Khóa luận Thực trạng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của các NHTM Việt Nam hiện nay nên bắt đầu từ biện pháp là các ngân hàng phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các trường đại học chuyên ngành tài chính, ngân hàng nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sao cho giáo dục phải đi trước thực tiễn yêu cầu của nền kinh tế và lĩnh vực ngân hàng, tránh tình trạng như hiện nay khi mà một bộ phận không nhỏ sinh viên được đào tạo chuyên ngành ngân hàng, tài chính nhưng không được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu công việc, sau khi được tuyển dụng đều phải trải qua một quá trình đào tạo lại. Nguyên nhân chủ yếu là do chương trình đào tạo đại học vẫn thiên về lý thuyết, không theo kịp, không bám sát thực tiễn công việc, trình độ giảng dạy của đội ngũ giảng viên đại học còn nhiều hạn chế. Vì vậy, các ngân hàng có thể cùng với Bộ giáo dục và đào tạo và các trường đại học chuyên ngành phối hợp biên soạn, cập nhật giáo trình giảng dạy theo hướng hiện đại và bám sát thực tiễn hơn. Bên cạnh đó, các ngân hàng có thể thực hiện tài trợ các trang thiết bị giảng dạy, đào tạo hiện đại hỗ trợ cho các trường đại học nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với thực tiễn của đội ngũ giảng viên và sinh viên. Đội ngũ giảng viên chuyên ngành bên cạnh việc tự tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi cũng cần được thường xuyên trau dồi các kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn mới về nghiệp vụ ngân hàng để nâng cao trình độ giảng dạy. Ngoài ra các ngân hàng và các trường đại học có thể tạo điều kiện cho sinh viên sớm tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động ngân hàng thông qua các chương trình thực tập vào năm thứ 3, thứ 4 tại các ngân hàng như các nước trên thế giới đã làm. Để nâng cao ý thức tự rèn luyện của sinh viên, các chương trình thực tập này có thể được các trường đại học tính vào điểm học tập.

pdf121 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2040 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả công việc của mỗi nhân viên trong việc nâng lương, bình xét khen thưởng nhằm nâng cao tính tự giác trong việc phục vụ tốt khách hàng của họ. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay khi mà các giao dịch ngân hàng đang được toàn cầu hoá mạnh mẽ, nhu cầu của người tiêu dùng có thể phát sinh mọi lúc, mọi nơi thì một biện pháp khác để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là kéo dài thời gian hoạt động của các phòng giao dịch và mở rộng mạng lưới chi nhánh phục vụ nhu cầu giao dịch của người tiêu dùng. Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt để thu hút và giữ chân khách hàng, việc cải tiển chất lượng dịch vụ về mặt kỹ thuật và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là chưa đủ. Các ngân hàng cần có một chiến lược khách hàng hiệu quả để nắm bắt và lưu trữ các thông tin cần thiết về khách hàng nhằm chăm sóc khách hàng một cách chu đáo nhất và duy trì mối quan hệ với họ, chẳng hạn như có những chính sách ưu đãi về phí dịch vụ, khuyến mãi, hậu mãi hay tặng quà cho những khách hàng lâu năm KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 98 hay những khách hàng có doanh số giao dịch lớn,... Một hệ thống giải pháp được rất nhiều ngân hàng trong khu vực và trên thế giới hiện đang áp dụng mà các NHTM Việt Nam nên nghiên cứu áp dụng là hệ thống giải pháp Quản trị quan hệ khách hàng CMR (Customer Relation Management) - được xây dựng trên cơ sở các ứng dụng công nghệ thông tin cho phép thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin về khách hàng một cách có hệ thống - nhằm nâng cao khả năng chất lượng phục vụ khách hàng nói riêng và công tác quản trị khách hàng nói chung. 4.Nâng cao trình độ quản lý điều hành, hoàn thiện và hợp lý hoá cơ cấu tổ chức và mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ Để nâng cao trình độ quản lý điều hành của các NHTM Việt Nam thì hiện nay vấn đề cốt yếu là phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự làm công tác quản lý. Biện pháp này đòi hỏi trước hết mỗi ngân hàng cần xây dựng được một cơ chế lựa chọn nhân sự quản lý công khai và minh bạch, gắn với việc đánh giá nhân viên hàng năm theo đúng các mức độ tiến bộ về các mặt, các tiêu chí theo mô hình khung năng lực toàn diện (Compentency Framework) mà các NHTM trên thế giới hiện nay đang áp dụng. Mỗi ngân hàng cũng cần xây dựng một kế hoạch nhân sự quản lý, có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ nguồn hoặc thông qua chiến lược tuyển dụng dài hạn đối với các vị trí quản lý để đảm bảo tính kế thừa liên tục, tránh gây ra nhứng xáo trộn không cần thiết khi có những biến động về nhân sự quản lý, gây ảnh đến hiệu quả hoạt động của từng bộ phận, phòng ban, chi nhánh hoặc của toàn ngân hàng. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý của các NHTM Việt Nam cũng cần phải khắc phục điểm yếu hiện nay là kinh nghiệm quản lý các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại và công tác quản trị rủi ro thông qua việc tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động hàng ngày và qua việc tự nghiên cứu, học hỏi thêm những kiến thức, kỹ năng cần thiết. Các ngân hàng có thể tổ chức những khoá đào tạo riêng biệt cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý hay hợp tác với các ngân hàng lớn nước ngoài tổ chức các khoá tham quan, tập huấn ở nước ngoài cho các cán bộ này nhằm tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm của các nhà quản trị ngân hàng hàng đầu thế giới. Các NHTM Việt Nam cũng có thể mạnh dạn xem xét phương án thuê các cán bộ quản lý cao cấp nước ngoài có nhiều danh tiếng và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 99 chính ngân hàng. Đây là một phương án tuy tốn kém và không phải ngân hàng nào cũng thực hiện được, nhưng cũng có những lợi ích đáng kể: thứ nhất là tài năng và kinh nghiệm quản lý của họ sẽ góp phần nâng cao hiệu quản hoạt động kinh doanh của đơn vị họ phụ trách nhất là đối với các hoạt động ngân hàng tiên tiến hiện đại, thứ hai là việc thuê các cán bộ quản lý nước ngoài sẽ tạo áp lực tự hoàn thiện đổi mới bản thân mạnh mẽ đối với các cán bộ quản lý và nhân viên Việt