Luận án Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay

Pháp luật hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam mới chỉ điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung mà chưa thừa nhận tính hợp lý của các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền, bao gồm các quy định liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh về giá bán hàng hóa, dịch vụ trong hệ thống nhượng quyền; thỏa thuận về phân chia lãnh thổ; các hành vi áp đặt giá bán; ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; buộc bên nhận quyền phải chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan đến hợp đồng. Nội dung luận án chỉ rõ, các hành vi này thường xuyên xuất hiện trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền, cần thiết phải tồn tại trong một chừng mực nhất định nhằm bảo vệ tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam không có bất cứ một quy định mang tính ngoại lệ nào cho hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động thương mại khá đặc thù này

pdf154 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như nhu cầu tăng sức mạnh thị trường, chiếm lĩnh được nhiều thị phần. Mặc dù về mặt hình thức, với sự 121 đồng bộ tương đối trong hệ thống nhượng quyền, hoạt động nhượng quyền thương mại làm cho chúng ta nhận thức dường như không tồn tại yếu tố cạnh tranh trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, về mặt bản chất, với sự độc lập về tư cách pháp lý và tài chính, sự cùng nhau kinh doanh chung một sản phẩm với cách thức kinh doanh, dấu hiệu nhận biết thương nhân như nhau lại làm cho các bên có xu hướng cạnh tranh mạnh mẽ hơn với các bên trong hệ thống. Chính vì vậy, nhận thức đúng sự tồn tại một cách khách quan, tất yếu của hành vi cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền giúp chúng ta xác định được chính xác hành vi cạnh tranh cũng như có những quy phạm pháp luật điều chỉnh hài hòa các khía cạnh của quan hệ nhằm kiểm soát những hành vi cạnh tranh có khả năng xâm phạm đến lợi ích cạnh tranh trên thị trường. 4.1.2. Hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền trên cơ sở ghi nhận những ngoại lệ hợp lý của pháp luật cạnh tranh theo hướng phù hợp với bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại Hoạt động nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh được thiết lập giữa các bên độc lập nhau về tài chính và pháp lý nhưng lại thể hiện ra bên ngoài như một sự liên kết chặt chẽ về mặt tổ chức. Vì vậy, dưới góc nhìn của người tiêu dùng, bên nhận quyền giống như một chi nhánh hoặc một công ty con của bên nhượng quyền, mặc dù, về mặt bản chất, các bên không hề có quan hệ về mặt sở hữu. Sở dĩ có hiện tượng này là do, khi kinh doanh nhượng quyền, bên nhượng quyền phải chuyển giao toàn bộ phương thức kinh doanh dưới dạng một tập hợp các yếu tố gắn liền với nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật và các yếu tố trí tuệ khác cho bên nhận quyền, theo đó, họ cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, cùng sử dụng một phương thức kinh doanh thống nhất. Với việc chuyển giao toàn bộ phương thức kinh doanh gắn liền với nhãn hiệu và bí quyết kỹ thuật như trên, hoạt động nhượng quyền thương 122 mại có thể khiến cho bên nhượng quyền đứng trước rủi ro có khả năng bị mất uy tín thương hiệu nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với bên nhận quyền. Để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cũng như nhằm tăng mức độ thành công của phương thức kinh doanh nhượng quyền, bên nhượng quyền thường buộc bên nhận quyền phải chấp nhận những hạn chế cạnh tranh nhất định như giới hạn về địa điểm kinh doanh, hạn chế về giá, buộc bên nhận quyền phải mua các nguyên vật liệu đầu vào từ bên nhượng quyền hay bên thứ ba được chỉ định Bên cạnh đó, để cân bằng lại vị thế của mình và như một sự bù đắp với những ràng buộc của bên nhượng quyền, bên nhận quyền thường yêu cầu bên nhượng quyền phải chuyển giao quyền thương mại độc quyền cho mình trong một khu vực địa lý nhất định. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại, các bên trong quan hệ thường đối mặt với khả năng xâm phạm pháp luật cạnh tranh, trong khi thực tế cho thấy, nếu không thực hiện những hành vi này, hoạt động nhượng quyền thương mại khó mà tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào, lợi ích nào cần được ưu tiên bảo vệ. Đây chính là những vấn đề then chốt cần được giải quyết dưới khía cạnh pháp lý. Do đó, việc điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại phải giải quyết được ít nhất các vấn đề sau đây: (i) Giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên có liên quan trong quan hệ nhượng quyền thương mại, cụ thể là lợi ích giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền; giữa các bên nhượng quyền, bên nhận quyền (hệ thống nhượng quyền) đối với đối thủ cạnh tranh người tiêu dùng; giữa các bên trong hoạt động nhượng quyền với nhà nước và (ii) đảm bảo sự phát triển của hoạt động nhượng quyền theo đúng bản chất vốn có của nó và (iii) việc điều chỉnh quan hệ nội bộ trong quan hệ nhượng quyền thương mại phải được đặt trong quan hệ cạnh tranh, đảm bảo những ngoại lệ đối với hành 123 vi cạnh tranh giữa các bên trong nội bộ quan hệ nhượng quyền không được xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích mà pháp luật cạnh tranh bảo vệ. Cần phải xác định rằng, khi điều chỉnh vấn đề này, mục tiêu lớn nhất của nhà nước là làm thế nào để điều hòa lợi ích của các bên (trong đó có lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước) đồng thời vẫn phát triển quan hệ nhượng quyền thương mại. Do vậy, cần thiết phải điều chỉnh hoạt động nhượng quyền một cách hợp lý, đảm bảo nhượng quyền thương mại được phát triển theo đúng bản chất vốn có nhưng vẫn không xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, người tiêu dùng cũng như lợi ích nhà nước. Hay nói cách khác, cần thiết phải xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật đảm bảo hoạt động nhượng quyền thương mại được tồn tại và phát triển trong khi vẫn hài hòa lợi ích của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, cần thiết phải có những ngoại lệ phù hợp để điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng, không phải mọi quy định của pháp luật đều bất di bất dịch hay trường tồn mãi mãi, tương tự như vậy, thời hạn tồn tại của các ngoại lệ này còn phụ thuộc vào nhu cầu phát triển của nền kinh tế, chính sách kinh tế của Việt Nam trong mỗi một giai đoạn khác nhau cũng như nhu cầu thực tế cũng như sự sáng tạo của các thương nhân trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi này không đơn giản do hoạt động này thường tạo ra những xung đột về lợi ích giữa các chủ thể, điều đó dẫn tới những xu hướng hành vi khác nhau của các bên liên quan trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Cũng vì lý do này mà các bên thường có quan điểm khác nhau về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền. Cụ thể: (1) Đối với bên nhượng quyền, xuất phát từ nhu cầu đảm bảo tính đồng bộ cũng như bảo vệ quyền thương mại mà bên nhượng quyền đã chuyển giao cho bên nhận quyền, pháp luật điều chỉnh hoạt động 124 nhượng quyền cần thiết phải ghi nhận theo hướng cho phép bên nhượng quyền được thực hiện một số hành vi hạn chế cạnh tranh khi những hành vi này là cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng của bên nhượng quyền và cả hệ thống nhượng quyền thương mại; (2) Đối với bên nhận quyền, khi đã chấp nhận bỏ ra một số tiền rất lớn để gia nhập hệ thống nhượng quyền, kinh doanh chung một sản phẩm theo một phương thức duy nhất mà bên nhượng quyền đã xây dựng thì việc yêu cầu bên nhượng quyền phải cam kết không cạnh tranh trong một khu vực địa lý nhất định là một yêu cầu hợp lý. Có như vậy, các bên mới chấp nhận một “sân chơi” tuy hiệu quả nhưng cũng không ít rủi ro như hoạt động nhượng quyền; (3) Đối với các đối thủ cạnh tranh của các bên trong hệ thống nhượng quyền, do khả năng phải chịu ảnh hưởng từ các hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền, họ có đầy