Khủng hoảng nợ công và những tác động của nó tới tài chính tiền tệ 2009 - 2011

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 5 PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG 7 1.1. Nợ công: 7 1.1.1. Định nghĩa: 7 1.1.2. Phân loại nợ công: 7 1.1.3. Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công: 7 1.2. Khủng hoảng nợ công: 8 1.2.1. Thế nào là khủng hoảng nợ công?. 8 1.2.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công: 8 1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đến tài chính tiền tệ. 8 1.4. Vỡ nợ dưới con mắt của kinh tế học: tại sao Hy Lạp và Ireland không tuyên bố vỡ nợ? 9 PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG & TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở 2 NƯỚC ĐIỂN HÌNH LÀ HY LẠP VÀ IRELAND 11 2.1. Tình hình nợ công của thế giới thời gian vừa qua. 11 2.2. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp và tác động đến tình hình TCTT: 13 2.2.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp: 13 2.2.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP: 13 2.2.1.2. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp: 13 2.2.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài. 13 2.2.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công: 14 2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ: 16 2.2.3.1. Xếp hạng tín dụng: 17 2.2.3.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng: 17 2.2.3.3. Cắt giảm chi tiêu: 17 2.2.3.4. Đầu tư trực tiếp FDI: 18 2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: 19 2.2.3.6. Thất nghiệp gia tăng: 19 2.3. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT: 19 2.3.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland: 19 2.3.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP: 19 2.3.1.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách: (theo dõi hình 2.13) 20 2.3.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai 20 2.3.1.4. Cơ cấu nợ nước ngoài và nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công. 20 2.3.2. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ: 22 2.3.2.1. Xếp hạng tín nhiệm bị hạ bậc: 22 2.3.2.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng: 22 2.3.2.3. Đầu tư trực tiếp FDI giảm nhanh đáng kể : 22 2.3.2.4. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: 22 2.3.2.5. Cắt giảm chi tiêu: 23 2.3.2.6. Lạm phát và thất nghiệp: 23 2.4. EU và IMF đã làm gì đề cứu Hy lạp và Ireland?. 24 PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM . 26 VÀ GIẢI PHÁP 26 3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam: 26 3.1.1. Nợ công tăng liên tục trong những năm qua, tiềm ẩn nhiều rủi ro: 26 3.1.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả : 27 3.1.3. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng dẫn đến tính bền vững của nợ công bị giảm sút: 29 3.1.4. Nợ công của Việt Nam xếp top cuối về tính minh bạch: 29 3.2. Các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ công: 30 3.2.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế: 30 3.2.1.1. Tăng năng suất lao động: 30 3.2.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư: 30 3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả: 31 3.2.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm hạn chế việc vay nợ: 31 3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay: 31 3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ công: 32 3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và xây dựng khung pháp lý: 32 3.2.3.2. Đảm bảo an toàn, bền vững nợ: 32 3.2.3.3. Công khai và minh bạch hóa thông tin về nợ công: 34 KẾT LUẬN 34 TRÍCH DẪN BIỂU ĐỒ VÀ SỐ LIỆU 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 45 LỜI MỞ ĐẦU Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả quốc gia công nghiệp phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bên cạnh khủng hoảng tài chính, ngày nay người ta còn đề cập nhiều và nghiên cứu một cách nghiêm túc hơn một loại khủng hoảng mới “Khủng hoảng nợ công”. Tình trạng nợ công gia tăng liên tục ở cả các nước phát triển vượt quá sự tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) gây ra tình trạng mất kiểm soát trong khả năng chi trả của quốc gia. Điển hình là cuộc khủng hoảng nợ công ở Iceland, Argentina, và gần đây nhất là một số nước trong khu vực EU như Hy Lạp và Ireland. Chính điều đó đã đánh lên hồi trống báo động cho các nước trên toàn thế giới phải suy nghĩ chín chắn về tình trạng nợ công của chính quốc gia mình. Chính vì vậy, nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ” là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế giới. Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với kiến thức hạn hẹp của Nhóm 7, chúng em trình bày một số hiểu biết khái quát về những vấn đề sau: Phần 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công. Phần 2: Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến tình hình tài chính tiền tệ ở 2 nước điển hình là Hy Lạp và Ireland. Phần 3: Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp. Trong suốt quá trình làm việc mặc dù nhóm đã cố gắng. Tuy nhiên, có những hạn chế khách quan mà nhóm khó có tránh nên đôi khi cũng có chỗ sai xót. Mong cô và các bạn nghiên cứu, đồng thời góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện

docxChia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3889 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khủng hoảng nợ công và những tác động của nó tới tài chính tiền tệ 2009 - 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế phục hồi trong suy thoái, chính điều này càng làm bong bóng nợ công thêm phình to ra. Tham nhũng, hối lộ có… “hệ thống” Nhiều năm qua, các quan chức, chính trị gia ở Hy Lạp liên tục phải từ chức vì liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ. Nhưng, cho đến nay, rất ít người bị xét xử và kết án vì tội danh tham nhũng. Chính điều này đã khiến người ta nghĩ đến một điều luật “bất thành văn”, đó là việc, các quan chức tham nhũng, nhận hối lộ rất “mạnh tay”, nhưng đến khi bị cơ quan điều tra phát hiện thì lại rất nhanh và “mạnh mồm” tuyên bố từ chức, và sẽ không bị đưa ra xét xử nữa. Nghiên cứu của Daniel Kaufmann thuộc Viện Brookings ở Mỹ cho rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa tham nhũng và thâm hụt ngân sách. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp được ước tính vào khoảng 8% GDP Nói cách khác, khoảng hơn 50% số thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy Lạp là do tham nhũng mà ra.