Nam, thứ ba việc thuê cán bộ quản lý cấp cao người nước ngoài là biện pháp nhanh nhất để các NHTM Việt Nam tiếp cận với trình độ và kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng hàng đầu trên thế giới. Để nâng cao trình độ quản lý điều hành, trình độ quản trị của từng thành viên và toàn thể Hội đồng quản trị và các Ban chức năng cũng phải được nâng cao về chất lượng thông qua việc thiết lập một cơ chế giám sát hiệu quả, minh bạch hoá thông tin với hệ thống các báo cáo đầy đủ, hệ thống thông tin quản lý thông suốt cũng là một khía cạnh khác để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản trị công ty tại các NHTM Việt Nam. Một biện pháp cần thiết khác để nâng cao trình độ quản lý điều hành của các NHTM Việt Nam là tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng các công cụ quản lý, bao gồm việc xây dựng Hệ thống thông tin quản lý (MIS) đảm bảo sự thông suốt của các luồng thông tin từ các phòng ban, bộ phận, thậm chí từ từng nhân viên tới ban lãnh đạo cũng như ngược lại, góp phần nâng cao năng lực nắm bắt, xử lý thông tin và ra quyết định của các nhà quản lý; thiết kế và sử dụng các mẫu báo cáo phù hợp nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của ngân hàng cũng như các biến động của thị trường để phục vụ cho việc ra quyết định của ban lãnh đạo; thiết lập các quy trình xử lý nghiệp vụ đầy đủ và rõ ràng nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy định về an toàn và hiệu quả trong toàn hệ thống, đồng thời cũng tăng cường khả năng khai thác công nghệ của mỗi ngân hàng; tăng cường cơ chế giám sát và kiểm tra thông qua vai trò của Ban giám sát cũng như Ban kiểm toán, Ban kiểm soát nội bộ và thực hiện nghiêm túc việc kiểm toán độc lập hàng năm. Song song với việc nâng cao trình độ quản lý điều hành, các NHTM Việt Nam cũng cần hoàn thiện và hợp lý hoá hơn nữa cơ cấu tổ chức và mạng lưới phân phối KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 100 sản phẩm dịch vụ. Trên cơ sở áp dụng công nghệ ngân hàng và các công cụ quản lý hiện đại, các ngân hàng có thể nghiên cứu triển khai mô hình tổ chức hướng theo khối khách hàng và sản phẩm, mô hình tổ chức Back-office và Front-office tách bạch giữa khối quản lý và hành chính với khối kinh doanh mà hiện nay đa phần các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới đang áp dụng, cho phép các ngân hàng giảm bớt sự cồng kềnh, chồng chéo và gây lãng phí các nguồn lực trong cơ cấu tổ chức. Việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch cũng phải được hợp lý hoá trong mối tương quan với định hướng, chiến lược phát triển về chiều rộng và nguồn lực hiện có của từng ngân hàng cũng như với sự gia tăng về nhu cầu của người tiêu dùng trên từng khu vực thị trường, tránh sự đầu tư mở rộng mạng lưới ồ ạt, dàn trải, gây lãng phí các nguồn lực và làm giảm hiệu quả kinh doanh. Việc áp dụng các công cụ quản lý và công nghệ hiện đại cùng với việc đổi mới mô hình tổ chức hoạt động cần phải đi đôi với quá trình mở rộng mạng lưới nhằm tăng hiệu quả quản lý và hiệu quả hoạt động của các chi nhánh, phòng giao dịch mới. Mặt khác, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các NHTM Việt Nam hiện nay và trong tương lai cũng cần cân đối với việc mở rộng hệ thống máy ATM vì trên thực tế với xu hướng phát triển của công nghệ ngân hàng, mỗi máy ATM ngày càng có thêm nhiều chức năng, tiện ích khác và dần trở thành một phòng giao dịch mini, giúp các ngân hàng tiết kiệm đáng kể chi phí đầu tư mở rộng mạng lưới. Bên cạnh đó, xu thế phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như InternetBanking, MobileBanking và E-Banking hiện tại và trong tương lai (nhất là ở các thành phố, đô thị lớn) cũng sẽ làm giảm đi tương đối nhu cầu giao dịch ngân hàng theo kiểu truyền thống, do đó cũng làm giảm áp lực về yêu cầu mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng. 5.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng và cấp thiết đối với các NHTM Việt Nam trước khi cánh cửa hội nhập được mở ra đối với lĩnh vực tài chính, ngân hàng bởi vì xét cho cùng, nhân lực chính là cái gốc của mọi đổi mới, mọi thành tựu, là “nguồn lực của mọi nguồn lực” không chỉ trong ngành ngân hàng mà trong toàn bộ nền kinh tế nói chung. Việc đổi mới, nâng cao KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 101 chất lượng nguồn nhân lực phải được các ngân hàng xây dựng thành chiến lược lâu dài và thực hiện một cách toàn diện, triệt để, nghiêm túc mới phát huy được hết tính hiệu quả của nó, bắt đầu từ công tác đào tạo nguồn nhân lực, chính sách tuyển dụng, chính sách trả lương cho đến những chế độ đãi ngộ, điều kiện và môi trường làm việc, cơ hội dành cho nhân viên để họ rèn luyện và nâng cao trình độ, làm cho người lao động không chỉ phấn đấu hết mình cho ngân hàng mà còn giữ chân được họ ở lại cống hiến cho ngân hàng trong một thời gian dài. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của các NHTM Việt Nam hiện nay nên bắt đầu từ biện pháp là các ngân hàng phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các trường đại học chuyên ngành tài chính, ngân hàng nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sao cho giáo dục phải đi trước thực tiễn yêu cầu của nền kinh tế và lĩnh vực ngân hàng, tránh tình trạng như hiện nay khi mà một bộ phận không nhỏ sinh viên được đào tạo chuyên ngành ngân hàng, tài chính nhưng không được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu công việc, sau khi được tuyển dụng đều phải trải qua một quá trình đào tạo lại. Nguyên nhân chủ yếu là do chương trình đào tạo đại học vẫn thiên về lý thuyết, không theo kịp, không bám sát thực tiễn công việc, trình độ giảng dạy của đội ngũ giảng viên đại học còn nhiều hạn chế. Vì vậy, các ngân hàng có thể cùng với Bộ giáo dục và đào tạo và các trường đại học chuyên ngành phối hợp biên soạn, cập nhật giáo trình giảng dạy theo hướng hiện đại và bám sát thực tiễn hơn. Bên cạnh đó, các ngân hàng có thể thực hiện tài trợ các trang thiết bị giảng dạy, đào tạo hiện đại hỗ trợ cho các trường đại học nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với thực tiễn của đội ngũ giảng viên và sinh viên. Đội ngũ giảng viên chuyên ngành bên cạnh việc tự tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi cũng cần được thường xuyên trau dồi các kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn mới về nghiệp vụ ngân hàng để nâng cao trình độ giảng dạy. Ngoài ra các ngân hàng và các trường đại học có thể tạo điều kiện cho sinh viên sớm tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động ngân hàng thông qua các chương trình thực tập vào năm thứ 3, thứ 4 tại các ngân hàng như các nước trên thế giới đã làm. Để nâng cao ý thức tự rèn luyện của sinh viên, các chương trình thực tập này có thể được các trường đại học tính vào điểm học tập. Thực tế những khoá thực tập như vậy sẽ giúp các sinh viên KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 102 hình dung và nắm bắt rõ hơn công việc trong tương lai của mình để có định hướng phấn đấu rõ ràng, góp phần năng cao trình độ kiến thức và kinh nghiệm làm việc cho sinh viên. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng được một chiến lược tuyển dụng thực sự chuyên nghiệp và mang tính lâu dài, trên cơ sở bám sát vào chiến lược kinh doanh và định hướng phát triển cụ thể của từng ngân hàng. Các tiêu chí tuyển dụng phải thực sự rõ ràng, cụ thể, có cơ sở khoa học tuỳ theo yêu cầu từng vị trí, từng công việc, trên cơ sở các tiêu chí ấy các ngân hàng thiết kế một quy trình tuyển chọn với những hình thức thi và nội dung thi phù hợp. Việc đánh giá ứng viên không chỉ đơn thuần dựa trên các tiêu chí cơ bản như trình độ kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm làm việc mà còn phải căn cứ vào các tiêu chí khác như khả năng phù hợp cuả ứng viên với công việc, động lực làm việc và mức độ cam kết gắn bó với ngân hàng của ứng viên. Hình thức thi tuyển cũng cần được các ngân hàng thay đổi theo hướng linh hoạt hơn tuỳ vào từng vị trí, từng công việc, không nhất thiết là mọi vị trí, mọi công việc đều phải trải qua nhiều vòng, nhiều hình thức thi. Ngoài các hình thức thi truyền thống là thi viết và phỏng vấn để kiểm tra kiến thức, kỹ năng, các ngân hàng nên thực hiện một số hình thức thi khác như ra bài tập tình huống, thảo luận theo nhóm với nội dung phong phú và thích hợp cho từng vị trí nhằm phát hiện các phẩm chất quan trọng của ứng viên như khả năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng trình bày và thuyết phục, kỹ năng tự xoay sở, ứng phó để giải quyết tình huống. Đây là những phẩm chất quan trọng đối với một nhân viên ngân hàng trong thời đại hiện nay. Những hình thức tuyển dụng linh hoạt, phù hợp sẽ giúp các ngân hàng và các ứng viên tiết kiệm thời gian, chi phí mà các ngân hàng vẫn tuyển được nhân viên phù hợp với yêu cầu của mình. Các ngân hàng cũng cần xây dựng một chiến lược tuyển dụng có tầm nhìn lâu dài trên cơ sở bám sát chiến lược kinh doanh chung, tránh việc tuyển dụng khi thì ồ ạt, khi thì manh mún theo kiểu thời vụ, khi cần thì tuyển, khi không cần thì thôi. Nhất là đối với những vị trí quản lý việc tuyển dụng thường gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi các ngân hàng mất nhiều thời gian và chi phí vì những vị trí như thế thường đòi hỏi ở KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 103 ứng viên nhiều kỹ năng, trình độ đa dạng, phức tạp hơn. Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam cần phải chủ động hơn trong công tác tuyển dụng, tránh việc thụ động đăng tin tuyển dụng trên báo chí, trên mạng rồi ngồi chờ các ứng viên quan tâm đến công việc tới nộp hồ sơ. Trên thực tế đối tượng hướng tới của các ngân hàng thường là các sinh viên giỏi, nhưng không phải là mọi sinh viên giỏi đều quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng và biết được nhu cầu tuyển dụng của các ngân hàng nếu như họ không chủ động tìm hiểu thông tin, vì cơ hội có được những việc làm tốt khác của những sinh viên này là rất nhiều. Bởi vậy, không hẳn là những sinh viên biết tin tuyển dụng của ngân hàng và tham gia dự tuyển đã là những sinh viên giỏi nhất, và có nghĩa là các ngân hàng đã để mất một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực chất lượng cao do công tác tuyển dụng thụ động như vậy. Để thu hút được sự quan tâm của số lượng tối đa những sinh viên giỏi đối với ngân hàng, công tác tuyên truyền, quảng cáo, thông báo rộng rãi về các chương trình tuyển dụng nói riêng và về hình ảnh của ngân hàng và nhu cầu tuyển dụng lâu dài nói chung cần phải được thực hiện chủ động thông qua nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh việc đăng quảng cáo trên báo chí và trên mạng, các ngân hàng có thể sử dụng những hình thức tuyên truyền khác như dán poster, treo băng rôn, phát tờ rơi tại những nơi tiềm năng như các trường đại học chuyên ngành và các trường đại học khác có danh tiếng. Ngoài ra, các ngân hàng có thể tổ chức các buổi gặp gỡ giao lưu với sinh viên các trường đại học để vừa giới thiệu quảng bá hình ảnh của mình, vừa trao đổi với sinh viên về chiến lược phát triển, chiến lược tuyển dụng, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ,... hiện tại và trong tương lai của mình nhằm thu hút tối đa sự quan tâm của những sinh viên giỏi đối với ngân hàng mình. Các ngân hàng cũng nên áp dụng và duy trì việc hỗ trợ học bổng cho những sinh viên giỏi của các trường đại học chuyên ngành nói riêng và các trường đại học danh tiếng nói chung, bởi vì đây là một biện pháp rất hiệu quả trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các ngân hàng, vừa thu hút được sự quan tâm của đội ngũ nhân tài có chất lượng cao ở các trường đại học. Một nhiệm vụ mà các NHTM Việt Nam, nhất là các NHTM nhà nước cần phải tiến hành nhằm nâng cao chất lượng tuyển dụng là tiến tới xoá bỏ hoàn toàn tình trạng “con ông cháu cha” trong công tác tuyển dụng hiện vẫn còn nặng nề trong KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 104 ngành ngân hàng, trong khi trình độ, chất lượng và kể cả lý lịch bản thân của những nhân viên được tuyển theo kiểu này phần lớn là không đạt yêu cầu của các ngân hàng. Đây cũng là một biện pháp để cải thiện uy tín của các ngân hàng trong công tác tuyển dụng đối với các ứng viên, nhất là các sinh viên giỏi. Bên cạnh chính sách đào tạo và chính sách tuyển dụng hợp lý, chính sách trả lương và đãi ngộ đối với các nhân viên mới nói riêng và tất cả các cán bộ nhân viên