đủ căn cứ để cho rằng, pháp luật cần kiểm soát chặt chẽ các hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền nhằm tránh trường hợp các bên trong quan hệ nhượng quyền cấu kết với nhau cùng hành động hoặc lạm dụng vị thế thị trường của mình để gây ra những hạn chế cạnh tranh trên thị trường, đe dọa sự tồn tại và phát triển của các đối thủ cạnh tranh hoặc làm mất cơ hội gia nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại là luôn hướng tới việc đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền mà các bên thường có những hành vi hạn chế cạnh tranh thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Thiếu tính đồng bộ, hệ thống nhượng quyền có khả năng đối mặt với sự sụp đổ của cả hệ thống, vì vậy, nếu không thừa nhận hành vi hạn chế cạnh tranh trong một chừng mực nhất định, rất có thể hoạt động nhượng quyền thương mại khó mà tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam đang khan hiếm tư bản và chưa phải là nền kinh tế thị trường thực sự như hiện nay, cũng cần phải nhận thức rằng, đây là phương thức kinh doanh đã tồn 125 tại và phát triển rất rộng lớn ở các nước khác trên thế giới. Bản thân văn hóa tiêu dùng của người dân Việt Nam cũng rất phù hợp phương thức kinh doanh này. Minh chứng cụ thể cho vấn đề này đó là sự du nhập nhanh chóng của hoạt động nhượng quyền thương mại ở các nhãn hiệu khác nhau vào Việt Nam trong thời gian qua, thậm chí, một số phương thức kinh doanh được “chế biến” dựa trên phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại cũng nhanh chóng hòa nhập và tồn tại rất rộng rãi trong nền kinh tế Việt Nam như Nước mía siêu sạch, bánh mỳ Donna Kerbap, bánh mỳ Zoka, nước hoa quả tươi Vu Canu, Phở 10 Lý Quốc Sư Do đó, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại cần phải tiếp cận theo hướng ghi nhận những ngoại lệ hợp lý của pháp luật cạnh tranh nhằm phù hợp với bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại, từ đó khuyến khích hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển ổn định và bền vững. 4.1.3. Hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền thương mại (Luật Thương mại) với pháp luật cạnh tranh Mối quan hệ giữa pháp luật nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh cũng như sự cần thiết phải đảm bảo sự tương thích giữa hai Luật này thể hiện chủ yếu dưới hai khía cạnh: Một là, xuất phát từ tính chất và mục tiêu điều chỉnh giữa hai hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hai hoạt động này. Hai là, pháp luật cạnh tranh hướng tới điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Xuất phát từ việc hành vi hạn chế cạnh tranh thường tồn tại tất yếu trong hoạt động nhượng quyền, do vậy, nếu pháp luật cạnh tranh không điều chỉnh thì các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền có khả năng làm sai lệch cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, hai Luật này cần phải có sự tương thích để đảm 126 bảo sự điều chỉnh hợp lý, khả thi, từ đó, đảm bảo sự điều chỉnh hiệu quả đối với hoạt động nhượng quyền thương mại. Cụ thể: (1) Về tính chất và mục tiêu điều chỉnh của Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh: Về nguyên tắc, tất cả các Luật đều được xây dựng dựa trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, sẽ có một số Luật thuộc hệ “mở đường”, một số Luật thuộc hệ “cản trở”, “hạn chế”. Theo đó, pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại là pháp luật mang tính chất “mở đường”, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại, mà ở đó, các bên có quyền và nghĩa vụ pháp lý công bằng và bình đẳng với nhau. Pháp luật nhượng quyền thương mại tạo điều kiện để các thương nhân tham gia các hoạt động thương mại và tìm kiếm lợi nhuận, trong đó, ghi nhận quyền cơ bản theo bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại đưa ra, đó là tính đồng nhất trong hệ thống nhượng quyền. Trong khi đó, pháp luật cạnh tranh lại là pháp luật mang tính chất “cản trở” hoạt động nhượng quyền thương mại, chỉ ra ranh giới mà tại đó