ cấu kinh tế vùng miền của nước ta. Nguyên nhân của sự chênh lệch thu hút đầu tư giữa các vùng, miền trong cả nước, bên cạnh việc khập khiễng về hạ tầng cơ sở, về nguồn nhân lực (công nhân có trình độ)…còn phải kể đến những bất cập trong việc điều hành chính sách đầu tư, việc quản lý các dự án đầu tư, chưa quan tâm nhiều đến việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các địa phương với những tiềm năng của vùng. Hoạt động của các dự án FDI trong nông nghiệp còn chậm chạp và kém hiệu quả nên chưa hình thành được nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung có chất lượng cao, sản lượng nhiều gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Các loại nông lâm sản do các dự án sản xuất còn ít về số lượng, đơn điệu về chủng loại nên chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước và xuất khẩu. Thí dụ rõ nhất là, số dự án đăng ký sản xuất rau quả sạch, chất lượng cao khác nhiều nhưng sản phẩm xuất hiện trên thị trường lại còn rất ít, chưa đáp ứng được như cầu của người tiêu dùng. Sức cạnh tranh của một số nông lâm sản của các dự án FDI chưa cao, kể cả những dự án sản xuất giống ngô lai, lúa lai, giống cây ăn quả, cây lâm nghiệp. 3.Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế trong khu vực nông nghiệp, nông thôn Những kết quả thu hút FDI vào nông nghiệp cũng góp phần tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cơ cấu thành phần kinh tế ở nông nghiệp, nông thôn. Sản xuất của các doanh nghiệp nông - lâm - thủy sản đạt được những kết quả khả quan; doanh nghiệp nhà nước tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt trong khối doanh nghiệp nông - lâm - thủy sản. Bảng 8: Doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản phân theo loại hình và địa phương năm 2006 Đơn vị: doanh nghiệp Vùng Doanh nghiệp Nhà nước (bao gồm các doanh nghiệp có vốn nhà nước) Công ty cổ phần không có vốn nhà nước Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH tư nhân Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Đồng bằng sông Hồng 122 88 1 153 197 50 Đông Bắc 103 15 20 34 5 Tây Bắc 27 4 3 3 2 Bắc Trung Bộ 104 12 13 12 2 Duyên hải Nam Trung Bộ 34 1 10 16 11 Tây Nguyên 142 7 7 20 16 Đông Nam Bộ 60 8 66 54 64 Đồng Bằng sông Cửu Long 28 8 1 003 28 2 Tổng số 620 143 2 275 364 152 Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 - Tập 1 – Tổng cục thống kê Đến 1/7/2006 cả nước có 2136 doanh nghiệp nông – lâm – thủy sản, giảm 1463 doanh nghiêp (-40,7%) so với 1/10/2001; trong đó có 517 doanh nghiệp nhà nước, giảm 364 doanh nghiệp (-41,3%) do thực hiện chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, 1153 doanh nghiệp tư nhân, giảm 1372 doanh nghiệp (-54,3%), tập trung vào các doanh nghiệp đánh bắt thuỷ sản. Các loại hình doanh nghiệp khác có xu hướng tăng nhanh: công ty trách nhiệm hữu hạn gấp 2,1 lần, công ty cổ phần gấp 2,7 lần và doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài tăng 54% so với năm 2001. Sự tăng lên của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp cũng là xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta. Tóm lại, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, rất thấp và không ổn định. Các dự án FDI hoạt động chưa thực sự hiệu quả, nhiều dự án bị giải thể trước thời hạn. Song, bên cạnh những hạn chế và khó khăn, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp nước ta cũng đã góp phần nhỏ bé vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp và FDI chính là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển ngành, trong thời gian tới cần có các biện pháp tăng cường, khuyến khích thu hút đầu tư về mọi mặt nhằm đạt được nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước vững mạnh hơn. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA VIỆT NAM I. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM GẮN VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 1. Định hướng chung về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 -2010 được trình bày trong báo cáo chính trị trình Đại hội IX của Đảng là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân dược nâng lên đáng kể.” (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001) Chúng ta thực hiện mục tiêu phát triển đất nước trên đây trong điều kiện nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bởi vậy, để vừa đạt được mục tiêu phát triển, vừa đảm bảo quá trình hội nhập, chúng ta phải giải quyết đồng bộ rất nhiều vấn đề có tính chiến lược về kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và quản lý, trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất là một đòi hỏi cấp thiết của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới một cách có hiệu quả. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra mục tiêu đến năm 2010 giảm tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm nông , lâm , ngư) xuống còn 16 -17% trong GDP của nền kinh tế quốc dân và đưa tỷ trọng của công nghiệp lên 40-45% dịch vụ lên 42-43%. Đến năm 2020, tiếp tục giảm nữa sao cho tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn khoảng 10-11%, công nghiệp 43-44% và dịch vụ 45-46%. Lúc đó, nước ta mới trở thành một nước công nghiệp. Phát triển nhanh và bền vững Phát triển, hội nhập và đổi mới có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau, trong đó phát triển là mục tiêu, hội nhập và hướng về xuất khẩu vừa là điều kiện vừa là động lực cho sự phát triển. Phát triển nhanh và bền vững phải bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời phải gắn kết với thực hiện công bằng xã hội, giữa gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh xã hội. Phát triển nhanh và bền vững sẽ đưa lại kết quả chuyển dich cơ cấu nhanh và môi trường trong sạch, nâng cao chất lượng cuộc sống. Chủ động thực hiện hội nhập quốc tế để tranh thủ cơ hội mới về vốn, công nghệ và thị trường thế giới, chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hóa. Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tốc, bản sắc văn hóa và định hướng XHCN, không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình, khắc phục, hạn chế các mặt bất lợi. Thách thức lớn nhất trong hôi nhập quốc tế là phải tăng được sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước thì mới đứng vững và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quyết liệt toàn cầu. Đồng thời phải tạo lập các yếu tố đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường khả năng ứng phó với tác động bất lợi về kinh tế từ bên ngoài. Gắn chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với việc thực hiện chiến lược hội nhập hướng mạnh về xuất khẩu trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Phát triển các ngành nghề có lợi thế nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường nội địa trên cơ sở tiềm năng, điều kiện và nguồn lực trong nước. đồng thời căn cứ vào nhu cầu thị trường quốc tế, yêu cầu của hội nhập và tính hiệu quả của phân công lao động quốc tế đòi hỏi ta phải xác định đúng và tập trung vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn hướng tới xuất khẩu. Phát triển các ngành này không chỉ tạo ra thế và lực cho nền kinh tế mà còn là yếu tố cơ bản đảm bảo sự bền vững của quá trình phát triển. Lựa chọn và phát triển đúng đắn các ngành mũi nhọn hướng về xuất khẩu sẽ góp phần khẳng định các lợi thế so sánh của Việt Nam, tạo tiềm lực kinh tế mạnh để giải quyết các mục tiêu kinh tế, xã hội cốt lõi của mỗi thời kỳ phát triển. Thực chất của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế là tạo mọi điều kiện thuận lời để cho các ngành và sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Thêm vào đó, sự xuất hiện những ngành và sản phẩm mới có hàm lượng sản xuất cao và phát triển nhanh chóng cả về sản lượng sản xuất và cả về khối lượng xuất khẩu của những sản phẩm mới đó sẽ vừa đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hướng về xuất khẩu vừa tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu, làm cho tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sẽ gấp 2-3 lần tăng trưởng kinh tế nói chung. Trong thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kinh tế nước ta phải đạt 7%-10% năm và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sẽ cao hơn gấp đôi, tức 14%-20%. Để đạt được điều đó, tốc độ tăng trưởng các ngành và sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao phải đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 7%-15% và nước ta phải có hàng chục sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu xây dựng được cơ cấu kinh tế có những đặc điểm cơ bản là: Cơ cấu kinh tế phát triển vững chắc dựa trên cơ sở nền tảng của các ngành công nghiệp cơ bản (nổi bật như công nghiệp năng lượng, sản xuất thép và một số lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, hoá chất cơ bản, vật liệu xây dựng…); các ngành dịch vụ chủ yếu và chất lượng cao (như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, vận tải, thông tin, khoa học công nghệ…). Nước ta đang đứng trước thời điểm mở cửa theo lộ trình cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế với ASEAN, APEC và tới đây là WTO. Hướng nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái, gắn với du lịch. Cũng theo hướng đó, từng bước phát triển nghề rừng trên cơ sở phát triển nguyên liệu gắn với công nghệ chế biến cao để có được nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế nhằm đảm bảo lâm nghiệp có mức đóng góp xứng đáng hơn cho sự phát triển kinh tế ở một quốc gia mà 2/3 diện tích tự nhiên là đồi núi như Việt Nam. Trong 10 năm và cả 20 năm tới, nguồn lực chủ yếu của đất nước ta vẫn là lao động dồi dào đến mức dư thừa, dự trữ đất đai và các tài nguyên khác tính trên đầu người là thấp và ngày càng cạn kiệt và triển vọng phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế là thuận lợi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên cho những ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất sản phẩm chủ yếu cho xuất khẩu và có năng lực chuyển dịch cao khi các tương quan về cung cầu trên thị trường thế giới thay đổi. Sự ưu tiên đó nhằm khai thác một cách có hiệu quả các lợi thế tương đối của đất nước sẵn có trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu hóa và khu vực hóa. Đồng thời, thực hiện đi tắt đón đầu, tăng tốc vào những ngảnh sản phẩm dịch vụ công nghệ cao, cách thức phát triển rút ngắn, đặc biệt đột phá vào ngành điện tử, tin học, viễn thông, tìm cách nhảy vọt về cơ cấu ngành sản phẩm. 2. Quan điểm và phương hướng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam 2.1. Quan điểm thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp Ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta không chỉ bởi phần đông dân số sống ở nông thôn mà còn bởi những đóng góp của ngành này trong GDP và trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Chính vì vậy, mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp đã được chính phủ xác định trong Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005: “Xây dựng một nền nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản) hàng hóa mạnh, đa dạng và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học, công nghệ, làm ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và tăng khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn; tăng nhanh thu nhập và đời sống của nông dân, ngư dân, diêm dân và người làm nghề rừng.” Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn đến năm 2010 cũng đã nêu rõ: “Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, phát triển đa dạng, bền vững và hiệu quả cao trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh khi gia nhập WTO, trước mắt là AFTA và BTA. Xây dựng nông thôn mới XHCN có cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ hợp lý, từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm cho người lao động ở nông thôn, tiến tới một nông thôn no đủ, dân chủ, công bằng, văn minh.” Trong hội nghị tổng kết ngành nông nghiệp, nông thôn năm 2006 ngày 11/1/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu: “Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn gắn với cải thiện đời sống của người nông dân luôn là vấn đề trọng tâm, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu tiên”. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trước giai đoạn phát triển mới, ngành nông nghiệp Việt Nam đòi hỏi phải có những nguồn lực mới để đạt tới thành công. Như vậy, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương nhất quán, lâu dài nhằm góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước nói chung và phát triển nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng. Thu hút FDI vào ngành nông nghiệp thể hiện và phải đảm bảo các quan điểm thông suốt của Đảng và Nhà nước ta từ khi mở cửa tới nay, đó là đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân. FDI là một bộ phận cấu thành của các nguồn vốn khác. Vì vậy, đối với huy động vốn cho phát triển nông nghiệp, FDI phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn khác như ODA và các nguồn huy động trong nước. Quan điểm “mở” và “che chắn” trong thu hút FDI trước hết phải phát huy được những tiềm năng thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam, sau đó là phải đảm bảo được an ninh lương thực và bảo vệ tài nguyên môi trường của quốc gia, đồng thời vẫn hỗ trợ cho những doanh nghiệp còn non trẻ của Việt Nam hoạt động trong ngành nông lâm nghiệp trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 2.2. Phương hướng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp đến năm 2010 Để đạt được mục tiêu chung về thu hút FDI của cả nền kinh tế và hiện thực hóa những quan điểm về thu hút FDI cho lĩnh vực nông nghiệp, ngành nông nghiệp sẽ đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI trên cơ sở các nhóm giải pháp và chương trình hành động cụ thể. Theo đó, thu hút FDI vào ngành nông nghiệp phải đảm bảo: Phù hợp với quy hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, quy hoạch vùng nguyên liệu Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất Sử dụng có hiệu quả nguyên liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân Có tính khả thi cao, nhất là về địa điểm thực hiện, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên liệu Kết hợp các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng – ngành. Điều 27 Luật đầu tư năm 2005 quy định “Nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới” là một trong những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Như vậy, lĩnh vực nông nghiệp bao gồm cả thủy sản là lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định chung của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trên cơ sở chiến lược phát triển của ngành, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cụ thể hóa định hướng thực hiện đối với các ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau: Đối với ngành trồng trọt và chế biến nông sản: Nguồn vốn FDI cần tập trung vào các dự án xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè… theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến. Đối với ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi: cần tập trung thu hút FDI vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao. Đối với ngành trồng rừng – chế biến gỗ: Cần hướng FDI vào các dự án sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản. Ngoài ra, phương hướng của ngành cũng đưa ra yêu cầu cần thiết phải thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thu hút FDI. Bên cạnh việc hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN, các nước và vùng lãnh thổ châu Á láng giềng, thì việc tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư với các nước EU, Hoa Kỳ, Canada, là những đối tác quan trọng để đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG TÍCH CỰC 1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy hoạch về thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài Quy hoạch đầu tư nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước, bao gồm vốn và các nguồn lực trong nước, vốn ODA, vốn FDI trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao cạnh tranh và hiệu quả nền kinh tế. Việc quy hoạch thu hút vốn FDI ngay từ đầu phải gắn với việc phát huy nội lực (gồm cả vốn, tài sản và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích lũy được cùng với nguồn tài nguyên chưa sử dụng, nguồn lực con người, lợi thế về vị trí địa lý và chính trị); gắn với việc đảm bảo về an ninh quốc phòng; phát huy được lợi thế so sánh của sản phẩm Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu quy hoạch sẽ khó tránh khỏi đầu tư dàn trải, trùng lặp và để lại những hậu quả mất cân đối cơ cấu kinh tế, khó khắc phục về sau. 1.1.Quy hoạch phát triển ngành 1.1.1.