nói chung cũng cần được cải thiện nhiều hơn nữa sao cho tạo ra môi trường làm việc thoải mái nhất cho nhân viên, khuyến khích họ làm việc nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm và phấn đấu rèn luyện nâng cao khả năng, trình độ để cống hiến tối đa cho ngân hàng trong thời gian lâu dài. Để làm được điều đó, trước hết các NHTM Việt Nam nên thay đổi chính sách trả lương và thời gian thử việc đối với các nhân viên mới theo hướng nâng cao mức lương thử việc cho sát với mức lương chính thức, đồng thời rút ngắn thời gian thử việc tới mức hợp lý (khoảng 1 đến 3 tháng), bởi vì khi các ngân hàng đã có được trong tay một đội ngũ nhân viên giỏi nhờ chính sách tuyển dụng hiệu quả thì việc trả lương khởi điểm thấp và kéo dài thời gian thử việc như hiện nay là không cần thiết, không những không khuyến khích các nhân viên mới nỗ lực hết mình mà trái lại còn gây ra tâm lý chán nản, mất kiên nhẫn cho họ. Chế độ trả lương, thưởng, thăng tiến đối với các cán bộ nhân viên nói chung cũng cần được đổi mới theo hướng công bằng và bình đẳng hơn, dựa trên cơ sở những tiêu chí bình xét rõ ràng, khoa học (không chỉ đơn thuần trên cơ sở vị trí công tác, thâm niên công tác của nhân viên mà còn phải dựa vào hiệu quả công việc, mức độ cố gắng và tiến bộ về mặt rèn luyện kiến thức, kỹ năng, mức độ nhiệt tình của nhân viên đối với công việc, tinh thần trách nhiệm đối với công việc và đạo đức nghề nghiệp của nhân viên) nhằm tạo ra động lực khuyến khích nhân viên không ngừng học tập, nâng cao năng lực bản thân của họ cũng như động viên họ cam kết gắn bó lâu dài với ngân hàng. Các NHTM Việt Nam cũng nên xem xét tới chính sách thưởng bằng cổ phiếu – cách mà hiện nay nhiều ngân hàng trong khu vực và trên thế giới đang làm nhằm giữ chân các nhân viên của họ trong một thời gian rất dài. Bên cạnh chế độ lương, thưởng, thăng tiến hàng năm, các chính sách đãi ngộ khác như chế độ bảo hiểm, các chế độ chăm sóc cho nhân viên nhân dịp lễ, Tết hay KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 105 ốm đau, bệnh tật, tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao cho nhân viên,... cũng là những biện pháp rất quan trọng góp phần động viên tinh thần, nâng cao sức khoẻ của người lao động, tạo ra sự gắn bó lâu dài cuả họ đối với ngân hàng. Một biện pháp rất quan trọng khác giúp các NHTM Việt Nam nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là thường xuyên tổ chức các khoá, các chương trình đào tạo mới và đào tạo nâng cao đối với cán bộ nhân viên với sự tham gia giảng dạy của các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng như các lĩnh vực khác có liên quan nhằm không ngừng nâng cao trình độ kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ của họ, đáp ứng yêu cầu của công việc trong thời kỳ hội nhập, nhất là các kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ giao dịch ngân hàng hiện đại, về chính sách, pháp luật thương mại - ngân hàng trong nước và quốc tế, về công nghệ thông tin và ngoại ngữ, kỹ năng làm việc theo nhóm và làm việc độc lập. Các ngân hàng cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ nhân viên tự học hỏi và nâng cao trình độ thông qua các khóa đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ở trong và ngoài nước. Công tác nghiên cứu khoa học trong nội bộ các ngân hàng cũng cần được quan tâm và đầu tư thích đáng nhằm cổ vũ tinh thần ham học hỏi, tinh thần sáng tạo và đóng góp sáng kiến, giải pháp hữu ích của đội ngũ cán bộ nhân viên, thông qua có chế độ hỗ trợ nghiên cứu khoa học và thưởng cho các phát minh sáng tạo của nhân viên. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải tạo ra cho đội ngũ cán bộ nhân viên một môi trường làm việc năng động, hiện đại và chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng cũng không kém phần thân thiện, cởi mở và giàu bản sắc dân tộc, giúp cho họ có cơ hội chứng tỏ bản thân và phát huy khả năng của mình, qua đó giữ chân được họ ở lại cống hiến lâu dài cho ngân hàng. Chính sách phát triển nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam sẽ phát huy hiệu quả tối đa khi nó được kết hợp đồng bộ, hài hoà các chiến lược kinh doanh chung và chiến lược nâng cao trình độ quản lý, trình độ công nghệ của các ngân hàng. 6.Nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng Như đã phân tích trong phần thực trạng công nghệ ngân hàng của các NHTM Việt Nam ở chương II, hiện nay các NHTM Việt Nam hầu hết đều đã xây dựng được một nền tảng công nghệ tương đối hiện đại so với các NHTM trong khu vực và trên KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 106 thế giới, tuy nhiên năng lực khai thác và sử dụng trang thiết bị còn rất nhiều hạn chế. Để phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng lực công nghệ, các ngân hàng trước hết cần xây dựng cho mình một chiến lược công nghệ dài hạn trên cơ sở chiến lược kinh doanh và khả năng đầu tư phát triển công nghệ của từng ngân hàng. Một chiến lược công nghệ dài hạn là công cụ thiết yếu để các ngân hàng thống nhất quản lý những nỗ lực cải tiến công nghệ của mình, tránh sự đầu tư manh mún, tuỳ tiện hoặc dàn trải, gây lãng phí. Bên cạnh đó, trong thời gian tới, bên cạnh việc tăng cường sức mạnh tài chính, các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh hơn nữa việc trang bị công nghệ với các giải pháp công nghệ tổng thể và nối mạng cho toàn hệ thống, nhằm tạo ra sức bật toàn diện về công nghệ, tận dụng tối đa hiệu quả công nghệ dựa trên lợi thế nhờ quy mô đồng thời cũng góp phần giảm thiểu sự lãng phí do đầu tư không đồng bộ. Ngoài ra, do công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng trên thế giới hiện nay hao mòn vô hình và lạc hậu rất nhanh nên các ngân hàng cũng cần có sự đầu tư thích hợp cho việc nghiên cứu và đổi mới, bổ sung, nâng cấp những tiện ích của trang thiết bị công nghệ để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của tiến bộ công nghệ. Để tận dụng và khai thác tối đa những lợi ích của công nghệ tiên tiến, các ngân hàng phải xây dựng được một đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng, đồng thời thận trọng và kỹ lưỡng hơn trong việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ, máy móc, công nghệ và thuê chuyên gia tư vấn. Đội ngũ nhân lực công nghệ cần được đào tạo sao cho theo kịp được với những tiến bộ công nghệ trên thế giới, có khả năng thẩm định, đánh giá tính đúng đắn và tính tin cậy của các chuyên gia tư vấn, tránh sự lệ thuộc quá mức vào các chuyên gia tư vấn bên ngoài gây ra sự thụ động và lãng phí. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần nâng cao khả năng nắm bắt và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng của đội ngũ cán bộ nhân viên thông qua việc tiến hành các hoạt động đào tạo về kiến thức và kỹ năng sử dụng máy móc, công nghệ cho cán bộ nhân viên ngân hàng và các hoạt động kiểm tra, đánh giá hiệu quả ứng dụng công nghệ của từng bộ phận. Xây dựng các văn bản kỹ thuật, sổ tay hướng dẫn áp dụng quy trình công nghệ cũng là một biện pháp góp phần nâng cao khả năng áp dụng công nghệ của cán bộ nhân viên ngân KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 107 hàng. Trong quá trình đầu tư trang thiết bị công nghệ và lắp đặt các phần mềm ứng dụng, các ngân hàng cần chú trọng thực hiện đồng bộ, triệt để các giải pháp an ninh mạng, tránh nguy cơ tấn công từ bên trong (nhân viên ngân hàng) và bên ngoài (tội phạm công nghệ thông tin, hackers) trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, gây những thiệt hại khó lường cho khách hàng và cho chính bản thân các ngân hàng về mặt kinh tế và uy tín kinh doanh. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng giữa các NHTM trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các NHTM nước ngoài cũng là một giải pháp quan trọng góp phần nâng cao trình độ công nghệ cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, bởi vì ngân hàng là một ngành đòi hỏi sự liên kết cao không chỉ về tài chính mà còn cả về công nghệ. Sự thiếu đồng bộ, thiếu liên kết trong ứng dụng công nghệ ngân hàng giữa các ngân hàng trong cùng một hệ thống với nhau không chỉ dẫn đến việc các ngân hàng không thể kết nối với nhau được trong các giao dịch mà còn gây lãng phí các nguồn lực, do đó làm giảm sức mạnh công nghệ và hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hệ thống. Mặt khác, việc hợp tác về công nghệ ngân hàng sẽ giúp các NHTM trong nước nhận được chuyển giao các công nghệ tiên tiến từ các ngân hàng có trình độ công nghệ phát triển hơn, qua đó giúp các ngân hàng Việt Nam rút ngắn khoảng cách và dần tiếp cận được với trình độ công nghệ của các ngân hàng hàng đầu khu vực và trên thế giới. II.Các giải pháp vĩ mô góp phần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ nâng các NHTM Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh 1.Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế Nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tài chính ngân hàng là một nhiệm vụ trọng tâm mà ngành đã đề ra trong kế hoạch và chương trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là điều kiện cốt yếu bảo đảm cho các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả. Đồng thời việc xây dựng, sửa đổi bổ sung hệ thống chính sách pháp luật về tài KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 108 chính ngân hàng cũng để thực hiện các cam kết quốc tế với các tổ chức, liên minh kinh tế trong khu vực và trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này. Trước hết Chính phủ và NHNN cần nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản điều chỉnh các loại hình nghiệp vụ ngân hàng hiện đại mà hiện pháp luật Việt Nam chưa có quy định, nhưng trong thời gian tới sẽ được các ngân hàng trong và ngoài nước triển khai theo lộ trình tự do hoá các nghiệp vụ ngân hàng được giao dịch, đồng thời cho phép các NHTM trong nước triển khai thí điểm các loại hình nghiệp vụ mới này để có sự chuẩn bị cần thiết trước khi hội nhập. Chế độ hạch toán, kế toán và các quy định liên quan đến việc công khai hoá thông tin cũng phải được hoàn thiện theo tiêu chuẩn quốc tế. Việc hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ giải quyết sự khác biệt trong việc phân loại nợ và đánh giá thực trạng tài chính của các NHTM Việt Nam theo chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế với chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam, đồng thời cũng tạo ra một công cụ quản lý quan trọng giúp NHNN tăng cường hiệu quả giám sát của mình đối với từng ngân hàng và toàn bộ hệ thống NHTM. NHNN cần nghiên cứu để ban hành các văn bản quy định việc công khai hoá thông tin, trong đó đặc biệt quan trọng là những nội dung cần công khai hoá (chẳng hạn như các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh) và thời hạn phải công khai hoá. Thực hiện công khai hoá thông tin là một yêu cầu quan trọng giúp tăng cường hiệu quả quản lý giám sát của NHNN với các NHTM, đồng thời tạo dựng được lòng tin cho công chúng và các nhà đầu tư trong và ngoài nước đối hoạt động kinh doanh của các NHTM. NHNN và Chính phủ cũng cần xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nói chung và trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng nói riêng nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và sự phát triển ổn định của thị trường ngân hàng, tránh sự cạnh tranh không lành mạnh gây rối loạn thị trường tài chính, ngân hàng khi lĩnh vực tài chính ngân hàng của nước ta thực sự mở cửa. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến phá sản doanh nghiệp, thu hồi nợ và các biện pháp xử lý tài sản thế chấp cũng cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 109 hơn nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch, nhất quán và đơn giản hơn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp và thu hồi nợ của các ngân hàng. NHNN và các cơ quan hữu quan cũng cần nghiên cứu để ban hành những văn bản điều chỉnh các giao dịch ngân hàng điện tử và các giao dịch ngân hàng hiện đại khác để tạo khung pháp lý, thúc đẩy sự phát triển của các loại hình dịch vụ này. 2.Tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống NHTM nhà nước và các DNNN, giảm bớt sự can thiệp quá mức của Chính phủ và các cơ quan công quyền vào hoạt động kinh doanh của các NHTM nhà nước nhằm tăng cường tính tự chủ, tính tự chịu trách nhiệm của các NHTM nhà nước Như đã đề cập và phân tích ở chương II, thực trạng năng lực tài chính còn yếu kém về nhiều mặt (quy mô vốn