các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nhượng quyền thương mại được làm, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, không xâm hại đến lợi ích của chủ thể khác, thông qua đó đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Như vậy, nếu như Luật Thương mại trao cho các chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại quyền tự do kinh doanh, thì Luật Cạnh tranh lại điều tiết quyền tự do kinh doanh ấy trong một khuôn khổ nhất định nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, chỉ ra sự tự do cạnh tranh phải trong khuôn khổ của pháp luật Tóm lại, cùng là điều chỉnh một vấn đề là các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhượng quyền thương mại nói riêng, quan hệ giữa hai Luật này thể hiện ở chỗ Luật Thương mại là luật “mở đường” cho hoạt động nhượng quyền thương mại, trong khi đó Luật Cạnh tranh là Luật “cản trở”, 127 đưa ra ranh giới cho hoạt động nhượng quyền thương mại được hoạt động. Vì vậy, về cơ bản, tất nhiên là về hình thức hai Luật này sẽ có những sự bất đồng về tư tưởng. Tuy nhiên, cho dù là “mở đường” hay “cản trở”, các Luật này vẫn phải đạt được sự tương thích, thể hiện ở chỗ, việc mở đường của luật này không vượt quá phạm vi cản trở của luật kia hoặc ngược lại là việc cản trở của luật kia không vượt quá việc mở đường của Luật này. Có như vậy, hoạt động nhượng quyền thương mại mới phát triển. Sự cản trở hay mở đường có tương thích với nhau hay không chỉ đặt ra đối với hành vi thương mại nào phải chịu sự điều chỉnh của cả Luật Cạnh tranh và Luật Thương mại. Hầu hết các hành vi thương mại, kể cả hành vi đơn giản nhất là hành vi lập hội (thành lập doanh nghiệp) cũng bị điều chỉnh bởi hai Luật này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, nếu sự điều chỉnh của hai luật này thiếu sự hài hòa, phù hợp sẽ làm thay đổi bản chất của hành vi, đó chính là trường hợp của nhượng quyền thương mại. (2) Xuất phát từ việc hành vi hạn chế cạnh tranh thường tồn tại tất yếu trong hoạt động nhượng quyền và cần thiết phải được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh nhằm bảo đảm lợi ích cạnh tranh trên thị trường. Một trong các vấn đề đặt ra khi điều tiết hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại là ở chỗ, trong khi, Luật Thương mại ghi nhận bản chất tự do kinh doanh, tự do thiết lập các hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa các bên, đặc biệt tính hệ thống, tính đồng bộ là một trong những đặc thù của hoạt động nhượng quyền thương mại, chính vì đặc thù này mà các bên trong quan hệ nhượng quyền thường có xu hướng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, sự tồn tại và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ gặp cản trở nếu pháp luật không thừa nhận trong một phạm vi nhất định những hành vi đó của các bên. Căn nguyên của vấn đề này là do trong quan hệ nhượng quyền thương mại bên nhượng quyền luôn mong muốn kiểm soát bên nhận quyền nhằm loại 128 bỏ nguy cơ bị mất quyền thương mại và đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Ngược lại, về phía bên nhận quyền, với mong muốn đảm bảo tỷ lệ thành công cao thông qua việc độc quyền lãnh thổ sau khi đã bỏ ra một khoản chi phí khá lớn để được kinh doanh dưới quyền thương mại của một thương nhân khác. Chính vì vậy, xu hướng hạn chế cạnh tranh của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại là tất yếu, điều này đặt các bên vào tình thế đối mặt với khả năng vi phạm pháp luật cạnh tranh khi thực hiện hành vi theo đúng bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại mà Luật Thương mại điều chỉnh. Điều đó cho thấy ranh giới điều chỉnh giữa hai luật là khá mỏng, chính vì vậy, nếu pháp luật không điều chỉnh một cách hài hòa, phù hợp trong việc kiểm soát hành vi có khả năng gây cản trở cạnh tranh thì hiệu quả kinh tế xã hội của pháp luật hạn chế cạnh tranh hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ không cao. Có thể khẳng định, pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ tất yếu, không thể tách rời, mặc dù về mặt hình thức, hai