Đối với việc quy hoạch các ngành kinh tế nói chung Việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm phải gắn với mỗi ngành, có xem xét đến từng vùng, mỗi đại phương, ưu tiên phát triển các ngành khai thác lợi thế so sánh của ngành; đồng thời tăng cường thu hút các dự án có công nghệ thích hợp, đầu tư vào những ngành mũi nhọn. Rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể đối với từng ngành kết hợp với vùng lãnh thổ, đặc biệt là các ngành lớn của nền kinh tế và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành theo hướng tích cực với nội dung: + Xây dựng dữ liệu về tiềm năng và thế mạnh của vùng qua điều tra khảo sát về nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên… + Công bố danh mục những sản phẩm trong nước có thể tự sản xuất. + Công bố danh mục các dự án cần gọi vốn FDI theo hình thức đầu tư, trên cơ sở dự báo chuẩn xác nhu cầu thị trường, dự kiến quy mô, công suất, đối tác trong và ngoài nước, địa điểm, tiến độ thực hiện và các chính sách khuyến khích, ưu đãi… để làm cơ sở xúc tiến đầu tư. Rà soát điều chỉnh quy hoạch ngành theo hướng xoá bỏ độc quyền và bảo hộ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho khu vực FDI tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành. Công tác quy hoạch cần thực sự đổi mới. Tập trung thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI vào các ngành công nghiệp có hiệu quả vốn FDI vào các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu như: dệt may, giày dép…các ngành công nghiệp nặng, các lĩnh vực công nghệ cao, điện tử, tự động hoá và sản xuất vật liệu mới và ngành công nghiệp phụ trợ. Đối với lĩnh vực nông – lâm - thuỷ sản, cần dành nhiều ưu đãi thu hút vốn FDI trong lĩnh vực: Chế biến các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn. Đối với lĩnh vực dịch vụ, cần xây dựng quy hoạch tổng thể về mức độ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (mức độ được phép góp vốn và thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) vào lĩnh vực cung cấp dịch vụ trên cơ sở cam kết của Việt Nam tại Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) và với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 1.1.2.Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp Cho đến nay, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn nước ta vẫn chưa có một Chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng FDI của ngành. Do đó, ngành chưa thể định hướng một cách có hiệu quả nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản, dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài chưa mặn mà với ngành, vì thế đầu tư còn thiếu đa dạng, phân bổ nguồn vốn không đồng đều giữa các địa phương. Để khắc phục những hạn chế trên, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiến hành rà soát, xây dựng quy hoạch vùng và sản phẩm chủ lực trên cơ sở gắn với mục tiêu, phương hướng phát triền cơ cấu nội bộ ngành và phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Bộ cần đưa ra được chiến lược cụ thể thu hút bao nhiêu lượng vốn FDI cho phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh thu hút từ những đối tác đầu tư nào, ưu tiên thu hút nguồn vốn vào những địa phương nào, những vùng nào, nguồn vốn có được sẽ được sử dụng vào lĩnh vực cụ thể nào. Cần dành nhiều ưu đãi thu hút vốn FDI trong lĩnh vực: Chế biến các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án công nghiệp phục vụ nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn. Tập trung quy hoạch và chủ động xây dựng các khu nông nghiệp tập trung, các khu nông nghiệp công nghệ cao để tạo thuận lợi cho việc thu hút FDI vào nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở chiến lược và quy hoạch được đề ra, Bộ cùng với các địa phương xây dựng danh mục cấp dự án trọng điểm để ưu tiên gọi vốn. Danh mục các dự án được đưa ra cần phải dựa trên cơ sở phân tích các tiềm năng của các địa phương và phải được nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài của Bộ. Từ đó góp phần hạn chế hiện tượng đầu tư dàn trản, tràn lan đồng thời tạo điều kiện phát triển các lợi thế của từng địa phương. Sau khi đã có quy hoạch, vấn đề quan trọng là tổ chức, chỉ đạo, thực hiện quy hoạch đó thống nhất trên phạm vi cả nước. Để thực hiện đúng quy hoạch của Nhà nước cần có sự phối hợp của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương và cơ sở để lập kế hoạch chi tiết và thông báo đến từng doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân về quy hoạch của tiểu vùng để mỗi cơ sở có kế hoạch sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cung cấp sản phẩm với số lượng và chất lượng phù hợp với nhu cầu của mỗi dự án. 1.2.Quy hoạch phát triển vùng 1.2.1.Đối với cơ cấu kinh tế cả nước Tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh…), nhằm phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của các vùng phụ cận về nguyên liệu, lao động và các nguồn lực khác. Các địa bàn này, trên cơ sở quy hoạch chung mới xây dựng quy hoạch riêng cho mình để tránh tình trạng chồng chéo, các địa phương không bổ trợ được cho nhau. Các địa phương cần tăng cường việc xúc tiến đầu tư giới thiệu thế mạnh cho mình qua tạp chí, internet, đĩa CD, lập ra cơ quan giải đáp thắc mắc… tạo sự hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài theo đúng định hướng, tập trung thu hút FDI theo quy hoạch chứ không phải là thu hút FDI bằng mọi giá như hiện nay. Để thu hút được các dự án FDI vào đúng các ngành nghề cần thu hút theo quy hoạch chung cho địa phương mình, các địa phương có thể tự xây dựng, chuẩn bị tốt các dự án tiền khả thi trong các ngành lĩnh vực đó. Đồng thời có kế hoạch giải phóng sẵn mặt bằng để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư. 1.2.2.