tự có nhỏ bé, tỉ lệ nợ xấu, nợ không sinh lời cao, chất lượng tài sản thấp) hiện nay của các NHTM nhà nước xuất phát từ một nguyên nhân quan trọng, đó là sự yếu kém về tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hệ thống DNNN nói chung trong đó có các NHTM, cũng như do sự can thiệp quá mức của Chính phủ và một số cơ quan công quyền vào hoạt động cho vay của các NHTM nhà nước thông qua các chỉ thị, quyết định cho vay theo diện chính sách đối với các doanh nghiệp, các công ty nhà nước. Vì vậy, để thực hiện tăng cường sức mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho các NHTM nhà nước - đầu tàu trong hệ thống NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, một biện pháp tiên quyết đối với Chính phủ, NHNN và các cơ quan công quyền là phải cải cách triệt để và toàn diện hệ thống NHTM nhà nước và các DNNN, giảm bớt sự can thiệp quá mức vào hoạt động kinh doanh của các NHTM nhà nước nhằm tăng cường tính tự chủ, tính tự chịu trách nhiệm của các NHTM nhà nước. Trước hết Chính phủ và các bộ ngành có liên quan phải tiếp tục tiến hành sắp xếp lại và cải tổ toàn diện hệ thống các DNNN trong đó có cả các NHTM nhà nước thông qua các biện pháp cụ thể như đẩy mạnh việc cổ phần hoá các DNNN và các NHTM nhà nước; kiên quyết giải thế hay tuyên bố phá sản đối với các DNNN hoạt động yếu kém, thua lỗ; không gia hạn nợ, xoá nợ, không cấp vốn bổ sung cho các DNNN hoạt động kém hiệu quả và chây ỳ trả nợ, đồng thời cho phép các NHTM được phép kiện các doanh nghiệp này ra toà vì chây ỳ trả nợ; tiến tới xoá bỏ dần từng KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 110 bước các chế độ ưu đãi dưới nhiều hình thức khác nhau đối với các DNNN nhằm tăng cường tính tự chủ và tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đối với các NHTM Việt Nam, ngoài việc áp dụng những biện pháp cải tổ triệt để, toàn diện tương tự như đối với các DNNN, Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan cần giảm dần sự can thiệp quá mức vào hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của các ngân hàng thông qua việc chuyển dần các khoản cho vay chính sách theo các chỉ thị, quyết định của Trung ương đối với các DNNN, các Tổng công ty nhà nước, các dự án, chương trình phát triển của Nhà nước sang Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam và Ngân hàng phát triển Việt Nam; từng bước trao quyền tự chủ cho các NHTM nhà nước trong hoạt động cho vay thương mại và hoạt động kinh doanh khác; trước mắt vẫn tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng trong việc cấp vốn điều lệ bổ sung từ nguồn trái phiếu Chính phủ và xử lý triệt để các khoản nợ xấu, nợ khó đòi nhằm tăng năng lực tài chính của các ngân hàng này, tuy nhiên về lâu dài cần xoá bỏ biện pháp cấp vốn điều lệ bổ sung từ ngân sách Nhà nước mà thay vào đó tiến hành cổ phần hoá tất cả các NHTM nhà nước nhằm tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng này đối với hoạt động tài chính và hoạt động kinh doanh của mình. 3. Xoá bỏ dần bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM trong nước đi đôi với nới lỏng từng bước các quy định hạn chế mang tính hành chính đối với các NHTM trong và ngoài nước nhằm tạo môi trường hoạt động kinh doanh minh bạch, lành mạnh, bình đẳng hơn cho hệ thống NHTM Việt Nam Để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay một cách thực sự vững chắc, lâu dài, bên cạnh việc từng bước tạo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bản thân các NHTM nhà nước và NHTMCP, Chính phủ, NHNN và Quốc hội cần áp dụng biện pháp, chính sách để tạo ra môi trường hoạt động kinh doanh thực sự bình đẳng, công bằng, lành mạnh và minh bạch cho toàn hệ thống NHTM Việt Nam. Khi đó áp lực cạnh tranh giữa các NHTM trong nước với nhau cũng như giữa các NHTM trong nước với các NHTM nước ngoài sẽ tạo động lực đổi mới mạnh mẽ về mọi mặt cho KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 111 các NHTM Việt Nam một cách vững chắc. Đồng thời việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cũng chính nhằm thực hiện các cam kết theo nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc mở cửa thị trường trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đối với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện thành công mục tiêu này, trước hết NHNN và Chính phủ phải tiến hành từng bước xoá bỏ các hình thức bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM trong nước, nhất là các NHTM nhà nước, song song với nới lỏng dần các quy định hạn chế mang tính chất hành chính đối với các NHTM trong nước và đặc biệt là các NHTM nước ngoài. Việc xoá bỏ bảo hộ, bao cấp và các quy định hạn chế như vậy cần phải gắn với lộ trình và nội dung hội nhập của ngành ngân hàng theo các cam kết khu vực và quốc tế. Cụ thể NHNN, Chính phủ và Quốc hội cần xoá bỏ từng bước cơ chế cấp vốn điều lệ bổ sung và cấp vốn hỗ trợ xử lý nợ xấu đối với các NHTM nhà nước, bãi bỏ cơ chế ưu đãi về thuế sử dụng vốn đối với các NHTM nhà nước, tiến tới bãi bỏ tất cả các quy định khác (về chế độ tài chính, thuế khoá, về tổ chức, về hoạt động kinh doanh,...) mà các quy định đó không những có tính chất ưu đãi và có lợi cho các NHTM nhà nước hơn NHTMCP, NHTM trong nước hơn NHTM nước ngoài mà còn vi phạm các nguyên tắc của WTO và các liên minh thương mại, tài chính, ngân hàng khu vực và quốc tế khác mà Việt Nam có cam kết. Bên cạnh đó, NHNN và Chính phủ cần có chính sách nới lỏng dần các quy định hạn chế mang tính chất hành chính cho phù hợp với các cam kết quốc tế, trước hết là đối với các NHTMCP, sau đó là các NHTM nước ngoài, chẳng hạn như các quy định hạn chế về số vốn điều lệ, tỷ lệ góp vốn tối đa của bên nước ngoài vào một ngân hàng trong nước, số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng nước ngoài, số lượng và phạm vi chi nhánh và phòng giao dịch được mở, số lượng và phạm vi địa lý lắp đặt hệ thống máy ATM, tổng số hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng, giới hạn tỷ lệ huy động vốn bằng VND so với vốn điều lệ, tổng số người được tuyển dụng của các NHTM nước ngoài,... Đối với toàn bộ hệ thống NHTM, các quy định, can thiệp hành chính đối với tất cả các ngân hàng về các biện pháp điều hành tỷ giá, lãi suất cũng cần