(VN economy) Chi tiêu công “siêu thoáng” Theo một nguồn tin từ Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, nhưng số công chức chỉ đến công sở “ngồi chơi xơi nước” chiếm tới 1/3. Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm công ăn lương ở nước này.. Lương đã cao, thưởng vào cuối năm cũng cao, công chức còn được lĩnh tới 16 tháng lương. Nhiều công chức Hy Lạp được nghỉ hưu trước năm 60 tuổi với mức lương hưu bằng 3/4 mức lương khi còn đi làm. Vay tiền để... nâng lương nhân viên chính phủ và tổ chức Thế vận hội. Thế vận hội Athens 2004 là một cơ hội không thể nào tốt hơn để Hy Lạp gia tăng các dự án đồ sộ của mình và tiếp tục đi vay nợ thoải mái vì mục tiêu Thế vận hội. Việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ. Thật vậy, theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh. Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng. Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Không minh bạch trong các con số báo cáo: Vào thời điểm Hy Lạp gia nhập Eurozone, đã có những bằng chứng cho thấy quốc gia này đưa ra những số liệu không trung thực, ECB cũng tỏ ra quan ngại về tình hình nợ của Hy Lạp đã vượt xa trần quy định của Eurozone, nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ đã cho Hy Lạp tham gia đồng Euro. Đến năm 2004, bằng chứng về việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã được Eurostat thu thập đủ, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone không phải là lựa chọn của họ và cho Hy Lạp thời gian để sửa chữa. Đến năm 2007, ECB tuyên bố Hy Lạp đã có những biện pháp khắc phục phù hợp, và thâm hụt của quốc gia này sẽ chỉ còn 2,6% GDP vào năm 2006 và 2,4% vào năm 2007. Ủy ban cũng đưa ra kết luận rằng “Cơ quan Thống kê của Hy Lạp đã cải thiện quy trình làm việc của mình” và chất lượng số liệu thống kê của họ đã tốt hơn. Tuy nhiên, đến năm 2009, thì một lần nữa câu hỏi về sự gian lận số liệu của quốc gia này lại được lật lại. Chính điều này đã làm cho các nhà đầu tư và các Ngân hàng thương mại quốc tế mất niềm tin, từ đó rút vốn làm cho nguy cơ vỡ nợ của Hy lạp thêm trầm trọng. 2.2.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ: 2.2.3.1. Xếp hạng tín dụng: Ngày 15/6/2010, Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s đã hạ 4 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức không đầu tư và cảnh báo, việc Hy Lạp giảm thâm hụt ngân sách sẽ tạo ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế. Theo hãng tin Bloomberg, xếp hạng tín dụng của Hy Lạp bị hạ xuống mức Ba1 từ mức A3. Trong tuyên bố xếp hạng tín dụng, Moody’s đã nhiều lần nhắc đến những rủi ro đối với tăng trưởng kinh tế bởi những biện pháp thắt chặt ngân sách liên quan đến gói giải cứu 110 tỷ EUR (136 tỷ USD). Dù được EU và IFM hứa hẹn “bơm” tiền nhưng hình ảnh của Hy Lạp vẫn chưa được cải thiện trong mắt các tổ chức xếp hạng độc lập, vào 14/7/2011, hãng xếp hạng Fitch đã hạ 3 bậc đối với mức tín dụng của Hy Lạp từ B+ xuống CCC, thấp nhất trong thang xếp hạng của Fitch. Lý giải cho việc này, Fitch cho rằng các chương trình tài trợ mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Hy Lạp chỉ đơn thuần là tài chính chứ không đưa ra những giải pháp đầy đủ và đáng rin cậy. Cũng theo Fitch , vai trò của khu vực tư nhân trong các chương trình cải cách tại Hy Lạp cũng chưa thực sự rõ ràng, trong khi triển vọng kinh tế vĩ mô không lấy làm chắc chắn. Chính vì vậy, mức xếp hạng CCC (cận kề phá sản) mới được đưa ra. Vào ngày 28/07/2011 Standard $ Poor’s (S&P) nhận định rằng hy lập sẽ phá sản một phần sau khi các quan chức châu âu thúc đẩy kế hoạch tái cơ cấu nợ trong gói cứu trợ 2. Chính vì vậy S&P đã hạ tiếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ CCC xuống CC chỉ trên mức vỡ nợ 2 bậc với đánh giá triển vọng tiêu cực. S&P cho biết, việc cơ cấu lại nợ của Chính phủ Hy Lạp có thế nói là một trao đổi gây ra hậu quả tiêu cực vì nó có nguy cơ gây thiệt hại cho chủ nợ. 2.2.3.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng: Từ năm 1998 đến năm 2011 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình 5,21%, đạt mức cao lịch sử 11,39 % trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ lục 3,23% trong tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian gần đây tăng cao vì khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy động vốn để trả nợ buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua, theo báo cáo mới nhất thì lãi suất trái phiếu của Hy Lạp đã lên đến 11,39%. (Hình 2.8) 2.2.3.3. Cắt giảm chi tiêu: Đứng trước nguyy cơ vỡ nợ trong cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng hiên nay, chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt chi tiêu như tăng các loại thuế nhằm cái thiện tình hình, mặc dù các chính sách mà theo các chuyên gia thì các chính sách này cực kì đau đơn, và sẽ khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn hơn rất nhiều, chính vì vậy, khi chính phủ Hy Lạp đưa ra các chính sách trên đã gặp không ít những là sóng phản đối từ dân chúng. Tăng các loại thuế: Trong năm 2011, Hy Lạp sẽ thu 2,32 tỷ Euro thuế và lần lượt là 3,38 tỷ , 1.52 triệu và 699 triệu trong 3 năm tiếp theo. Trong đó, thuế giá trị gia tăng (VAT) sẽ tăng từ 19% lến 23%. Đánh thuế vào hàng xa xỉ: Những mặt hàng xa xỉ sẽ bị đánh thuê là du thuyền, hồ bơi và ô tô. Sẽ có một loại thuế đặc biệt đánh vào các công ty làm ăn với lợi nhuận lớn, bất động sản giá trị lớn. Đánh thuế vào một số mặt hàng nội địa: Thuế đánh vào các mặt hàng nội địa như nhiên liệu, thuốc lá, thức uống có cồn sẽ tăng một phần ba. Giảm chi tiêu công: các chi tiêu trong khu vực công sẽ bị cắt 15%. Giảm chi tiêu quân sự: trong năm 2012 chi tiêu cho quân sự của Hy Lạp sẽ bị cắt giảm 200 triệu Euro và từ năm 2013 đến 2015, sẽ cắt giảm mỗi năm 333 triệu Euro. Giảm chi tiêu giáo dục: chi tiêu cho giáo dục cũng bị cắt giảm bằng cách đóng cửa hoặc sát nhập 1976 trường học. Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội: trong năm 2011, 1,09 tỷ Euro sẽ được cắt từ quỹ an sinh xã hội của Hy Lạp. Tiếp đến, từ năm 2012 đến 2015 số cắt giảm lần lượt là 1,28tỷ; 1,03 tỷ; 1,01 tỷ và 700 triệu. Bên cạnh đó, độ tuổi về hưu sẽ tăng từ 61 lên 65. Tư hữu hóa chính phủ: chính phủ Hy Lạp sẽ tiến hành tư nhân hóa các doanh nghiệp quốc doanh trong đó có OPAP, Hellenic Postbank, Hellenic Telecom. Bên cạnh đó cũng sẽ bán cổ phần tại Athens Water, công ty dầu khí Hellenic Petroleum, công ty điện PPC và lender ATEbank và một số hải cảng, sân bay, đường cao tốc, quyền sở hữu đất và khai khoáng. Sa thải công chức: trong năm 2011, cư 10 công chức sẽ có một người bị sa thải. Còn trong những năm tới, tỷ lên sa thải sẽ là cứ 5 người thì sẽ sa thải 1 người. Giảm chi tiêu y tế: trong năm 2011, chi tiêu cho y tế sẽ bị cắt giảm 310 triệu Euro và từ 2012 đến 2015 sẽ giảm 1,81 triệu euro. 2.2.3.4. Đầu tư trực tiếp FDI: Chính phủ Hy Lạp đang thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng nhằm đảm bảo cam kết giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ Hy Lạp để nhận được sự trợ giúp từ EU và IMF. Vì thực hiện chính sách giảm chi tiêu, tăng thuế nên dẫn đến tình hình đầu tư FDI vào Hy Lạp giảm mạnh. Như mô tả trong đồ thị I, trong thời gian 2006-2008 FDI vào Hy Lạp đã liên tục duy trì mức độ cao hơn so với giai đoạn năm 2003 - 2005, mặc dù biến động. (Hình 2.9) Có nhiều yếu tố, chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự gia tăng đáng kể khối lượng FDI. Trong năm 2009 tổng luồng vốn vào Hy Lạp đạt 4,5 tỷ Euro, và luồng vốn ròng vượt quá 2,4 tỷ Euro. So với năm 2008, dòng chảy FDI vào Hy Lạp sụt giảm 21% do hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công. 2.2.3.5. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: Hy Lạp đã quản lý để đạt được một nền kinh tế phát triển nhanh chóng sau khi thực hiện chính sách ổn định kinh tế trong những năm gần đây, ít nhất, trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Từ năm 1998 đến năm 2008, GDP tăng dần qua các năm và đạt mức cao nhất vào tháng 12 năm 2008 với 355.88 tỉ $. Cuối năm 2009, khi khủng hoảng nợ công xảy ra làm cho các nhà đầu tư lo ngại về khả năng trả nợ của Hy Lạp và họ ồ ạt rút vốn ra khỏi thị trường Hy Lạp nên GDP giảm xuống còn 330 tỷ. Từ năm 2007 đến năm 2010, bình quân GDP hàng năm của Hy Lạp giảm dần và kỷ lục ở mức thấp -6,6 % trong tháng 12 năm 2010.(Hình 2.10) 2.2.3.6. Thất nghiệp gia tăng: Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm gần đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng. Đồng thời với chính sách “thắt lưng buộc bụng”, đã khiến cho tình trạng thất nghiệp ở nước này càng thêm nghiêm trọng. Từ năm 1983 đến năm 2010, Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp trung bình 9,43%, tỷ lệ này đang gia tăng dần trong những năm gần đây, tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp lần cuối báo cáo ở mức 18,4% trong tháng Tám năm 2011. (Hình 2.11) 2.3. Khủng hoảng nợ công Ireland và tác động đến tình hình TCTT: 2.3.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland: Thế mạnh kinh tế: dược phẩm, hàng công nghệ cao và dịch vụ. Ireland được hưởng lợi từ một lực lượng lao động có trình độ cao và khả năng kết nối dễ dàng với các nền kinh tế khác trong EU. 2.3.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP: Nợ Chính phủ của Ireland lần cuối báo cáo năm 2010 ở mức 96,2% GDP. Và theo số liệu gần đây nhất, tháng 11/2011, tỉ lệ này vào khoảng 99,4%GDP. Từ năm 1980 đến năm 2010, nợ Chính phủ trung bình trên GDP của Ireland là 68,95%, từng đạt mức cao lịch sử 109,20% trong tháng 12 năm 1987 và ghi lại một mức thấp khoảng 24,80% trong tháng 12 năm 2006 (hình 2.12). 2.3.1.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách: (theo dõi hình 2.13) Trước quý 1 năm 2008, ngân sách của chính phủ Ireland luôn ở trạng thái thặng dư. Tuy nhiên từ thời điểm đó tới nay, tình trạng ngân sách của nước này ngày càng xấu đi, theo báo cáo năm 2010 mức thâm hụt ngân sách đã lên đến con số 31,3% GDP. Ireland là nước có thâm hụt ngân sách cao nhấy khu vực Eurozone. Suốt 3 năm qua, giá nhà giảm 50-60% khiến cho tỷ lệ nợ xấu (đặc biệt là nợ của các công ty phát triển bất động sản) tăng đến mức báo động. Hệ thống ngân hàng, theo đó bị đặt trước nguy cơ đổ vỡ khiến Chính phủ phải ra tay can thiệp, cho dù cái giá phải trả là nợ công tăng cao.Năm 2009, chính phủ quốc hữu hóa Anglo Irish Bank. Trong đề xuất về gói hỗ trợ từ EU và IMF, Chính phủ Ireland còn tiếp tục dùng một phần trong khoản tiền đó để quốc hữu hóa hai ngân hàng lớn của nước này là Bank of Ireland và Allied Irish Bank, tiếp tục bơm tiền để tái cấp vốn cho nhiều ngân hàng để tăng tỷ lệ an toàn vốn của các tổ chức này. 2.3.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai Ireland báo cáo thặng dư thương mại tương đương với 4.113 triệu EUR vào tháng Chín năm 2011. Xuất khẩu vẫn là động cơ chính cho sự tăng trưởng của Ireland. Ireland đã đạt được thặng dư thương mại tương đối cao nhất so với GDP của EU. Trong thời kì khủng hoảng nợ công hoành hành, tình hình xuất khẩu của Ireland giảm mạnh, tuy nhiên cán cân thương mại vẫn ở trạng thái thặng dư. Trong năm 2010 và 2011 tình hình đã có phần cải thiện do những nỗ lực từ phía chính phủ nước này. (hình 2.14) Tuy vậy, cán cân vãng lai của Ireland vẫn thâm hụt dài hạn. Cán cân vãng lai thâm hụt nặng nhất vào quý I/2008, ở mức 4000 triệu EUR. Đến quý I/2011 mức thâm hụt đã giảm xuống tương đương với 1031 triệu EUR. Những chuyển biến xấu trong cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều đã gây nên tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bất chấp cán cân thương mại thặng dư. (hình 2.15) 2.3.1.4. Cơ cấu nợ nước ngoài và nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công. (hình 2.16) Từ năm 2003 đến nay, nợ nước ngoài của Ireland tăng nhanh liên tục. Trong năm 2009, 2010 tỉ trọng nợ của các tổ chức tài chính tiền tệ có phần giảm xuống và bù lại tỉ trọng nợ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và nợ trong các lĩnh vực khác tăng lên. Trong cơ cấu nợ của Ireland, nợ của các tổ chức tài chính tiền tệ luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất, những khoản nợ này cũng tăng rất nhanh trong giai đoạn 2003-2008 do hệ thống ngân hàng của nước này quá dễ giải trong việc phát hành các khoản cho vay ( nhất là trong lĩnh vực bất động sản.) Khi thị trường BĐS sụp đổ, các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn, tương tự như trường hợp của Mỹ, Chính phủ Ireland buộc phải cứu hệ thống ngân hàng theo cách riêng của mình, đó là tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA (National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ireland. Các ngân hàng của Ireland sẽ “bán” lại các khoản nợ xấu này cho chính phủ để đổi lấy trái phiếu chính phủ. Như vậy, Chính phủ Ireland đã biến nợ xấu của các ngân hàng này thành tài sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách để bù đắp cho các tổn thất của nó. Trước sau gì thì cách thức dùng tiền chính phủ để duy trì các tài sản ngày càng xuống giá trong nền kinh tế và bơm vốn để vực dậy khu vực ngân hàng của Ireland cũng sẽ buộc nước này phải liên tục đi vay mượn và chấp nhận thâm hụt ngân sách cho đến khi họ không còn khả năng chi trả nữa và phải đến cầu viện nước ngoài. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công của Ireland. Việc để hệ thống ngân hàng sụp đổ sẽ khiến cho nền Kinh tế Ireland hoàn toàn bị ngưng trệ, kéo theo sau đó là hàng loạt các hệ lụy về xã hội. ngoài ra sau đó nó có thể là quan bài đô mi nô đầu tiên cho sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng và các chính phủ trong khu vực EU. Cuối cùng là sự sụp đổ của Khu vực Erozone, một điều mà chẳng ai mong muốn xảy ra. Vì vậy chính phủ IRELAND đã phải chấp nhận tình trạng nợ công tăng cao bơm tiền để cứu các Ngân hàng, sau đó hy vọng các nước EU và IMF sẽ cứu trợ. Khác với khủng hoảng nợ của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị tài chính công yếu kém của nước này với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn và vượt kiểm soát. Kết quả là thâm hụt ngân sách nước này vượt trên 13% GDP và tổng nợ chính phủ trên GDP gần 130%. Quản lý nợ công của Ireland tương đối khá hơn với mức nợ chính phủ trên GDP chỉ trên dưới 90% GDP. Mức thâm hụt ngân sách của Ireland gần đây tăng mạnh không kém Hy Lạp là do chính phủ nước này phải bỏ tiền ra cứu trợ ngành ngân hàng, bao gồm quốc hữu hóa ngân hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Như vậy chính phủ Ireland đã biến nợ xấu từ khu vực tư nhân thành gánh nặng nợ nần của chính phủ và cuối cùng chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để có tiền tiếp tục cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình. 2.3.2. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ: 2.3.2.1. Xếp hạng tín nhiệm bị hạ bậc: Xếp hạng tín nhiệm của Ireland theo Moody’s : Ngày 7/11/2008 12/2/2009 7/7/2009 11/2/2010 31/03/2010 17/12/2010 12/7/2011 18/8/2011 Xếp hạng Aaa Aa3 Aa1 A1 Baa3 Baa1 Ba1 Ba2 Nguồn : Một trong những tác động rõ nét nhất của khủng hoảng nợ công lên tình hình tài chính tiền tệ Ireland chính là việc xếp hạng tín nhiệm bị hạ bậc. Mở đầu là ngày 12/2/2009, Moody’s hạ bậc tín nhiệm của Ireland từ Aaa xuống Aa3 do chính phủ nước này có động thái đứng ra bảo lãnh cho Anglo Irish bank. Kể từ đó đến nay, xếp hạn tín nhiệm cũng như bậc định giá sức mạnh tài chính ngân hàng( BFRS) và các chỉ tiêu xếp hạng khác của Ireland đều bị Moody’s và các tổ chức xếp hạng khác hạ bậc. 2.3.2.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng: Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Ireland đã tăng 129 điểm cơ bản trong 12 tháng qua. Từ năm 1991 đến năm 2011, lãi suất trung bình đạt 5,76%/năm, trong giai đoạn kinh tế Ireland tăng trưởng ổn định lãi suất trái phiếu ở mức thấp, nhất là trong tháng 9 năm 2005 chỉ ở mức 3,06% , nhưng từ khi xảy ra khủng hoảng nợ công, lãi suất trái phiếu liên tục tăng và đạt mức cao lịch sử 14,04% vào tháng 7 năm nay do Moody’s hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu dài hạn của Ireland xuống mức bỏ đi (Ba1). Lãi suất trái phiếu phải tăng để bù đắp rủi ro về khả năng trả nợ của Ireland.(hình 2.17) 2.3.2.3. Đầu tư trực tiếp FDI giảm nhanh đáng kể : Có thể thấy rõ rằng dòng vốn FDI chảy vào Ireland đã đảo chiều ngoạn mục. Năm 2004, FDI vẫn ở mức rất cao ( gần 20 tỷ USD), sang năm 2005 các nhà đầu tư đã rút vốn đồng loạt ra khỏi nước này, khiến dòng vốn FDI ở mức gần -30 tỷ USD và tiếp tục giảm sâu hơn trong năm 2006. Lúc này các nhà đầu tư đã nhận ra quả bong bóng đang ngày càng phình to ra và mất lòng tin với thị trường Ireland. FDI giảm đã tác động rất xấu lên tình hình kinh tế vốn đang đầy ắp nợ của Ireland. (hình 2.18) 2.3.2.4. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: Trong thập niên 1990, Ireland đã có một sự tăng trưởng thần kì, thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng từ 3,5% lên mức 6%, ở thời điểm trước khủng hoảng nợ công, thu nhập bình quân đầu người của nước này khoảng 40 nghìn EUR. Trên thực tế, Ireland đã phát triển thần kì từ điểm xuất phát thấp, nhưng có thời điểm tăng trưởng GDP còn đạt mức 10%. Đây là một sự tăng trưởng không bền vững. (hình 2.19) Tuy nhiên, vận đỏ của Ireland đã chuyển màu đen. Theo thời gian, mọi chi phí ở Ireland, từ tiền lương tới vật liệu đầu vào cùng tăng. Cùng với đó, nền kinh tế này chuyển từ chỗ phát triển bùng nổ nhờ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu sang phát triển bong bóng nhờ các giao dịch mua bán nhà đất và các dự án xây dựng. 2.3.2.5. Cắt giảm chi tiêu: Quốc hội Ireland tối 7/12/2010 đã thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng năm 2011 trong lúc chuẩn bị nhận viện trợ tài chính 85 tỉ euro từ EU và IMF. Theo Bộ trưởng Tài chính Ireland, nước này sẽ tăng thuế với tất cả người lao động và cắt giảm phúc lợi xã hội, nhằm tiết kiệm khoảng 6 tỷ euro vào năm 2011. Ngân sách năm 2011 là ngân sách hạn hẹp nhất trong kế hoạch thắt lưng buộc bụng 4 năm tới của Ireland nhằm tiết kiệm 15 tỉ bảng Anh, gần 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của nước này, nhằm đưa thâm hụt ngân sách về giới hạn trần 3% GDP của EU vào năm 2014. 2.3.2.6. Lạm phát và thất nghiệp: Lạm phát Tính theo chỉ số hài hòa giá tiêu dùng (HICP) của EU, trước năm 2007 tỉ lệ lạm phát của Ireland là 2,7%, trong khi tỉ lệ trung bình của EU là1,8%. Tỉ lệ lạm phát đạt mức cao kỉ lục vào khoảng 5,1% năm 2007 và mức thấp kỉ lục vào khoảng -6,56% trong tháng 10/2009. Bong bóng BĐS làm giá nhà đất tăng, kèm theo đó là sự tăng giá của các chi phí sản xuất khác làm HICP tăng, kết quả là đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao. Và điều ngược lại xảy ra khi bong bóng vỡ. Tỷ lệ lạm phát ở Ireland ở mức 2,8% trong tháng Mười năm 2001 (hình 2.20) Thất nghiệp: Theo thống kê năm 2010, Ireland là quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp cao đứng thứ 3 trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD và 50% trong tổng số 440.000 người nhận trợ cấp thất nghiệp là trợ cấp dài hạn. Trong thập niên 90, Ireland là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới. Năm 2001, tỉ lệ thất nghiệp chỉ ở mức 3,9%. Khủng hoảng nợ công xảy ra cùng với chính sách thắt lưng buộc bụng của chính phủ làm cho tỉ lệ thất nghiệp ở Ireland tăng liên tục kể từ năm 2009 và đến nay vẫn chưa có xu hướng giảm. Theo báo cáo tháng 9/2011, tỉ lệ thất nghiệp là 14,3%. Thất nghiệp tăng góp phần làm gia tăng bất ổn xã hội. Bằng chứng là ngày càng có nhiều cuộc biểu tình yêu cầu chính phủ tăng trợ cấp thất nghiệp và duy trì một số chính sách an sinh xã hội thiết yếu đã bị chính phủ cắt giảm.