Đối với ngành nông nghiệp Các địa phương cần khai thác lợi thế về điều kiện khí hậu, sinh thái, đất đai, vùng miền, lao động… để xây dựng một kế hoạch quy hoạch dài hạn và cụ thể cho phát triển nông nghiệp của vùng. Từ đó, đề xuất những thu hút những dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực thế mạnh của vùng. Vì thế, các địa phương cần tiến hành quy hoạch phát triển các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, phát triển đa dạng và bền vững, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong quy hoạch phát triển các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá cần xây dựng quy hoạch phát triển chi tiết các loại cây trồng, vật nuôi, ưu tiên phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá theo quy mô lớn. Trước mắt, cần tập trung xác định danh mục các loại cây trồng, vật nuôi, các mặt hàng nông sản có hiệu quả kinh tế cao, có điều kiện phát triển thuận lợi để có kế hoạch ưu tiên đầu tư phát triển. Những sản phẩm ưu tiên phải là những sản phẩm mà từng vùng, từng địa phương có lợi thế phát triển, có nhiều tiềm năng đưa sản phẩm ra thị trường và đạt hiệu quả cao. Mỗi vùng chỉ nên chọn 2 – 3 sản phẩm chủ lực để tập trung kêu gọi đầu tư, không chỉ các dự án FDI nói riêng mà tất cả các nguồn đầu tư khác, từ đó để tập trung thực hiện sản xuất cho hiệu quả, tránh tình trạng quá nhiều sản phẩm dẫn đến việc phân tán đầu tư. Chú ý khai thác lợi thế so sánh về sản xuất lương thực ở hai vùng trọng điểm: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long để tăng khả năng xuất khẩu lương thực. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay, khi tiến hành quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp cần gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm và tăng cường quan hệ liên kết trên từng địa bàn nông thôn, nhất là liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, liên kết sản xuất với khoa học. Có chính sách ưu đãi hơn nữa để khuyến khích FDI vào những vùng và địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị cũng như thực hiện tốt chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước ta. Có thể ưu đãi bằng cách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định kể cả khi doanh nghiệp đã chuyển lỗ xong và có lợi nhuận, hoặc sau khi chuyển lỗ có lợi nhuận thì chỉ đánh thuế với mức thấp, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào của ngành nông nghiệp và những ngành hỗ trợ trong một thời gian nào đó. Ngoài ra, nguyên nhân chủ yếu khiến vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn gặp nhiều khó khăn là do cơ sở hạ tầng kém phát triển và trình độ người lao động quá thấp. Vì vậy, để thu hút được FDI vào những địa bàn này cần chú trọng hơn nữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giáo dục đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn, hay có thể qua nguồn vốn từ bên ngoài như qua các dự án ODA hoặc dành những ưu đãi đặc biệt để thu hút được những dự án FDI vào cơ sở hạ tầng ở những vùng này. 2.Nâng cao hiệu quả quản lý các dự án đầu tư Hiện nay, ở nước ta, công tác quản lý đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án nông nghiệp, nhìn chung còn nhiều bất cập, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt nam, gây ra tác động không tốt cho quá trình phát triển kinh tế nước ta nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. Để nâng cao hiệu quả quản lý, tạo thuận lợi để đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần quản lý chặt chẽ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ khâu cho phép đầu tư đến quá trình hoạt động của các doanh nghiệp đó. 2.1.Quá trình thẩm định và triển khai dự án Chỉ cấp phép cho những dự án có tác động tích cực tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước nói chung, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Quản lý thật chặt chẽ việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ, tránh để nhập các thiết bị công nghệ quá cũ, quá lạc hậu. Tuy nhiên, vấn để đổi mới công nghệ đối nghịch với vấn đề giải quyết việc làm. Do đó, nhà nước cần có những quy định cụ thể lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị và công nghệ mới, những lĩnh vực nào cho phép những công nghệ đã qua sử dụng, nhưng phải quy định rõ năm chế tạo, chất lượng còn lại… để tránh nhập khẩu tràn lan các thiết bị quá cũ. Kiên quyết xem xét lại và đưa ra quyết định mới (bác bỏ hoặc chấp thuận có điều kiện) đối với những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp thiếu tính khả thi, thực tiễn, hiệu quả thấp. Quá trình thẩm định dự án trước khi triển khai trong thực tế là vô cùng cần thiết và cần được xem trọng bởi thực tế, việc thực hiện các dự án trong nông nghiệp diễn ra rất chậm chạp, hiệu quả không cao và số lượng các dự án FDI bị giải thể phần nhiều là các dự án đầu tư nông nghiệp. 2.2.Quản lý nhà nước đối với các dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy cách của giấy phép đầu tư không là vấn đề quan trọng, cấp bách, tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư. Cần có cơ chế phối hợp giữa các Bộ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và cơ quan quản lý FDI các địa phương để bao quát, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp FDI nông nghiệp, song cũng không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp, hạn chế tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều để đảm bảo quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Ngoài ra, để hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài hơn nữa trong quá trình thực hiện thủ tục đầu tư và giải quyết các vướng mắc trong thời gian hoạt động, cần xây dựng một cơ quan chuyên trách về vấn đề này. Việc thành lập một cơ quan như vậy là rất cần thiết bởi hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện nên không tránh khỏi những bất cập gây trở ngại cho quá trình đầu tư dự án. 3.Xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành nông nghiệp, địa bàn theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế khác, vào các địa bàn theo đúng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước, chúng ta không thể sử dụng các biện pháp hành chính để ép buộc các doanh nghiệp FDI như: bắt các doanh nghiệp phải sử dụng các dịch vụ trong nước, chuyển giao công nghệ, xuất khẩu theo tỷ lệ nhất định… Do vậy, để nâng cao hiệu quả của FDI với chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể có thể sử dụng một số nhóm chích sách chủ yếu sau: + Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư: Bên cạnh những chính sách ưu đãi về thuế, thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp như hiện nay, cần tiếp tục mở rộng biên độ ưu đãi thuế doanh nghiệp đối với các dự án áp dụng công nghệ sinh học để phát triển sản xuất các loại giống mới, phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, dịch vụ nông thôn. Bằng cách này, không chỉ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mà còn giúp phong phú thêm các giống cây trồng và vật nuôi, tăng mặt hàng nông lâm sản, khắc phục được hiện tượng giá cánh kéo do xuất khẩu sản phẩm thô mà còn nâng cao vị thế của mặt hàng nông lâm sản trên thị trường thế giới. Mở rộng ưu đãi thuế thu nhập cho các dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng và dịch vụ nông thôn không những tận dụng được nguồn vốn lớn cho phát triển vùng nông nghiệp nông thôn, từ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư mà còn tạo điều kiện khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác của nông nghiệp. Để hỗ trợ các doanh nghiệp hạn chế một phần rủi ro khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp trước ảnh hưởng của thiên tai và biến động giá của thị trường, có thể áp dụng các chính sách bảo trợ cho các doanh nghiệp. Những hỗ trợ này sẽ thể hiện sự quan tâm của Việt Nam với lĩnh vực nông nghiệp. lĩnh vực được coi là chịu nhiều rủi ro nhất và sẽ khiến các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, để thu hút vốn FDI vào các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, thường là các dự án đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án trọng điểm quốc gia, cần mở rộng khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp FDI, có thể cam kết cho vay từ nguồn vốn ODA nhằm khuyến khích sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Đối với các dự án trong điều kiện sản xuất khó khăn nhưng vẫn có khả năng khắc phục được, cần hỗ trợ bổ sung nguồn vốn, tránh hiện tượng giải thể, phá sản, dẫn đến những tác động không tốt tới nền kinh tế. + Các chính sách liên quan đến thương mại và phát triển thị trường Một trong những yếu kém của hàng nông sản Việt Nam là chưa tạo dựng được thương hiệu và danh tiếng trên thị trường thế giới. Vì thế, hàng nông sản của Việt Nam chưa được biết đến nhiều mặc dù nước ta có lợi thế so sánh trong sản xuất các mặt hàng như gạo, cà phê, hạt điều, chè, rau, quả… Đối với các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu hàng nông sản, việc tạo dựng thương hiệu quốc tế cho các sản phẩm sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và nâng cao giá trị thương mại cho các mặt hàng này, do đó khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp nước ta. + Chính sách về đất đai: Để khắc phục tình trạng thiếu đất dành cho các dự án FDI trong nông nghiệp, Chính phủ và các địa phương cần có quy hoạch ưu tiên tạo quỹ đất cho các dự án FDI. Khi các nhà đầu tư nước ngoài có ý định mở rộng diện tích đất để mở rộng dự án, phải nhanh chóng xem xét và có hướng phát triển tích cực cho các dự án. Hơn nữa, nhiều dự án chậm đưa vào triển khai là do việc giải phóng mặt bằng tiến hành quá chậm, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ cũng như hiệu quả của dự án, làm phát sinh nhiều chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài. Để khắc phục tình trạng này, cần có nhiều biện pháp hỗ trợ công tác giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án được triển khai nhanh chóng. 4.Cụ thể hoá các định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thành các chương trình và kế hoạch đầu tư Các định hướng thu hút vốn FDI được nêu trong các văn bản luật, nghị quyết, nghị định của Chính phủ về đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ là các định hướng lớn và rất chung. Vì vậy, nếu các định hướng này không được cụ thể hoá thêm một bước gắn với mục tiêu cơ cấu kinh tế cần chuyển dịch thì sẽ trở thành các khẩu hiệu, chưa trở thành một chương trình hành động của các ngành, các cấp trong cả nước. Đó cũng là một trong các nguyên nhân làm cho các nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ, Thủ tướng khó đi vào cuộc sống. Muốn các văn bản này đi vào thực tiễn cuộc sống thì cần phải cụ thể hoá chúng thành chương trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể. Chẳng hạn, trong nghị định, nghị quyết nêu ra ngành nào, lĩnh vực nào, địa phương nào được ưu tiên, chúng ta có thể cụ thể hoá và công bố mức ưu tiên đối với ngành (nhóm ngành) hoặc lĩnh vực đó trong từng giai đoạn. Bởi vì, cùng thuộc diện ưu tiên, như cùng thuộc nhóm ngành đặc biệt khuyến khích, nhưng mức độ ưu tiên lại khác nhau. Điều này nên được cụ thể hoá và công bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài biết, để nó trở thành cái chung mà không nên xem xét cụ thể cho từng trường hợp, hoặc để cho các nhân tố không chính thức tác động làm mất tính khách quan của quá trình xem xét. 5.Hoạt động xúc tiến đầu tư phải coi trọng mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hoạt động xúc tiền đầu tư của Việt Nam đã có những thành công nhất định. Tính đến nay, chúng ta đã có 84 nước và vùng lãnh thổ nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và 82 trong số 500 