được xem xét bãi bỏ trong tương lai KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 112 xa hơn, khi mà nền kinh tế Việt Nam đã thực sự có được một cơ chế thị trường đồng bộ. 4.Nâng cao năng lực quản lý vĩ mô và vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng Trong mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại như hiện nay, NHNN cần phải phát huy tối đa chức năng quản lý vĩ mô và vai trò giám sát, là “ngân hàng của các ngân hàng” trên lãnh thổ Việt Nam. Để thực hiện tốt các chức năng, vai trò đó, Chính phủ và Quốc hội cần tăng cường quyền lực cho NHNN trong việc điều chỉnh các chính sách tài chính tiền tệ và các hoạt động giám sát ngân hàng cũng như các thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của Nhà nước về ngân hàng. Hiện nay, ngoài NHNN có rất nhiều cơ quan cùng tham gia vào việc quản lý, giám sát hoạt động của các ngân hàng như Chính phủ (tham gia vào hoạt động cho vay của các NHTM nhà nước) và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố (tham gia vào việc cấp giấy phép và giám sát hoạt động của các NHTM trên địa bàn). Điều này dẫn đến sự chồng chéo trong công tác quản lý và làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách của NHNN, ảnh hưởng đến vai trò độc lập của NH trung ương. Bên cạnh đó, bản thân NHNN phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực và tiến hành cải cách mô hình tổ chức hoạt động theo cơ chế mới. Thực trạng nguồn nhân lực hạn chế do ảnh hưởng nhiều từ thời bao cấp và mô hình tổ chức phân tán với 64 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố của NHNN hiện nay làm giảm hiệu quả quản lý vĩ mô, luồng thông tin trong nội bộ không thông suốt và không được cập nhật kịp thời, quá trình xem xét ra quyết định và thực thi quyết định bị kéo dài. Các công cụ và phương pháp quản lý, giám sát của NHNN cũng phải được đổi mới để đảm bảo hiệu quả cao hơn. Hiện nay, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN vẫn được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc kiểm tra tính tuân thủ các quy định hiện hành mà chưa tập trung phân tích, đánh giá các rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các ngân hàng. Để tăng cường khả năng phát hiện và ngăn ngừa các rủi ro tiềm tàng, các NHNN có thể nghiên cứu và áp dụng các phương pháp, công cụ giám sát ngân hàng hiện đại hiện nay trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc giám sát của Uỷ ban giám sát ngân hàng BASEL như Hệ thống giám sát ngân hàng CAMELS, SEER và SCOR của Hoa Kỳ, RATE và TRAM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 113 của Anh, ORAP và SAABA của Pháp,... 5.Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin và thị trường tài chính tiền tệ Hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế. Hiện nay công nghệ thông tin ở Việt Nam là một trong những ngành có tốc độ phát triển cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Đây là một thuận lợi cho quá trình hiện đại hoá ngành ngân hàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và phát triển hoàn thiện, đồng bộ hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước không những góp phần tăng cường năng lực công nghệ cho các ngân hàng mà còn cho phép các ngân hàng triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại, góp phần đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch vụ và tăng hiệu quả quản lý, hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam. Trong quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, ngoài việc cải cách và phát triển hệ thống NHTM cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập, thị trường tài chính, tiền tệ cũng phải được xây dựng và phát triển đồng bộ, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của thị trường giao dịch nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm tiền gửi. Thực tế phát triển hệ thống NHTM ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy một nền kinh tế và hệ thống NHTM chỉ có thể phát triển vững chắc và phát huy mọi hiệu quả trên cơ sở đổi mới cân đối, đồng bộ cả hệ thống NHTM và thị trường tài chính tiền tệ. Sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính tiền tệ một mặt tạo ra sự cạnh tranh đối với các ngân hàng trong việc thu hút và phân bổ các nguồn vốn trong xã hội, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy sự đổi mới của các ngân hàng, mặt khác nó cũng tạo ra cho các ngân hàng những cơ hội để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, cung cấp các công cụ đa dạng cho phép các ngân hàng linh hoạt hơn trong việc điều tiết các nguồn vốn, nâng cao tính thanh khoản và tăng cường khả năng chống đỡ trước những diễn biến bất lợi của thị trường. KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 114 KẾT LUẬN Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam đang diễn ra hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Chỉ một thời gian không lâu nữa, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ phải mở dần cánh cửa hội nhập, bước ra sân chơi rộng lớn hơn, thực hiện tự do hoá theo các cam kết với các quốc gia và các tổ chức, liên minh kinh tế, thương mại trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội và triển vọng cho các NHTM Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức khó khăn, đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nỗ lực đổi mới về mọi mặt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tài chính, ngân hàng trong và ngoài nước. Hệ thống NHTM Việt Nam chính là huyết mạch của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sứ mệnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời đại mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp, bài viết đã tập trung phân tích và làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu, những thành tựu và những hạn chế, tồn tại trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện nay cũng như những cơ hội và thách thức đối với các NHTM Việt Nam trong tiến trình mở, cửa hội nhập, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị đối với các NHTM Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan hữu quan nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và nâng cao hiệu quả cạnh tranh của các NHTM