lĩnh vực pháp luật này lại có tính chất gần như trái ngược nhau, một lĩnh vực mang tính chất khuyến khích sự tự do pháp triển của hoạt động nhượng quyền thương mại (Luật Thương mại), một lĩnh vực thì lại theo chiều hướng “cản trở” sự phát triển đó (Luật Cạnh tranh). Tuy nhiên, cho dù là “mở đường” hay “cản trở”, các luật này vẫn phải đạt được sự tương thích, đồng bộ, thể hiện ở chỗ, việc mở đường của luật này không vượt quá phạm vi cản trở của luật kia hoặc ngược lại, việc cản trở của luật kia không triệt tiêu việc mở đường của luật này, có như vậy, hoạt động nhượng quyền thương mại mới phát triển. Do vậy cần phải có sự điều chỉnh thống nhất và hợp lý thông qua đó, vừa đảm bảo sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại, lại vừa đảm bảo lợi ích cạnh tranh trên thị trường. 4.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại ở Việt Nam 129 Trên cơ sở phân tích của luận án cũng như tính chất của pháp luật hạn chế cạnh tranh, tính chất của pháp luật về nhượng quyền thương thương mại và mối quan hệ giữa hai lĩnh vực luật này tại Mục 4.1.3 của luận án, việc bổ sung sửa đổi các quy phạm nhằm điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại phải được xử lý bởi pháp luật cạnh tranh. Với cách tiếp cận như vậy, những đề xuất dưới đây đều hướng tới việc sửa đổi bổ sung pháp luật cạnh tranh theo một trong hai phương án: (1) Bổ sung thêm điều khoản trong Luật Cạnh tranh “hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại kết hợp với một số hoạt động đặc thù khác (như đại lý thương mại) sẽ được Chính phủ hướng dẫn cụ thể”. Theo đó, những đề xuất sửa đổi, bổ sung của luận án được trình bày tại Mục 4.2 sẽ được quy định trong văn bản do Chính phủ ban hành; hoặc (2) Bổ sung các điều khoản với tính chất là ngoại lệ cần áp dụng đối với hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại trong chính Luật Cạnh tranh. Cụ thể: 4.2.1. Đối với thỏa thuận về giá bán hàng hóa, dịch vụ Có thể nói, trong các hành vi hạn chế cạnh tranh về giá, thỏa thuận ấn định mức giá bán có ảnh hưởng rộng lớn hơn nhiều so với các hành vi ấn định giá bán gây thiệt hại cho khách hàng và hành vi ấn định mức giá bán lại tối thiểu. Bởi lẽ, đối tượng bị thiệt hại trực tiếp trong trường hợp này không chỉ là người tiêu dùng mà còn có thể là các đối thủ cạnh tranh của bên nhượng quyền và bên nhận quyền tham gia thỏa thuận cũng như đối thủ cạnh tranh của cả hệ thống nhượng quyền. Bởi vậy, quy định mang tính nguyên tắc của Luật Cạnh tranh 2004 hiện nay là cấm mọi hành vi thỏa thuận ấn định giá bán dù được thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp nếu các bên trong thỏa thuận đạt ngưỡng thị phần kết hợp từ 30% trên thị trường liên quan trở lên. Bên cạnh đó, 130 trong trường hợp mức giá thỏa thuận giữa hai bên đạt đến mức đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan hoặc không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh, phải rút lui khỏi thị trường liên quan. Nghĩa là, trong trường hợp này các bên thỏa thuận ấn định đến mức giá “hủy diệt” nhằm không cho đối thủ cạnh tranh tham gia hoặc tồn tại trên thị trường liên quan thì sẽ bị cấm không phụ thuộc vào thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận là bao nhiêu. Tuy nhiên, xét trên bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, Luật Cạnh tranh cần bổ sung thêm ngoại lệ theo hướng cho phép các bên thỏa thuận ấn định giá nếu việc áp dụng một mức giá thống nhất là một trong những yếu tố nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Đặc biệt, việc thỏa thuận ấn định về giá trong trong hệ thống nhượng quyền đồng giá phải được xem xét áp dụng ngoại lệ trong mọi trường hợp. Cụ thể, khi điều chỉnh hành vi này nên tính đến các yếu tố khác nhau như mục đích thực hiện hành vi, hậu quả tác động của hành vi, biểu hiện của hành vi cũng như thời điểm hình thành hành vi để có hướng xử lý thích hợp theo hướng sau đây: Đối với hành vi ấn định giá bán hàng hóa dịch vụ: Theo quan điểm của tác giả, do việc thống nhất về giá trong hoạt