(hình 2.21) 2.4. EU và IMF đã làm gì đề cứu Hy lạp và Ireland? Từ những gì đã phân tích ở trên ta thấy vấn đề nợ công của Ireland là đơn giản hơn nhiều so với hy lạp, công việc quan trọng đối với Ireland là phải có tiền đề tài trợ cho các khoản nợ xấu của ngân hàng, sau đó là việc quản trị số nợ đó như thế nào để giảm thiệt hại cho chính phủ, vì vậy vào cuối tháng 11/2010 cả EU và IMF đã đồng ý cho Ireland vay 85 tỷ Euro với mức lại suất 5,2% để trang trải nợ nần. Sau đó là việc cơ cấu lại nợ cho Ireland cùng những cam kết khi hỗ trợ khi tình hình xấu đi. Vào ngày 2/5/2010 liên minh châu âu EU và IMF đã thông qua gói cứu trợ thứ nhất cho Hy Lạp trị giá 110 tỷ EURO (tương đương khoảng 136 tỷ USD), khoản giải ngân đầu tiên trị giá 14,5 tỷ EURO đã được giải ngân cho Hy lạp vào ngày 18-05-2011 . Chính phủ Hy Lạp sẽ sử dụng khoản tiền cứu trợ này để trả 8.5 tỷ Euro nợ trái phiếu đáo hạn vào ngày 19/5/2010, thay vào đó, chính phủ Hy Lạp phải thực hiện hàng loạt các chính sách khắc khổ để cắt giảm thâm hụt ngân sách như tăng thuế,giảm lương, cắt thưởng, xa thải bớt số công chức nhà nước… Mặc dù, Ngay sau ngày Hy Lạp đón nhận thông báo về gói cứu trợ đầu tiên 110 tỷ euro từ Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào hôm 4/5, các thị trường châu Âu và Mỹ đã trải qua chuỗi ngày biến động tồi tệ. Đồng euro chạm mức 1,3031 so với đôla Mỹ vào ngày 4/5 - thấp nhất trong vòng một năm và cho đến 5/6/2010 chỉ còn 1,2790 USD. Nhưng vào ngày 21-07-2011, 17 nước thuộc khu vực EUROZONE một lần nữa đã thông qua gói cứu trợ thứ 2 cho hy lạp trị giá 158,6 triệu Euro, điều đáng chú ý trong gói cứu trợ lần này là đã có sự đóng tham gia của khu vực tư nhân, giá trị lên tới 49,6 tỷ Euro. Ngoài việc thông qua gói cứu trợ mới, các nước Eurozone cũng đồng ý giãn nợ cho Hy Lạp từ các khoản vay từ Quỹ Cứu trợ Tạm thời (EFSF) từ 7,5 năm thành ít nhất 15 năm và nhiều nhất là 30 năm, đồng thời nhất trí giảm lãi suất vay cho Hy Lạp xuống còn 3,5% - so với mức 4%-5% hiện nay. Mới đây Tại Hội nghị Thượng đỉnh EU ngày 26-27/10 vừa qua, sau 10 giờ thương lượng, các lãnh đạo châu Âu mới đạt được một kế hoạch giúp Hy Lạp, cứu nguy khu vực đồng euro.Cụ thể là các ngân hàng tư nhân sẽ xóa 50% số nợ cho Hy Lạp, tương đương 100 tỷ euro, châu Âu sẽ cho Hy Lạp vay 100 tỷ từ nay đến 2014 và đứng ra bảo lãnh 30 tỷ euro. Một phần tiền này sẽ được dùng vào việc tăng vốn cho các ngân hàng Hy Lạp, có nghĩa là các cơ sở tài chính của Hy Lạp sẽ đặt dưới sự giám sát của châu Âu.Các ngân hàng khác của châu Âu cũng sẽ được cung cấp thêm vốn, nâng mức vốn tự có từ 5% lên 9%, giúp đối phó tốt hơn với khủng hoảng. Khả năng can thiệp của Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (FESF) sẽ được tăng cường, từ khả năng cho vay 440 tỷ euro lên thành 1000 tỷ eurozone. Khi Hy lạp Vỡ Nợ Hiệu ứng domino khủng hoảng và sụp đổ của các NH: Các NH KH đầu tiên chính là NH Hy Lạp, họ sẽ bị chính phủ quốc hữu hóa. Ngoài ra nó còn kéo theo hàng loạt các NH ở Châu Âu, MỸ và nhiều nước Khác rơi vào khủng hoảng. Hiệu ứng domino vỡ nợ của các quốc gia và tăng trưởng Kinh tế: khiến nhà đầu tư mất lòng tin vào đồng tiền chung Euro. Một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu các ngân hàng khu vực châu Âu là hoàn toàn có thể và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các Ngân Hàng và nền kinh tế yếu kém khác như như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha .. Khi Hy lạp vỡ nỡ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, tăng trưởng chắc chắn sẽ càng chậm lại. Điều này càng làm cho thu nhập (từ thuế)các nước vốn đã rơi vào tình trạng nợ nần ngày càng giảm, trong khi các chi phí khác lại tăng lên: đặc biệt là chi phí lãi vãy huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế, chí phí của các hợp đồng bảo hiểm tăng, chỉ sổ tín dụng giảm. điều này chắc chắn càng làm cho giá của trái phiếu và lãi suất càng tăng cao… tất cả những điều đó càng làm cho tình trạng nợ công của các nước khác như Ytalia, Ireland, Tây ban Nha, Bồ Đào Nha tồi tệ hơn.cuối cùng là tuyên bố phá sả Khối Eurozone sụp đổ: Các nước vỡ nợ lần lượt rời khỏi Eurozone để tự cứu chính mình mà không phụ thuộc vào những nước khác. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Hệ thống các NH sụp đổ, Nhiều nước tuyên bố vỡ nỡ, khối eurozone tan vỡ quá đủ cho một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong tất cả các linh vực tài chính, chứng khoán, bảo hiểm sản xuất… Khủng hoảng chính trị xã hội: từ trước tới nay khi nền kinh tế sụp đổ luôn tạo ra những bất ổn sâu sắc trong xã hội và nguy cơ sụp đổ của các chính phủ. Đặc biệt ở nước tuyên bố vỡ nợ. các cuỗ biểu tình, bạo động sẽ diễn ra thường xuyên, chính phủ sẽ được thay mới liên tục, tồi tệ hơn có thể diễn ra đảo chỉnh Vậy tại sao các nước thành viên khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone và Liên minh châu Âu EU phải cứu Hy lạp, Ireland hay bất cứ một nước nào khác? Chúng ta hãy giả sử Hy lạp vỡ nợ và xem những tác động của nó: PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam: 3.1.1. Nợ công tăng liên tục trong những năm qua, tiềm ẩn nhiều rủi ro: Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu % so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên số liệu về nợ công/GDP hiện nay vẫn chưa được công bố một cách rõ ràng. Nợ công của Việt Nam tăng liên tục trong những năm qua, đặc biệt giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010, và tiềm ẩn trong đó nhiều rủi ro. (Theo bảng số liệu 3.1 và biểu đồ 3.1 ) Nhận xét: Theo bảng số liệu 3.2 về cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2010 thì nợ công so với GDP là 56,6%, trong đó nợ chính phủ chiếm 45,5%GDP và nợ nước ngoài chiếm 11,2% GDP, và hiện tại tính đến thời điểm 01/10/2011, theo số liệu từ báo cáo của Bộ Tài Chính va ủy ban Thường vụ Quốc hội, tỷ lệ nợ công/GDP là 55,6%, tương đương 1.103 tỷ đồng, trong đó nợ nước ngoài chiếm tới 42,2% GDP. Như vậy có thể thấy rằng nợ công trong những năm qua ngày càng tăng cao. Trên lý thuyết mức nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng Việt Nam phải tính tới phần chìm của tảng băng, tức là những khoản nợ ngầm bao gồm: các khoản nợ ngân hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo lãnh các khoản vay cho những người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán, hay là các khoản tự vay tự trả của các tổng công ty, tập đoàn nhà nước…. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt Nam lơ là. Việc đi vay nợ của chính phủ là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng thực ra phải tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị tài sản của chính phủ. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục… Việc tính toán nợ công ở Việt Nam chưa thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất: nợ nước ngoài, nợ trong nước, nợ nước ngoài do doanh nghiệp và các địa phương tự đi vay khiến công tác quản lý nợ phân tán, không thống nhất, chi phí giao dịch, chi phí vay cao, thiếu sự phối hợp trong điều hành vĩ mô. Mặt khác do Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên các khoản vay ưu đãi ODA cũng giảm dần mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn. Đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước chúng ta vay vốn như: Nhật, EU… làm tăng thêm gánh nặng nợ công. Hậu quả: Nợ công tăng cao gây ra nhiều hậu quả: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút Nếu nợ trong nước lớn thì Chính phủ phải tăng thuế để trả nợ lãi vay gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Tăng thuế còn làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng. Lạm phát khó kiềm chế ở mức thấp. Nợ công tăng cao cũng làm cho nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. 3.1.2. Việt nam sử dụng nợ công chưa thật sự hiệu quả : Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư: Trong nhiều năm nay, cho dù thu ngân sách đã tăng đáng kể nhưng ngân sách nhà nước vẫn chỉ đáp ứng “khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”, theo báo cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch và đầu tư. Bộ này thừa nhận, ngoài mức thâm hụt ngân sách cao (từ 5 – 6,9% GDP trong những năm gần đây), còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể lên đến trên 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, bộ thừa nhận. Thâm hụt ngân sách gần đây được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu, nhưng bộ này thừa nhận thực tế mà ít người dám nói ra: “Hiện nay vẫn chưa rõ nguồn kinh phí để chi trả khi các trái phiếu đến hạn thanh toán là gì?”.(“Nỗi lo trả nợ”_ TBKTSG) Theo quy luật, có vay thì phải có trả. Để trả nợ gốc và lãi tính riêng cho các khoản vay ODA ưu đãi, ngân sách phải chi 70.250 tỉ đồng năm 2010, tăng cao so với 58.800 tỉ đồng năm 2009 và 51.200 tỉ đồng năm 2008, theo ủy ban Tài chính – ngân sách. Nguồn chi trả có thể sẽ không đáng lo, nếu những dự án đầu tư công được cấp vốn từ những nguồn vay nợ đó đạt hiệu quả, và sinh lời. Nhưng đây lại là một câu chuyện dài khác. Hiệu quả của vốn đầu tư đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 2001-2010 (Hình 3.2). Nếu như trong giai đoạn 2001-2006, hệ số ICOR nằm ở khoảng 4,5 thì đến giai đoạn 2007-2008, hệ số này đạt 6,15 nhưng năm 2009, ICOR nhảy vọt lên 8 và đến năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2; nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Xét theo Hình 3.3, ta có thể thấy được, so với các nước trong khu vực Châu Á, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa các nước đó. Bổ sung cho hệ số ICOR cao là những khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, cảng biển,… đã quy hoạch hoặc đã khởi công nhưng còn dang dở và cần lượng vốn lớn nữa để hoàn thiện. Gần đây, khi được hỏi về việc có 5.000 dự án công ở Việt Nam bị chậm tiến độ theo công bố của bộ Tài chính, chuyên gia kinh tế trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Martin Rama đã trả lời là ông “không hề ngạc nhiên”. Ông giải thích: “Ngay cả những dự án ODA do chúng tôi tài trợ cũng bị chậm… Đó là tình hình chung với các dự án ở Việt Nam”. Câu chuyện Vinashin là một ví dụ. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Cuối tháng 11/2010, trang web của Bloomberg dẫn các nguồn tin từ công ty tư vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng Việt Nam. Từ trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta thấy được là chuyện quản trị nợ. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ. Những gì Hy Lạp, Ireland đang trải qua sẽ có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào. Chủ nợ rất dễ biến thành con nợ nếu không kịp thời điều chỉnh lối “ứng xử” với công nợ và tầm nhìn trong đầu tư. Với tình hình vay nợ và hiệu quả sử dụng như vậy, không có gì ngạc nhiên khi tại cuộc họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa rồi không ít đại biểu đã tỏ ra lo ngại về nợ công và an ninh tài chính của đất nước.  3.1.3. Thâm hụt ngân sách ngày càng tăng dẫn đến tính bền vững của nợ công bị giảm sút: Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 4,86%GDP (2005) GDP lên tới 6,9%GDP (2009) và 5,8%GDP (2010). (Theo Hình 3.4) Bội chi của Việt Nam đã luôn ở mức 5% GDP từ nhiều năm gần đây. Từ năm 2007 đến nay, do phải kích cầu đầu tư nên ngân sách nhà nước đã chi một lượng tiền lớn ra lưu thông nên tốc độ tăng bội chi ngân sách nhà nước tăng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Năm 2008, sự diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23%, thì tỷ lệ lạm phát lên tới 22,97%, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,58% GDP. Đứng trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, từ đầu năm 2009 Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP. Về cơ bản nó đã đạt được mục tiêu đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế tuy nhiên nó cũng mang đến hệ lụy: thâm hụt ngân sách của Việt Nam lên đến 87,3 nghìn tỷ đồng (gần 7% so với GDP). Năm 2010, thâm hụt ngân sách bằng 5,8% GDP. Theo công bố gần đây nhất của bộ Tài chính, so với tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2011 là 5.76% thì mức thâm hụt ngân sách 9 tháng chỉ vào khoảng 2.6% GDP. (Hình 3.5) Như vậy, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng báo động đỏ 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư. 3.1.4. Nợ công của Việt Nam xếp top cuối về tính minh bạch: Các con số về khoản nợ công của Việt Nam được công bố không đồng nhất giữa Quốc hội, Bộ Tài chính, đồng thời con số này cũng không giống với con số tính toán của thế giới. Điều này khiến các chuyên gia nhận định, hiện những thông tin về vấn đề nợ công của Việt Nam chưa thực sự minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã bước đầu có những thông tin công khai về nợ công trên website của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ chưa phải toàn bộ nợ công. Cũng theo các chuyên gia, thống kê tài chính của Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào nợ Chính phủ, nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ công vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm với khu vực này. Và đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến những sự việc như Vinashin. 