Làm thế nào để ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả ở đồng bằng Sông Cửu Long

Quá trình cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp đang diễn ra ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trình độ nguồn nhân lực đang thực hiện công việc cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp trong sử dụng máy, chế tạo máy và khuyến nông còn hạn chế, đa số chưa được đào tạo từ trường lớp chuyên về CGH nông nghiệp. Do đó cần có những lớp tập huấn về CGH cho các đối tượng có liên quan. - Các khâu làm đất, tưới tiêu, đập lúa ở ĐBSCL đã CGH đạt gần 100% diện tích. Các khâu còn lại mức độ CGH tăng dần theo thời gian, phụ thuộc vào điều kiện của mỗi địa phương. Riêng khâu làm đất cần trang bị các loại máy kéo mới. - Cần thực hiện 9 giải pháp đã đề xuất để CGH trong sản xuất lúa mang lại hiệu quả thiết thực cho ĐBSCL. - Đây là những vấn đề cần được các cơ quan chức năng quan tâm trong định hướng hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn vùng ĐBSCL trong tương lai.

pdf13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2522 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Làm thế nào để ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả ở đồng bằng Sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1/11 LÀM THẾ NÀO ĐỂ ỨNG DỤNG CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP MỘT CÁCH HIỆU QUẢ Ở ĐBSCL TS. Nguyễn Văn Khải Phó trưởng bộ môn Kỹ thuật cơ khí – Khoa Công nghệ Trường Đại học Cần Thơ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của cả nước, vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn với diện tích gieo trồng lúa khoảng 3,9 triệu ha. Năm 2010, sản lượng lúa của ĐBSCL đạt 21,558 triệu tấn. Hàng năm ĐBSCL cung cấp: Trên 50% sản lượng lúa của cả nước và hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Để giảm bớt công việc nặng nhọc và tăng năng suất lao động, từng bước người dân đã áp dụng cơ giới hóa (CGH) vào quá trình canh tác lúa: Làm đất, gieo cấy, phun thuốc, bón phân, tưới tiêu, thu hoạch, vận chuyển và sấy. Nhưng ”Làm thế nào để ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả ở ĐBSCL“ là một vấn đề rất cấp thiết hiện nay cho toàn vùng đồng bằng. Trong CGH sản xuất nông nghiệp hai yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến quá trình sản xuất: trình độ nguồn nhân lực sử dụng thiết bị và tình trạng kỹ thuật của máy phục vụ nông nghiệp. II. HIỆN TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CGH NÔNG NGHIỆP 2.1 Hiện trạng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CGHNN Trước đây, hai cơ quan trong vùng đào tạo nguồn nhân lực chính phục vụ CGH sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long là Khoa Cơ khí nông nghiệp Trường Đại Học Cần Thơ, đào tạo trình độ kỹ sư Cơ khí nông nghiệp và Trường Công nhân cơ khí nông nghiệp 2 trung ương ở Ô Môn, đào tạo công nhân Sử dụng cơ khí nông nghiệp. Trường Công nhân cơ khí nông nghiệp 2 trung ương (Hiện nay chuyển thành Trường Cao đẳng Cơ điện và nông thôn Nam bộ) từ năm 1979 đến năm 1995 mỗi năm đào tạo trung bình 150 học viên ngành Sử dụng cơ khí nông nghiệp. Từ năm 1996 đến nay, đã 16 năm qua không có học viên theo học.