động nhượng quyền thương mại là cần thiết, xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền. Vì vậy, nên cho hưởng ngoại lệ theo hướng cho phép những thỏa thuận ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ nếu các bên chứng minh được việc thống nhất về giá là cần thiết để duy trì tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền (chẳng hạn việc thống nhất về giá trong hệ thống nhượng quyền đồng giá hoặc sự thống nhất về giá là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết thương nhân trong hệ thống nhượng quyền v.v). Việc quy định ngoại lệ cho hành vi thỏa thuận ấn định giá bán cũng không gây ra hậu quả phản cạnh tranh quá nghiêm trọng trong hoạt động nhượng quyền thương mại. 131 Bởi lẽ, hành vi thống nhất ấn định giá bán cao của các bên trong hệ thống nhượng quyền cũng sẽ đứng trước trở ngại gia tăng cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống. Vì vậy, mặc dù gây hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, giữa các bên nhận quyền với nhau) nhưng lại tạo ra môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn giữa các hệ thống nhượng quyền thương mại với nhau cũng như các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống nhượng quyền trên thị trường liên quan. Chính vì vậy, bản thân các bên khi thỏa thỏa thuận ấn định giá bán cũng sẽ tự điều tiết về giá nhằm đạt kết quả cạnh tranh tối ưu trên thị trường. Đối với hành vi thỏa thuận giá bán gây hậu quả ngăn cản khả năng cạnh tranh, gia nhập thị trường của các chủ thể cạnh tranh khác ngoài hệ thống thì xử lý theo nguyên tắc của pháp luật cạnh tranh nói chung do các hành vi này không xuất phát từ yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ, bảo vệ uy tín, thương hiệu của hệ thống nhượng quyền. 4.2.2. Đối với thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ Hành vi thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền là hành vi có tác động trực tiếp lên các đối thủ cạnh tranh của các bên trong thỏa thuận vì vậy mức độ ảnh hưởng thường theo chiều ngang và tương đối rộng trên thị trường liên quan. Vì vậy, cần phải có cơ chế kiểm soát một cách chặt chẽ hành vi này. Tuy nhiên, khi điều chỉnh cũng cần phải tính đến yếu tố lợi ích của bên nhận quyền sau khi đã bỏ ra một khoản phí nhượng quyền tương đối lớn để được kinh doanh dưới phương thức kinh doanh được đánh giá là khá an toàn này. Nếu bên nhượng quyền vừa thu tiền phí nhượng quyền của bên nhận quyền vừa tiếp tục nhượng quyền cho một bên nhận quyền khác trong một khu vực địa lý nhất định sẽ làm cho các bên nhận quyền đứng trước tình thế phải cạnh tranh khốc liệt với các bên nhận quyền khác trong hệ 132 thống, thậm chí với chính bên nhượng quyền. Có thể nói, đây chính là điều mà các bên nhận quyền cân nhắc trước khi ký hợp đồng nhượng quyền bởi khả năng phải gánh chịu những rủi ro từ chính hành vi cạnh tranh của bên nhượng quyền cũng như các bên nhận quyền khác trong khu vực nhượng quyền. Điều này có thể làm cho hoạt động nhượng quyền khó phát triển do các thương nhân cân nhắc việc lựa chọn kinh doanh theo phương thức nhượng quyền. Vì vậy, khi điều chỉnh hành vi này, pháp luật cạnh tranh cần tham khảo kinh nghiệm của Châu Âu và Mỹ. Theo đó, Luật Cạnh tranh cần bổ sung những quy định trên nguyên tắc xem xét đến bản chất của quan hệ nhượng quyền, theo hướng, bên cạnh việc cấm thực hiện hành vi này trong Luật Cạnh tranh như hiện nay, nên bổ sung thêm những nội dung sau: (1) Bổ sung trường hợp ngoại lệ cho phép các bên thỏa thuận hạn chế bên nhận quyền chủ động bán hàng ở các khu vực khác ngoài phạm vi lãnh thổ nhượng quyền nếu đạt một số điều kiện như: (i) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng vào một lãnh thổ nhất định chỉ được áp dụng đối với lãnh thổ độc quyền dành riêng cho bên nhượng quyền hoặc được phân chia cho một bên nhận quyền. Với điều kiện này, việc hạn chế cạnh tranh chỉ có giá trị và ảnh hưởng đến cạnh tranh trong nội bộ phạm vi hệ thống nhượng quyền mà không gây hạn chế cạnh tranh đối