Công ty đa quốc gia đang đầu tư tại Việt Nam. Tuy vậy, hiệu quả xúc tiến đầu tư nước ngoài trong thời gian quan vẫn còn thấp. Nguyên nhân của hiệu quả xúc tiến đầu tư còn thấp là do thiếu chiến lược dài hạn về xúc tiến và thu hút đầu tư; thiếu sự quan tâm của các ngành, các cấp, và các địa phương trong việc tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư tại các địa phương còn mang tính chất tự phát, không căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ. Các hoạt động xúc tiến đầu tư được tiến hành chủ yếu ở trong nước, chưa có sự mở rộng quảng bá về môi trường, chính sách đầu tư của Việt Nam với các nước bên ngoài và chưa có kế hoạch tuyên truyền, vận động xúc tiến đầu tư tại nước ngoài và dới hình thức các ấn phẩm; hoạt động xúc tiến đầu tư của các văn phòng đại diện ngoại giao ở một số nước còn kém hiệu quả. Để đẩy mạnh thu hút FDI cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, chất lượng và hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư là yếu tố rất quan trọng để lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp nói riêng. Công tác này phải đảm bảo được tiến hành thường xuyên, dưới nhiều hình thức và có tính sáng tạo nhằm tạo hình ảnh của ngành nông nghiệp Việt Nam và của đất nước trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Trước hết là hoạt động xúc tiến đầu tư của các nhà lãnh đạo cấp cao. Đây là hoạt động mang tính chất chính trị, có vai trò khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài. Hàng năm, Việt Nam cần phải kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài với các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ; kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư của các nhà lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ tại các diễn đàn kinh tế quan trọng như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC)… Trong đó, nêu rõ mong muốn thu hút các dự án FDI có hàm lượng công nghệ cao nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hoá và mong muốn có nhiều dự án FDI vào các vùng có điều kiện khó khăn hơn. Đồng thời, nêu rõ những ưu đãi của Việt Nam đối với những dự án như thế này và lợi ích mà các nhà đầu tư nước ngoài sẽ thu được nếu đầu tư. Tăng cường tổ chức các hội thảo về xúc tiến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nước ngoài, đặc biệt chú trọng vào việc tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư tại các nước có nền nông nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Australia, Thái Lan…Việc tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư phải trên cơ sở phối hợp với các nhà tài trợ nước ngoài. Tại các cơ quan xúc tiến đầu tư, các hội thảo về xúc tiến đầu tư, phải quảng bá, nêu bật được sức hấp dẫn của các ngành, địa bàn mà Việt Nam khuyến khích vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (các ngành, địa bàn này đã có trong quy hoạch). Phải thuyết phục được các nhà đầu tư nước ngoài rằng điều đó cũng mang lại cho họ những lợi ích to lớn trong tương lai. Có thể thực hiện việc tuyên truyền này dưới các hình thức như: giải đáp trực tiếp, in ấn sách báo, băng đĩa… Cần quán triệt quan điểm thực hiện tốt công tác hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai một cách hiệu quả các dự án FDI đã được cấp giấy phép là cách tốt nhất để hấp dẫn các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, hiện thực hoá chủ trương nhất quán của Nhà nước ta trong việc khuyến khích nguồn vốn FDI vào lĩnh vực này. Cần xây dựng hệ thống các Trung tâm xúc tiến đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư tại các vùng kinh tế, cụ thể là: đề xuất với Chính phủ xây dựng một hệ thống các văn phòng của Bộ kế hoạch và đầu tư đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại các vùng kinh tế trong nước. Như vậy, có thể xúc tiến thu hút đầu tư theo đúng quy hoạch vùng, tạo ra được sự liên kết giữa các địa phương trong một vùng, giữa các vùng với nhau, tạo sự chuyển dịch cơ cấu vùng một cách hợp lý, chuyển dịch cơ cấu ngành cũng phù hợp với cơ cấu vùng. Các trung tâm xúc tiến đầu tư thay mặt Bộ Kế hoạch và Đầu tư giải quyết những vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài tại các địa phương và chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm hỗ trợ cho các địa phương đẩy mạnh hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài. Các trung tâm xúc tiến tại các khu vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẻ giữa văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương. 6. Hoàn thiện chính sách chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ Để có thể thu hút FDI vào nước ta nói chung và lĩnh vực nông nghiệp theo hướng tích cực đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc để các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao nhiều công nghệ hiện đại vào nước ta là rất cần thiết. Tuy nhiên, các chính sách về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ của Việt Nam lại chưa được hoàn thiện. Do đó, cần hoàn thiện chính sách chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt nam như: nghiên cứu, nới lỏng các quy định tiến tới xoá bỏ giới hạn trần về phí chuyển giao công nghệ đối với các công ty có sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước, áp dụng chế độ khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với chi phí chuyển giao công nghệ trong khoảng thời gian nhất định. Thực thi tốt các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Vì thế, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ ở Việt Nam là cần thiết, từ đó mới thu hút được nhiều dự án FDI không chỉ vào lĩnh vực nông nghiệp mà các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, góp phần chuyển dịch nhanh nông nghiệp nông thôn theo hướng tích cực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra. 7.