Việt Nam khi ngành ngân hàng bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế. Với mong muốn đề tài “Thực trạng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, tác giả hy vọng trên cơ sở những nghiên cứu trong phạm vi của khoá luận tốt nghiệp, các NHTM Việt Nam cùng với Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan liên quan có thể cùng nhau phối hợp xây dựng các chiến lược và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Lê Văn Hinh và Trần Đại Bằng (2006), Tương lai về loại hình ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam, NXB Thống kê, 24-131, Hà Nội. 2.Nguyễn Thị Quy (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong xu thế hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, 15-235, Hà Nội. 3.Nguyễn Văn Tiến (1999), Tài chính quốc tế, NXB Thống kê, 417-432, Hà Nội. 4.Phạm Thanh Bình (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, 20-95, Hà Nội. 5.Tạp chí Ngân hàng số 1+2 (2006), 10 diễn biến tiền tệ ngân hàng nổi bật năm 2005, 39-42, Hà Nội. 6.Tạp chí Ngân hàng số 1+2 (2006), Quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: Một số kinh nghiệm cần lưu ý, 7-17, Hà Nội. 7.Tạp chí Ngân hàng số 3 (2006), Bàn về nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường dịch vụ ngân hàng, 16-19, Hà Nội. 8.Tạp chí Ngân hàng số 10 (2006), Cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, 33-36, Hà Nội. 9.Tạp chí Ngân hàng số 12 (2006), Triển khai thành công dự án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, 13-14, Hà Nội. 10.Tạp chí Ngân hàng số 12 (2006), Về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, 32-34, Hà Nội. 11.Tạp chí Ngân hàng số 15 (2006), Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trước thềm WTO: Khả năng và triển vọng, 29-33, Hà Nội. 12.Thị trường tài chính tiền tệ số 12 (2006), Gia nhập WTO: Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, 16-19, Hà Nội. 13.Thị trường tài chính tiền tệ số 16 (2006), Các giải pháp nhằm phát triển thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, 16-20, Hà Nội. 14.Thị trường tài chính tiền tệ số 17 (2006), Hướng tới thành lập tập đoàn tài chính Vietcombank, 15-17, Hà Nội. KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 116 15.Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2000), Nghị định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại, Hà Nội. 16.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quy định về các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, Hà Nội. 17.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, Hà Nội. 18.Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1997), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Hà Nội. 19.Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội 20.Website của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (23/8/2006): 21.Website của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 22.Website của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 23.Website của Ngân hàng Công thương Việt Nam (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 117 24.Website của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 25.Website của Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 26.Website của NHTMCP Sài Gòn thương tín (25/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 27.Website của NHTMCP Á Châu (25/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 28.Website của NHTMCP Kỹ thương (25/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 &n=44 %202005.VN.htm 28.Website của NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (25/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001- 2005 mid=142 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 118 mid=66 emid=80 29.Website của NHTMCP Xuất nhập khẩu (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 30.Website của NHTMCP nhà Hà Nội (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 &MenuItemID=274 &MenuItemID=276 31.Website của NHTMCP Quốc tế (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 32.Website của NHTMCP Quân đội: Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 33.Website của NHTMCP Đông Nam Á (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 34.Website của NHTMCP Đông Á (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 ong%20nien KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 119 %20dong 35.Website của NHTMCP Sài Gòn công thương (26/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 36.Website của NHTMCP An Bình (28/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 37.Website của NHTMCP Hàng hải (23/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 leId=135 38.Website của NHTMCP Phương Nam (28/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 39.Website của NHTMCP Phương Đông (28/8/2006): Giới thiệu chung, Tình hình hoạt động kinh doanh, Báo cáo thường niên giai đoạn 2001-2005 40.Website của tạp chí “The Asean Banker” (3/9/2006): https://www.theasianbanker.com/A556C5/datacenter.nsf/frmAB300?OpenForm https://www.theasianbanker.com/A556C5/Research.nsf/frmRetFinServ?OpenForm 41.Website của tạp chí “The Banker” (3/9/2006): 2006.html KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Bùi Đức Hoàn-Lớp Pháp 1 K41E Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội 120 2005.html 42.Website của Ngân hàng thế giới World Bank: Review Banking Sector 2005, Vietnam (15/9/2006): CEXT/VIETNAMEXTN/0,,menuPK:387571~pagePK:141159~piPK:141110~theSite PK:387565,00.html 43.Website của Tập đoàn tài chính ngân hàng CitiGroup (6/9/2006): https://web.da-us.citibank.com/cgi-bin/citifi/portal/ps/overview.do?M_M=S 44.Website của Tập đoàn tài chính ngân hàng HSBC (6/9/2006): 45.Website của Tập đoàn tài chính ngân hàng BNP Paribas (6/9/2006): 46.Website Tổng hợp tin tức tài chính, ngân hàng 47.Website Tổng hợp tin tức tài chính, ngân hàng 48.Website Tổng hợp tin tức tài chính, ngân hàng 49.Tổng hợp “Tin vắn ngân hàng”-Thị trường tài chính tiền tệ số 1-18 (2006), Hà Nội 50.Website của Uỷ ban giám sát ngân hàng BASEL (3/9/2006) 51.Website của Tập đoàn tài chính ngân hàng AIG (6/9/2006)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3518_1366.pdf
Luận văn liên quan