(Nguồn: Số liệu từ Hiệu trưởng tháng 04 năm 2012). Các học viên đã được đào tạo trước đây, một số người có điều kiện kinh tế đã mua một trong các loại: máy kéo, máy xới, máy đập lúa 2/11 hoặc máy gặt đập liên hợp làm dịch vụ cơ giới hoá nông nghiệp, đa phần còn lại đã chuyển sang làm công việc khác. Lực lượng lao động trẻ sử dụng máy nông nghiệp hiện nay chỉ học việc từ người làm lâu năm truyền nghề lại. Tương tự, Khoa Cơ khí nông nghiệp Trường Đại Học Cần Thơ (Hiện nay chuyển thành Khoa Công Nghệ). Từ năm 1999 đến nay đã 13 năm không có sinh viên theo học ngành Cơ khí nông nghiệp. Các kỹ sư cơ khí nông nghiệp đã được đào tạo trước đây, còn rất ít người hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn. Bảng 1. Số lượng sinh viên theo học ngành cơ khí nông nghiệp từ năm 1976 - 1999. Năm học 1976 - 1996 1996-1997 1997-1998 1998-1999 1999-2000 Số lượng sinh viên 719 0 43 76 0 Nguồn: Khoa Công Nghệ Đại Học Cần Thơ tháng 04 năm 2012 2.2 Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực phục vụ CGHNN a) Sử dụng máy Thu hoạch lúa bằng máy gặt xếp dãy, máy gặt đập liên hợp (GĐLH) đang phát triển nhanh chóng trong vùng, do tránh rầy nên xuống giống đồng loạt, khi thu hoạch trong thời gian ngắn, khối lượng công việc nhiều và tình trạng thanh niên rời nông thôn vào tìm việc ở các khu công nghiệp dẫn đến thiếu hụt lao động gay gắt tại thời điểm thu hoạch lúa dẫn đến số lượng máy tăng nhanh hàng năm để đáp ứng yêu cầu thực tế của sản xuất. Theo số liệu của Trung tâm khuyến nông quốc gia ở bảng 2. Bảng2. Tổng hợp số lượng máy cắt xếp dãy và máy gặt đập liên hợp tháng 4/2011 Tỉnh MÁY GẶT ĐẬP LIÊN HỢP MÁY CẮT XẾP DÃY Thời 7/200 3/200 3/200 9/201 4/201 7/200 3/2008 3/200 9/201 4/201 3/11 điểm 7 8 9 0 1 7 9 0 1 1 An Giang 175 251 618 1.019 1.254 168 267 398 369 381 2 Kiên Giang 164 400 800 843 1.310 27 27 200 172 160 3 Đồng Tháp 51 105 279 771 992 497 526 87 1.001 846 4 Long An 28 100 756 876 1.030 1.578 1.846 1.815 1.578 2.167 5 Vĩnh Long 6 12 193 475 719 91 105 110 130 141 6 Trà Vinh 3 7 30 330 330 34 38 40 40 40 7 Cần Thơ 25 51 144 217 345 165 165 135 135 135 8 Tiền Giang 9 14 38 181 216 260 285 319 537 548 9 Sóc Trăng 6 16 26 84 163 32 32 32 - - 10 Bạc Liêu 7 11 23 48 70 40 40 40 40 40 11 Hậu Giang 2 18 19 43 60 30 30 41 35 41 12 Cà Mau - 4 14 25 71 - 2 2 - 7 4/11 13 Bến Tre 0 0 2 11 11 25 36 25 25 25 CỘNG 476 989 2.942 4.923 6.571 2.947 3.399 3.244 4.062 4.531 Nguồn: Tổng hợp của Pgs. Mai Thành Phụng, TTKNQG từ nguồn báo cáo của các tỉnh qua 4 lần hội thi máy GĐLH vùng ĐBSCL tại Kiên Giang(07/2007), Đồng Tháp (3/2008), An Giang (3/2009), Sóc Trăng (9/2010) và Bình Định(4/2011) Tháng 7 năm 2007 toàn vùng có khoảng 476 máy GĐLH thu hoạch lúa và gần 3.000 máy gặt xếp dãy, đến tháng 4 năm 2011 đã có hơn 6.571 máy GĐLH và hơn 4.500 máy gặt xếp dãy. Như vậy, trong bốn năm số lượng máy gặt xếp dãy tăng lên 1,5 lần và máy GĐLH đã tăng nhanh lên hơn 13 lần. Trong thời gian tới sẽ có nhiều nông dân tiếp tục mua máy GĐLH để sử dụng. Mỗi máy cần 