3.2. Các giải pháp để Việt Nam không rơi vào khủng hoảng nợ công: 3.2.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế: Có rất nhiều biện pháp để cải thiện và tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở lớn với định hướng xuất khẩu và phụ thuộc đáng kể vào FDI, mà các nhân tố chính tác động đến chất lượng xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam hiện nay là chất lượng sản phẩm; chi phí sản xuất; năng suất lao động; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; việc tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch 3.2.1.1. Tăng năng suất lao động: Cải thiện năng suất lao động trong xã hội cần được xem là mục tiêu quan trọng. Hiện tại, năng suất lao động của Việt Nam nhìn chung vẫn khá thấp, chỉ bằng 1/5 năng suất trung bình trong khu vực ASEAN và khoảng 1/10 mức năng suất của Singapore. Áp dụng các thiết bị máy móc có công nghệ mới nhât. Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp của chúng ta nhập khẩu những thiết bị chỉ là hàng phế thải của các Nước Phát triển đem về trong nước Sản xuất. Nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo thống kê, gần ¼ lao động chưa tốt nghiệp trung học phổ thông, 65,3% chưa qua đào tạo. 3.2.1.2. Tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư: Để tăng cường chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và môi trường đầu tư của Việt Nam chúng ta cần tuân thủ tốt các quy tắc, các tiêu chuẩn quốc tế của WTO, của EU…như chất lượng sản phẩm; hàng rào thuế quan và phi thuế quan; tuân thủ các qui định vệ sinh và an toàn kiểm dịch… 3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc vay và sử dụng nợ công hiệu quả: 3.2.2.1. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm hạn chế việc vay nợ: Việc giảm thâm hụt ngân sách không phải càng nhiều càng tốt, mà cần phải giảm đến một mức độ hợp lý và chấp nhận được. Tăng thu ngân sách nhà nước: Mặc dù có nhiều nguồn thu khác để tăng thu ngân sách nhà nước và việc tăng thuế không phải là giải pháp tốt nhất, nhưng Việt Nam đang là một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào thuế, thì việc làm này ít nhiều vẫn có cơ hội. Cần xác định được mức thuế suất hợp lý để đạt được mức thuế tối ưu. Vì biện pháp tăng thu bằng việc ấn định tăng thuế suất có tác động hai chiều, nếu tăng với mức độ hợp lý, sẽ làm tăng nguồn thu, nhưng khi vượt quá giới hạn của nền kinh tế thì sẽ làm giảm tổng nguồn thu thuế. Nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện các luật thuế; bãi bỏ những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp. Tăng thêm tuổi nghỉ hưu, qua đó sẽ tăng nguồn thu từ thuế (do người lao động làm việc trong thời gian dài). Giảm chi ngân sách nhà nước: Có thể nói việc cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt ngân sách là một biện pháp không được ủng hộ nhiều. Tuy nhiên, nếu phân biệt rõ việc tiết kiệm những khoản chi cho những hoạt động lãng phí với khoản chi nhằm kích thích hoạt động kinh tế, nhằm nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai, thì đây cũng là một trong những giải pháp cần được quan tâm tới. Bộ máy nhân sự khối hành chánh còn làm việc theo thủ công, cồng kềnh, không hiệu quả, vì vậy cần tinh giản và công nghệ hoá phục vụ quản lý hành chính nhằm giảm nhân sự, cải cách thủ tục hành chính. Chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của DNNN. Tăng cường quản lý để các công trình đầu tư của nhà nước thực sự có hiệu quả tránh thất thoát, lãng phí nguồn vốn. 3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay: Nâng cao hiệu quả huy động vốn : Đa dạng hoá cả hình thức vay lẫn biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay. Ngoài ra, còn phải triển khai các biện pháp khác để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư. Tăng cường quảng bá, giới thiệu trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế. Tăng tính thanh khoản cho trái phiếu bằng cách Chính phủ sẽ mua lại trái phiếu chính phủ bất cứ lúc nào từ người mua theo thời giá hiện tại… Ngoài ra, kiều hối cũng là nguồn quan trọng có thể thu hút để trả nợ nước ngoài,. Các chính sách kiều hối của Việt Nam cần thông thoáng cởi mở, đơn giản và hiệu quả hơn vì số lượng kiều hối thực tế chuyển về còn rất nhiều không qua ngân hàng vì lượng kiều hối này không qua các kênh chính thức như: xách tay, tư nhân, tổ chức khác...Ngoài ra, cần duy trì và tiếp tục kéo giảm chênh lệch giữa tỷ giá trong và ngoài ngân hàng để có thể  thu hút người nhận kiều hối bán lại ngoại tệ cho ngân hàng. Sử dụng vốn hợp lý, có hiệu quả: 3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ công: 3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và xây dựng khung pháp lý: Hoàn thiện Luật quản lý nợ công: Cần hoàn thiện và đồng bộ hơn các văn bản pháp lý, tiến tới chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Luật Quản lý nợ công đã được ban hành, có hiệu lực sử dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tuy nhiên, một số nội dung của Luật vẫn còn chung chung, cần phải được làm rõ. Chẳng hạn như: Về việc hoàn trả vốn vay, hiện chưa có quy định rõ về việc bàn giao nợ vay đối với các đối tượng vay nợ, đặc biệt ở chính quyền địa phương khi người quản lý hết nhiệm kỳ. Ví dụ, những nguồn vốn vay được sử dụng kém hiệu quả, vỡ nợ thì liệu người kế nhiệm có dám nhận việc trả nợ này hay không? Vì vậy đề nghị đưa vào luật để quy trách nhiệm khoản nợ sẽ giao cho ai và được thực hiện như thế nào. Việc công bố công khai các thông tin về tình hình vay nợ. Dự thảo Luật hiện còn chung chung, chưa thể hiện rõ những vấn đề như thời gian công bố công khai, nội dung các thông tin công bố công khai gồm những vấn đề gì, chính quyền địa phương có phải công bố công khai tình hình vay nợ không? Học hỏi kinh nghiệm quản lý và xây dựng chính sách từ các tổ chức quốc tế có uy tín, các quốc gia thành công trong công tác quản lý nợ. 3.2.3.2. Đảm bảo an toàn, bền vững nợ: Thay đổi cách đánh giá về tiêu chí kiểm soát nợ công: Nợ công/GDP: Không nên đánh giá tình trạng nợ công hay năng lực thực sự của nền kinh tế chỉ căn cứ trên tỷ lệ nợ công/ GDP, mà còn nên xem xét các chỉ tiêu cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ. Vì GDP sau khi đã trừ đi phần chi trả sở hữu và cộng với phần thu nhập từ sở hữu được gọi là Tổng thu nhập Quốc gia (Gross National Income - GNI) đây mới là khoản mà một quốc gia có thể nhận được trong quá trình sản xuất và sở hữu. GNI sau khi được cộng thêm các khoản thu nhập từ chuyển nhượng như kiều hối, các khoản viện trợ không hoàn lại…và được trừ đi các khoản chi chuyển nhượng, lúc đó khoản còn lại mới là Thu nhập Quốc gia khả dụng (National Disposable Income - NDI). Đó là khoản tiền mà quốc gia có thể sử dụng thực tế sau khi đã bù trừ các giao dịch quốc tế qua lại. Việc so sánh nợ công chỉ bằng GDP có thể gây ngộ nhận và gây ra tâm lý chủ quan khi sự khác biệt giữa GDP và GNI ngày càng tăng. Cách cân đối ngân sách: Nên thay đổi cách cân đối NSNN theo thông lệ quốc tế nhằm tạo thuận lợi khi so sánh mức bội chi của VN với các nước, và để xác định mức độ an toàn về nợ Chính phủ khi cân đối kinh tế vĩ mô. Việc áp dụng chuẩn mực quốc tế sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài về tính minh bạch trong quản lý kinh tế của VN. Khi tính toán nợ công cần lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu, bằng cách tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất thực tế thay vì tính theo lãi suất danh nghĩa. Đồng thời, chính phủ cần quan tâm đến các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội… Tăng cường quản lý giám sát chi tiêu công: Cần tăng cường giám sát để đồng tiền ngân sách chi kịp thời, đúng đối tượng, đúng mục đích. Cần từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp về quản lý tài chính - ngân sách Nhà nước. Kết quả kiểm soát và kiểm toán phải gắn với trách nhiệm cá nhân, những người đặt bút phê duyệt các khoản chi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về quyết định của mình. Tăng cường công tác quản lý rủi ro: Xây dựng quy chế quán lý rủi ro: theo dõi toàn diện các rủi ro: tỷ giá, lãi suất, tái cấp vốn, thanh khoản, tín dụng; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về cách tính mức phí bảo lãnh và cho vay lại để phản ánh mức rủi ro tín dụng và thị trường của các khoản vay. Theo dõi chặt chẽ, đảm bảo thanh toán đúng hạn, xây dựng các ngưỡng an toàn và hạn mức vay phù hợp. Định kỳ báo cáo Chính phủ, hoặc báo cáo đột xuất khi dự đoán có nguy cơ mất an toàn nơ. 3.2.3.3. Công khai và minh bạch hóa thông tin về nợ công: Nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Thông tin về nợ công phải bao quát cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Ví dụ: Nếu thông tin về Vinashin được cung cấp đầy đủ và kịp thời, Quốc hội, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân tham gia ngay từ khi nó chưa bị lún sâu vào khủng hoảng và ngập ngụa trong nợ nần như hiện nay thì tình hình chắc chắn đã tốt đẹp hơn nhiều. KẾT LUẬN Sự sụp đổ của hai nền kinh tế được coi là những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhãn tiền đối với tất cả các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Mối đe dọa về khủng hoảng nợ công vẫn đang tiếp diễn và có nguy cơ lan rộng ra các quốc gia khác ở châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia…) cũng như ảnh hưởng đến các quốc gia khác trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về nợ công, những nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng của nó để từ đó có được những giải pháp phù hợp trong việc quản lý nợ công và ngăn ngừa khủng hoảng nợ công là vấn đề cấp bách và cần được thực hiện ngay. TRÍCH DẪN BIỂU ĐỒ VÀ SỐ LIỆU Bảng 2.1: thống kê GDP và tỉ lệ Public debt/ GDP (%) của một vài quốc gia năm 2010 Quốc gia GDP 2010 (million) Nợ công 2010 (million) Public debt/ GDP (%) United States 14.582 13.590 93,2% Japan 5.498 12.112 220,3% Greece 305 435 142,8% Ireland 204 196 96,2% Spain 1.407 845 60,1% Portugal 229 231 93% Italy 2.051 2.440 119% Germany 3.310 2.754 83,2% France 2.560 2.091 81,7% United Kingdom 2.246 1.797 80% India 1.729 1.196 69,2% China 5.879 1.040,6 17,7% Hình 2.1: so sánh tỉ lệ nơ/ GDP một số quốc gia năm 2010, nguồn: tradingeconomics.com  Hình 2.2: Tỷ trọng nợ công trên GDP của Hy Lạp Hình 2.3. Những chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp Hình 2.4. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kì hạn Hình 2.5: Tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp. Hình 2.6. Tình hình thâm hụt cán cân thương mại của Hy Lạp Hình 2.7. Tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp Hình 2.8. Lãi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Hình 2.9. Đầu tư FDI của Hy Lạp Source: Bank of Greece 2010, revised data regarding 2006-2008 Hình 2.10. Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp Hình 2.11. Tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp Hình 2.12. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Ireland giai đoạn 2000-2010 Hình 2.13. Cán cân ngân sách Ireland giai đoạn 1998 – 2010. Hình 2.14. Cán cân thương mại Ireland giai đoạn 2009-2011 Hình 2.15. Cán cân vãng lai Ireland giai đoạn 2007-2011 Nguồn: irelandafternama.worldpress.com Hình 2.16. Cơ cấu nợ nước ngoài của Ireland giai đoạn 2003-2010 Hình 2.17. Lãi suất trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm của Ireland. Hình 2.18. Nguồn vốn FDI của Ireland giai đoạn 1974-2009 Hình 2.19. Tốc độ tăng trưởng GDP của Ireland giai đoạn 2007 – 2011. Hình 2.20. Tỉ lệ lạm phát của Ireland giai đoạn 2008 – 2011Nguồn: The Economist Intelligence Unit Hình 3.1: Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2001-2010 Bảng 3.2: có cấu nợ công Việt Nam 2010 Nguồn: Tổng cục Thống kê Hình 3.2: Hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Hình 3.3: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số nước Châu Á.  Hình 3.4: Thâm hụt ngân sách giai đoạn 2005-2011(dự báo) Hình 3.5: Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm 2011 TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS.Sử Nguyễn Văn Tiến, “Tài Chính Quốc Tế”, Nhà xuất bản Thống kê, 2010. “LUẬT QUẢN LÝ NỢ CÔNG”, Số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 “NGHỊ ĐỊNH VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ NỢ CÔNG”, Số 79/2010/NĐ-CP ngày 14/07/2010 Các WEBSITE:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx74612039-Tieu-Luan-No-Cong-2009-2011.docx
Luận văn liên quan