với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống nhượng quyền. (ii) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng này phải được đồng thời áp đặt lên bên nhượng quyền và các bên nhận quyền còn lại và các bên nhận quyền thứ cấp trong phạm vi lãnh thổ nhượng quyền. Với điều kiện này, việc hạn chế cạnh tranh chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ hệ thống nhượng quyền như đã phân tích ở điều kiện (i) mới được đảm bảo một cách triệt để. Tránh trường hợp các bên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ được nhượng quyền, thông qua đó, ảnh hưởng đến 133 cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như khu vực nằm ngoài phạm vi hoạt động của hệ thống nhượng quyền. (iii) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng này không ngăn cản việc bán lại hàng hóa của các bên mua hàng của bên nhận quyền. Với điều kiện này, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hưởng ngoại lệ trong phạm vi hoạt động nhượng quyền, diễn ra giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền, do bản chất của hoạt động nhượng quyền cần thiết phải ghi nhận. Do đó, tất cả các thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm được cung cấp bởi hệ thống nhượng quyền có hậu quả cản trở cạnh tranh vượt ra khỏi quan hệ nhượng quyền thương mại (quan hệ giữa bên mua hàng của nhận quyền với khách hàng của họ) đều không được hưởng ngoại lệ như đã nêu trên. (2) Bổ sung quy định không cho phép các thỏa thuận nhằm hạn chế việc bán hàng thụ động của các bên trong hệ thống nhượng quyền cho khách hàng ngoài phạm vi lãnh thổ được nhượng quyền. Nội dung của điều kiện này hướng tới việc chấp nhận các thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ chỉ được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ nhượng quyền và dưới khía cạnh phân chia khu vực địa lý và chỉ có ý nghĩa đối với các bên trong hệ thống nhượng quyền. Tất cả những hạn chế cạnh tranh phát sinh từ hoặc ảnh hưởng đến quyền lựa chọn sản phẩm của các khách hàng ngoài khu vực địa lý đã phân chia cho các bên đều không được chấp nhận. Quy định này nhằm mục đích chỉ chấp nhận ngoại lệ trong một chừng mực hợp lý, phù hợp với bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại và giới hạn sự tác động của thỏa thuận phân chia lãnh thổ trong hệ thống nhượng quyền không ảnh hưởng quá sâu rộng đến cạnh tranh trên thị trường. 4.2.3. Đối với hành vi áp đặt giá bán gây thiệt hại cho bên nhận quyền Có thể nói, hành vi áp đặt giá bán gây thiệt hại cho bên nhận quyền là hành vi có tác động ngay lập tức và trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi 134 của bên nhận quyền, đặc biệt là trong hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm khi mà bên nhận quyền mua hàng hóa từ bên nhượng quyền để bán lại dưới cách thức kinh doanh của bên nhượng quyền. Trong trường hợp này, bên nhận quyền hầu như không có sự lựa chọn nhà phân phối nào khác ngoài bên nhượng quyền. Đối với các hình thức nhượng quyền thương mại khác như nhượng quyền sản xuất, hành vi áp đặt giá bán cũng có thể gây thiệt hại cho bên nhận quyền, đặc biệt nếu kết hợp với các «ràng buộc bán kèm», theo đó, bên nhượng quyền yêu cầu bên nhận quyền phải mua hàng hóa hoặc dịch vụ do chính bên nhượng quyền cung cấp. Chính vì vậy, trong hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền gần như giữ vị thế «độc quyền» trong quan hệ với bên nhận quyền, do vậy, khả năng áp đặt giá bán hàng hóa cao hơn một cách bất hợp lý của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền là rất lớn. Để hạn chế hành vi này một cách hiệu quả, pháp luật cạnh tranh cần quy định theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn đối với bên nhượng quyền trong việc thực hiện hành vi này so với quy định hiện nay tại Luật Cạnh tranh 2004. Cụ thể, pháp luật cạnh tranh cần phải bổ sung thêm ngoại lệ theo hướng, cấm hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ của bên nhượng quyền gây thiệt hại cho bên nhận quyền nếu chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu quy định hiện nay tại Khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP mà không phụ thuộc vào thị phần của bên nhượng quyền có đạt đến 30% trên thị trường liên quan hay không. Nghĩa là, trong trường hợp này, điều kiện về thị phần của bên nhượng quyền nên được loại bỏ khi xác định hành vi áp đặt giá bán gây thiệt hại cho bên nhận quyền. 