2 người vận hành để đáp ứng kịp thời vụ thu hoạch, như vậy đã có khoảng 13.000 người trực tiếp vận hành máy GĐLH, một trong các loại máy phức tạp nhất của CGH sản xuất nông nghiệp, chưa qua đào tạo căn bản từ trường lớp, dẫn đến những trục trặc, hư hỏng và điều chỉnh các thông số kỹ thuật chưa phù hợp làm thất thoát hạt trong quá trình sử dụng máy là điều không thể tránh khỏi. Máy GĐLH sử dụng ở Việt Nam hiện nay được cung cấp từ nhiều nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và máy nội địa sản xuất trong nước. Các cơ sở sản xuất máy trong nước trên cơ sở nhập khẩu: Hộp số, động cơ, xích cao su và một số chi tiết khác..., từ đó sản xuất ra máy GĐLH. b) Chế tạo máy GĐLH Trong lĩnh vực chế tạo máy GĐLH qua kết quả khảo sát các cơ sở sản xuất máy tham gia bình tuyển vụ Hè Thu, năm 2010 tại tỉnh Sóc Trăng, cho thấy trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Bảng 3. Số liệu khảo sát trình độ nguồn nhân lực các cơ sở chế tạo máy GĐLH đồng bằng sông Cửu Long tháng 9/2010. Tỉnh TT Tên cơ sở Tổng số nhân viên Trình độ được đào tạo về cơ khí Kỹ sư Cao đẳng Trung cấp Công Nhân chứng chỉ nghề Tự đào tạo 5/11 Long An 1 Nhật Thành 50 0 0 10 0 0 40 2 Chín Nghĩa* 15 1 0 0 0 0 14 3 Hiệp Hùng 19 0 0 14 0 0 5 Tiền Giang 4 Tư Sang 57 2 0 4 9 0 42 Đồng Tháp 5 Phan Tấn 80 1 0 0 3 0 76 6 Vạn Phúc 25 0 0 3 0 0 22 7 Út Máy Cày* 30 0 0 0 0 0 30 Cần Thơ 8 Hoàng Thắng 30 3 0 3 6 0 18 9 Năm Sanh 20 0 0 0 0 0 20 10 Tâm Phúc* 55 0 0 0 5 0 50 An Giang 11 Hai Tính 9 0 0 0 0 0 9 12 Tư Hồng 10 0 0 0 0 0 10 13 Dũng số 5 20 0 0 0 0 0 20 6/11 Kiên Giang 14 Đức Ngươn 15 0 0 0 1 0 14 Tổng 435 7 0 34 24 0 370 % so với tổng 1,61 0,00 7,82 5,52 0,00 85,06 (Ghi chú: Các cơ sở có dấu * phỏng vấn qua điện thoại, không đăng ký tham gia bình tuyển). Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy số lượng kỹ sư và cao đẳng cơ khí ở các cơ sở chế tạo máy gặt đập liên hợp chiếm tỉ lệ rất thấp 1.61%, trình độ trung cấp 7.82% và công nhân được đào tạo chính qui 5,52%. Các cơ sở vẫn duy trì theo lối cũ là tự đào tạo nhân viên trong quá trình sản xuất. Chỉ có 4/14 cơ sở chế tạo máy gặt đập liên hợp có nhân viên cơ khí đạt trình độ kỹ sư cơ khí. Với trình độ nguồn nhân lực như hiện nay đa số các cơ sở chế tạo máy gặt đập liên hợp khó đạt đuợc độ ổn định chất lượng sản phẩm trong quá trình sử dụng. Bảng 4. Trình độ nguồn nhân lực công ty cổ phần cơ khí An Giang, đơn vị tham gia bình tuyển máy vụ Hè Thu năm 2010 Tên công ty Tổng nhân viên Trình độ được đào tạo về cơ khí Kỹ sư Cao đẳng Trung cấp Công nhân chứng chỉ nghề Tự đào tạo Cơ Khí An Giang 275 28 4 20 223 0 0 % so với tổng số 10,18 1,45 7,27 81,09 0 0 Công ty cổ phần cơ khí An Giang có tỉ lệ kỹ sư cơ khí, cao đẳng, trung cấp và công nhân được đào tạo từ trường lớp lớn nhất trong các cơ sở chế tạo máy gặt xếp dãy và máy gặt đập liên hợp trong vùng. Đây là cơ sở chế tạo máy gặt xếp dãy lớn hàng năm cung cấp ra thị trường trong nước và xuất khẩu khoảng 1.400 máy/năm. c) Ở Trung tâm khuyến nông khuyến ngư 13 tỉnh ĐBSCL 7/11 Bảng 5. Hiện trạng nguồn nhân lực kỹ sư Cơ Khí ở các Trung Tâm Khuyến Nông - Khuyến Ngư (TTKNKN)13 tỉnh ở ĐBSCL( tháng 4/2012) TT TT KN – KN Kỹ sư CKNN Kỹ sư CK Nơi đào tạo, khóa, Năm Tốt nghiệp 1 An Giang 01 0ĐHCT (K8 - 1986) 1996 2 Long An 0 01ĐHCT (K27- 2006) 3 Tiền Giang 0 01ĐHCT (K27- 2001) 4 Kiên Giang 0 01ĐHCT- KG (2007) 5 Vĩnh Long 0 01ĐH Cửu Long (2004) 6 Trà Vinh 0 01ĐHSPKT Thủ Đức 7 Cần Thơ 0 0 8 Đồng Tháp 0 0 9 Sóc Trăng 0 0 10 Bạc Liêu 0 0 11 Hậu Giang 0 0 12 Cà Mau 0 0 13 Bến Tre 0 0 Tổng 01 05 Từ kết quả khảo sát cho thấy nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về lĩnh vực CGH nông nghiệp trong các TTKNKN của 13 tỉnh ĐBSCL rất hạn chế: chỉ có 1 TTKNKN có kỹ sư CKNN, 5 TTKNKN có kỹ sư Cơ khí và 7 TTKNKN còn lại 8/11 của ĐBSCL không có cán bộ trình độ kỹ sư Cơ khí! Đây là một khó khăn cho việc triển khai các tiến bộ kỹ thuật về CGH trong sản xuất nông nghiệp ở các địa phương. Trong tương lai gần sẽ cơ giới hoá đồng bộ cây lúa, rau màu, cây họ đậu, làm vườn, thu hoạch mía, nuôi trồng thuỷ sản,... Do đó, rất cần một nguồn nhân lực lớn có trình độ chuyên môn sâu về cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Nhưng hiện nay trong vùng không có người theo học, đây là một khó khăn rất lớn trong toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghịêp nông thôn hiện nay. III. HIỆN TRẠNG TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ CGH CÂY LÚA Ở ĐBSCL Bảng 6. Trang thiết bị phục vụ CGH cây lúa ĐBSCL TT Tỉnh Máy làm đất (Máy) Sạ hàng (Công cụ) Tưới tiêu (Máy) Phun thuốc Cắt xếp dãy (Máy) GĐLH (Máy) Đập lúa (Máy) Sấy (Máy) 1 Long An - 15.000 120 sạ tỉa 4.200bt 2.875 đc 640 tpkd 2.167 1.030 6.862 1.356 2 Đồng Tháp 3.820 nhỏ 1.943 lớn 11.256 20 máy 727 trạm điện 254 trạm dầu 35.034 911 1.168 2.083 742 3 An Giang - - - - 381 1.254 - 2.327 4 Kiên Giang 4.827 - - 14.511 160 1.319 - 2.293 5 Vĩnh Long 200 Cày 1.020 (xới tay) - - - 141 719 4.340 174 6 Trà - - - - 40 330 - 230 9/11 Vinh 7 Cần Thơ 716 >12cv 1.150 <12cv - 42.925 - 425 345 1.790 796 8 Tiền Giang - 6.503 - - 548 216 - 395 9 Sóc Trăng 5.185 - - - - 163 5.955 602 10 Bạc Liêu - - - - 40 70 - 200 11 Hậu Giang 175 - - - 35 60 1.080 425 12 Cà Mau 1.289 nhỏ 98 lớn - 7.296 - 7 68 679 50 13 Bến Tre - - - - 25 11 - - Nguồn:Báo cáo địa phương về CGH sản xuất lúa trong hội thi máy GĐLH thu hoạch lúa các tỉnh phía Nam năm 2010, 2011 và Hội nghị ” Giải pháp cho sấy lúa vụ Hè Thu ở ĐBSCL 23/03/2012”. Bt:bơm tay; đc:động cơ; tpkd: thùng phuy kéo dây. Bảng 7. Hiện trạng CGH cây lúa của một số tỉnh ĐBSCL Tỷ lệ % CGH so với tổng diện % so với tổng sản lượngHT 10/11 tích TT Tỉnh Làm đất Sạ hàng Tưới tiêu Phun thuốc Cắt xếp dãy GĐLH Đập lúa Sấy 1 Long An 100% 60% 100% 73% 70% - 45% 25- 30%ĐX 2 Đồng Tháp 100% 52% Trạm4 5% - 55,48 % 100% 35% 3 An Giang 95% 48% 95% - 42% - 70% 4 Kiên Giang 98% 12% 100% - - 45% - 65% 5 Vĩnh Long 100% - - - 10,7% 76% 100% 21% 6 Trà Vinh - - - - (26- 30)% - 35% HT- TĐ 7 Cần Thơ 100% 100% - - 54,7%ĐX 100% 68% 8 Tiền Giang 100% - - - - 25% - 35% 9 Sóc Trăng 100% - - - 75,2% ĐX(20 11- 2012) 100% 39% 10 Bạc Liêu - - - - - 15% - (5-6)% 11/11 11 Hậu Giang - - - - 40% 60% 30% 12 Cà Mau >95% - - - (30- 35)% >90% (5-7)% 13 Bến Tre >90% 15% >95% - < 10% - - Nguồn:Báo cáo địa phương về CGH sản xuất lúa trong hội thi máy GĐLH thu hoạch lúa các tỉnh phía Nam năm 9/2010, 4/2011 và Hội nghị ” Giải pháp cho sấy lúa vụ Hè Thu ở ĐBSCL 23/03/2012”. Từ kết quả bảng 6 và bảng 7 cho thấy các khâu: làm đất, tưới tiêu và đập lúa của các tỉnh vùng ĐBSCL đều đạt trên 90% rất nhiều tỉnh đạt 100% . Đây là một nỗ lực rất lớn của của nhà nước và nhân dân trong vùng. Tuy nhiên, qua khảo sát một số nơi, phần lớn các máy làm đất là máy đã qua sử dụng. Khâu thu hoạch lúa bằng máy GĐLH đang tăng dần theo hàng năm tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai canh tác lúa của mỗi tỉnh từ 10% đến 76%. Đây là khâu tăng nhanh nhất trong quá trình CGH cây lúa ở ĐBSCL. Đa số các máy GĐLH đều là máy mới. Sau 4 năm máy GĐLH đã làm thay đổi nông thôn trong mùa thu hoạch lúa. Khâu sấy lúa Hè Thu trong vùng cũng tăng theo quá trình thu hoạch bằng máy GĐLH của mỗi địa phương. Những địa phương có điều kiện đất đai rộng lớn, số lượng máy GĐLH nhiều, sẽ có tỷ lệ sấy lúa khi thu hoạch hơn các nơi khác. Đa số các tỉnh có tỷ lệ sấy lúa Hè Thu từ 30% sản lượng lúa thu hoạch, các tỉnh có tỷ lệ sấy lúa Hè Thu cao nhất vùng như: Kiên Giang, Cần Thơ và An Giang từ 65% đến 70%. Khâu gieo sạ một vài tỉnh như An Giang, Đồng Tháp và Long An đã áp dụng phương pháp sạ hàng từ 48% đến 60% diện tích. Tỉnh Kiên Giang và Bến Tre từ 12% đến 15% diện tích. Khâu phun thuốc tỉnh Long An đạt 73% diện tích, Đồng Tháp và Kiên Giang cũng đạt diện tích khá lớn dựa trên số lượng máy có trong tỉnh. IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CGH HIỆU QUẢ TRONG SẢN XUẤT LÚA Ở ĐBSCL a. Hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông để đảm bảo tưới tiêu nước chủ động theo thời gian sinh trưởng của cây lúa. Tăng cường các trạm bơm đầu mối để giảm chi phí sản xuất. Giao thông nông thôn thuỷ, bộ phải thuận lợi cho máy di chuyển trong mùa vụ. Các cầu xây mới ở nông thôn cần lưu ý đảm bảo cho chẹt chở máy qua lại dễ dàng. 12/11 b. Bằng nhiều giải pháp để tăng kích thước lô thửa, tạo điều kiện cho các liên hợp máy (làm đất, phun thuốc, thu hoạch) hoạt động hiệu quả trên đồng. c. Cần san ủi để có mặt ruộng tương đối bằng phẳng làm giảm chi phí sản xuất (giảm giống, giảm chi phí bơm nước…) và tạo điều kiện tăng diện tích sạ hàng. Cần chọn giống lúa và qui trình canh tác để tránh lúa bị đổ ngã khi thu hoạch. d. Nên áp dụng cày ải vào sản xuất lúa, để tạo tầng canh tác cho bộ rễ lúa phát triển tốt, lúa đứng cây làm giảm thất thoát khi thu hoạch. e. Nguồn động lực trang bị cho CGH nông nghiệp cần trang bị các loại máy mới, để làm giảm chi phí nhiên liệu trong quá trình sử dụng. Hiện nay còn nhiều nông dân vẫn sử dụng máy đã quá cũ, máy đã qua sử dụng của các nước. Các loại máy này độ tin cậy trong sử dụng không cao hay hư hỏng, trong quá trình sử dụng làm ô nhiễm môi trường do dầu, nhớt rơi ra ngoài máy và chi phí nhiên liệu sẽ tăng hơn từ (0,5 – 1) lít nhiên liệu/ ha làm đất hoàn chỉnh. Nếu ước tính hiện nay sử dụng máy cũ để làm đất khoảng 2 triệu ha (1/2 diện