Đào tạo đội ngũ cán bộ làm tốt công tác đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Để phát huy những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta thì việc có một đội ngũ cán bộ làm tốt công việc đầu tư là một việc làm hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp, các cán bộ làm công tác đầu tư cần nắm bắt tình hình của các dự án mà còn cần đi sâu đi sát tới những vấn đề đặc thù của ngành nông nghiệp. Đội ngũ cán bộ không làm tốt công việc của mình, thì không thể xây dựng được một quy hoạch tốt, việc thu hút FDI sẽ tràn lan, gây tổn hại cho lợi ích của địa phương và cho cả đất nước. Giáo dục đào tạo luôn được coi là quốc sách. Trước mắt, có thể mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề để nâng cao trình độ cho các cán bộ đang làm việc trong các bộ phận liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc cử cán bộ đi học, đào tạo về nghiệp vụ trực tiếp liên quan đến công việc giám sát, quản lý hay xúc tiến đầu tư. Về lâu dài, cần đào tạo chuyên ngành về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các trường đại học về kinh tế theo một chương trình thống nhất và sát với thực tiễn. Một thực tế đặt ra hiện nay là, số lao động trong nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm tỷ trọng tới gần 60% so với lao động trong cả nước nhưng số lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực nông – lâm – thủy sản chỉ chiếm rất ít (13%) trong số đó. Trong khi đó, hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp được triển khai tại các vùng nông thôn hoặc vùng lân cận đô thị, nhưng nguồn nhân lực tại chỗ đạt chất lượng, đủ trình độ để đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư lại quá thiếu, dù rằng số lượng đang quá dư dôi. Vì thế, cần có những biện pháp hỗ trợ đào tạo để nâng cao chất lượng lao động ở các khu vực này nhằm phát triển nguồn lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời cũng tăng cơ hội tiếp cận của người lao động với quá trình hội nhập. Trên đây là những một số giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiêp nói riêng và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong thời gian tới. Điều cần thiết là những giải pháp phải được triển khai một cách đồng bộ để vừa huy động được nguồn vốn FDI vào nông nghiệp, vốn là lĩnh vực thu hút được ít nguồn vốn FDI nhất trong cả nước, vừa để phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội tại ngành nông – lâm - thủy sản, vừa lại đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển kinh tế đất nước và giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước được hợp lý và cân đối, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của nó với quá trình này. KẾT LUẬN Nguồn vốn FDI là một bộ phận quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Cơ cấu FDI là một yếu tố quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia nhằm thực hiện hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI là yêu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Đồng thời, đó cũng là đòi hỏi khách quan của một nền kinh tế mở cửa hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đất nước, thời gian qua, công tác kêu gọi, thu hút nguồn vốn FDI vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung, theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy và kích thích nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng đổi mới cơ cấu nội bộ ngành tích cực, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho gần 75 nghìn lao động và gián tiệp tạo thêm lao động trong các ngành sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tạo ra thị trường ổn định để tiêu thụ nông sản nguyên liệu cho nông dân, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, những kết quả nói trên mới chỉ là bước đầu. Bên cạnh những gì đạt được, thực tế cũng chỉ ra không ít những khó khăn, hạn chế bất cập trong khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây. Thời gian vừa qua, đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam rất lớn và tăng dần theo từng năm, nhưng ở lĩnh vực nông nghiệp thì thu hút FDI rất thấp. Tỷ lệ vốn thu hút được so với các ngành khác còn quá thấp, tốc độ triển khai các dự án còn chậm chạp, số vốn thực hiện cũng thấp hơn so với vốn đăng ký. So với tiềm năng phát triển và nhu cầu về vốn đầu tư vào nông nghiệp thì tỷ lệ thu hút FDI đã đạt được là chưa phát huy được tối đa tiềm năng và hiệu quả của ngành. Hơn thế nữa, vấn đề quan trọng không kém là nước ta có trên 70% dân số sống nhờ vào nông nghiệp nhưng hiện nay, tổng vốn FDI đăng ký vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung chỉ chiếm rất ít trong tổng vốn FDI đăng ký cả nước (tính đến hết năm 2007 là 10,8%), tác động không nhỏ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Với việc đánh giá thực trạng khả năng thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước và nêu ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút hơn nữa vốn FDI vào ngành nông nghiệp trong giai đoạn tới theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực, hy vọng khoá luận này sẽ mang đến cho người đọc một cái nhìn tổng quát về tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam. Do khả năng và thời gian còn nhiều hạn chế nên trong khoá luận không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong được thầy cô và các bạn lượng thứ và cùng đóng góp, bổ sung ý kiến cho đề tài được hoàn thiện! Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhóa luận TN Ngoại thương - Thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.doc
Luận văn liên quan