tích lúa ĐBSCL). Như vậy, mỗi năm ĐBSCL sẽ mất số tiền tương đương 100 máy kéo 45 mã lực mới. Nếu số lượng máy cũ còn nhiều hơn thì mỗi năm sẽ mất nhiều hơn nữa. f. Cần tổ chức nhiều lớp tập huấn về bảo trì, sử dụng máy GĐLH ở một số địa phương, để những người vận hành máy biết cách điều chỉnh, các thông số cần thiết khi sử dụng, làm giảm tỷ lệ thất thoát hạt khi thu hoạch. Qua khảo sát sơ bộ ở Bạc Liêu, Cà Mau cho thấy hiện nay tỷ lệ thất thoát do máy GĐLH còn nhiều, do người điều khiển chưa chọn đúng chế độ làm việc của máy hoặc chạy theo năng suất, chạy quá nhanh. Nếu chọn đúng chế độ làm việc, mỗi ha có thể giảm thất thoát 20kg lúa. Số lượng máy GĐLH hiện nay khoảng 6.500 máy, trung bình mỗi máy thu hoạch 100ha/năm. Như vậy ước tính mỗi năm sẽ tiết kiệm được số tiền mua 100 máy GĐLH mới. g. Các TTKNKN chưa có kỹ sư Cơ khí Nông nghiệp cần gửi người đi tập huấn về CGH nông nghiệp để có thể chuyển giao các kỹ thuật mới về CGH nông nghiệp, đồng thời nên tuyển thêm nhân sự có chuyên môn về CGH để tư vấn về cơ giới trong các cánh đồng mẫu lớn. h. Các trung tâm dạy nghề nên có các lớp dạy về sử dụng, sửa chữa, an toàn lao động trong các máy phục vụ CGH nông nghiệp. Từng bước bổ sung lực lượng lao động trẻ, có chuyên môn vào công cuộc hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. i. Tiếp tục nâng cao tỷ lệ CGH cây lúa ở tất cả các khâu còn lại, đặc biệt là khâu: gieo cấy, bón phân và phun thuốc. 13/11 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ - Quá trình cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp đang diễn ra ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trình độ nguồn nhân lực đang thực hiện công việc cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp trong sử dụng máy, chế tạo máy và khuyến nông còn hạn chế, đa số chưa được đào tạo từ trường lớp chuyên về CGH nông nghiệp. Do đó cần có những lớp tập huấn về CGH cho các đối tượng có liên quan. - Các khâu làm đất, tưới tiêu, đập lúa ở ĐBSCL đã CGH đạt gần 100% diện tích. Các khâu còn lại mức độ CGH tăng dần theo thời gian, phụ thuộc vào điều kiện của mỗi địa phương. Riêng khâu làm đất cần trang bị các loại máy kéo mới. - Cần thực hiện 9 giải pháp đã đề xuất để CGH trong sản xuất lúa mang lại hiệu quả thiết thực cho ĐBSCL. - Đây là những vấn đề cần được các cơ quan chức năng quan tâm trong định hướng hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn vùng ĐBSCL trong tương lai. Tóm tắt Đã hơn 10 năm, Trường Cao đẳng Cơ điện và nông thôn Nam bộ, Khoa Công Nghệ Trường Đại học Cần Thơ không có người theo học Sử dụng máy và kỹ sư Cơ khí nông nghiệp. Những người vận hành khoảng 6.500 máy gặt đập liên hợp đều chưa qua đào tạo. Số lượng kỹ sư, cao đẳng, trung cấp và công nhân trong các cơ sở chế tạo máy gặt đập liên hợp tư nhân đều ít. Một số TTKNKN có nhân viên đạt trình độ kỹ sư về CGH. Đây là những vấn đề cần được các cơ quan chức năng quan tâm hơn, trong định hướng hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn vùng ĐBSCL trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf7nguyenvankhai_9864.pdf
Luận văn liên quan