4.2.4. Đối với hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu Hành vi ấn định giá bán lại hoặc giá bán lại tối thiểu của bên nhượng quyền có tác động trực tiếp lên sự hình thành về giá trong hệ thống nhượng quyền. Hành vi này trong một chừng mực nhất định đã làm giảm bớt năng 135 lực cạnh tranh của bên nhận quyền trong mối quan hệ với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài hệ thống nhượng quyền; làm mất cơ hội được lựa chọn sản phẩm với giá hợp lý của khách hàng trong điều kiện tồn tại cạnh tranh trên thị trường. Bởi vậy, cần phải được kiểm soát một cách nghiêm ngặt. Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, khi điều chỉnh hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu trong hoạt động nhượng quyền, cần cân nhắc đến vấn đề ngoài việc giữ nguyên quy định hiện nay tại Khoản 2, Điều 13 và Khoản 1, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2004 theo hướng cấm bên nhượng quyền có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị thế độc quyền thực hiện hành vi ấn định giá bán hoặc ấn định giá bán tối thiểu thì Luật Cạnh tranh cần bổ sung một số vấn đề sau đây: Một là, bổ sung quy định theo hướng cấm các tham chiếu về giá của bên nhượng quyền khi hành vi này được thực hiện kết hợp với các biện pháp gián tiếp nhằm hướng bên nhận quyền áp dụng một mức giá thống nhất trong hệ thống, nếu giá sản phẩm không phải là yếu tố ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Cụ thể, các biện pháp gián tiếp đề cập trong trường hợp này có thể được biểu hiện dưới hình thức (i) gợi ý sẽ dành cho bên nhận quyền một đặc quyền hoặc một lợi thế thương mại nào đó nếu tuân thủ mức giá mà bên nhượng quyền khuyến cáo (ví dụ: cam kết mức độ chiết khấu tối đa đối với bên nhận quyền) hoặc (ii) những đe dọa, cảnh cáo, trì hoãn, đình chỉ việc giao hàng, chấm dứt hợp đồng nếu bên nhận quyền không tuân thủ mức giá tham chiếu. Trong trường hợp này, nếu giá sản phẩm không phải là yếu tố quyết định tính đồng bộ của hệ thống (chẳng hạn trong hệ thống nhượng quyền hàng đồng giá) thì cần quy định theo hướng cấm thực hiện. Hai là, cho phép bên nhượng quyền đưa ra giá tham chiếu nếu không kết hợp với những nỗ lực tích cực của bên nhượng quyền nhằm đạt 136 được sự thống nhất về giá, kể cả trong trường hợp sự tham chiếu về giá này có dẫn tới việc tự nguyện lựa chọn áp dụng một cách vô điều kiện của bên nhận quyền. Cụ thể, việc bên nhận quyền tự nguyện sử dụng mức giá tham chiếu được đưa ra bởi bên nhượng quyền phải được coi là hợp pháp nếu bên nhượng quyền không có bất kỳ một cam kết mang lại lợi ích đặc biệt nào hoặc đe dọa thực hiện một hành vi gây bất lợi cho bên nhận quyền nếu bên nhận quyền không tuân thủ khuyến cáo về giá của bên nhượng quyền. Ba là, xem xét quy định bổ sung ngoại lệ theo hướng, cho phép bên nhượng quyền được ấn định giá bán lại hoặc giá bán lại tối thiểu đối với trường hợp giá sản phẩm là yếu tố ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Nghĩa là, việc ấn định về giá bán lại trong trường hợp này là nhằm đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, kể cả khi bên nhượng quyền đạt vị thế thống lĩnh thị trường hay vị thế độc quyền. Bốn là, cần cân nhắc đến trường hợp ấn định giá bán ở hệ thống nhượng quyền hàng đồng giá. Trong trường hợp này, giá sản phẩm lại chính là một trong những yếu tố thuộc đối tượng nhượng quyền. Ở khía cạnh này, Luật Cạnh tranh chỉ nên điều chỉnh ở mức độ can thiệp về khoảng giá giữa các sản phẩm, quy định về mức giá sản phẩm tối đa và tối thiểu cũng như tỷ lệ cách biệt về giá giữa các sản phẩm khác nhau Cũng có thể xem xét ban hành một quy định riêng về giá trong trường hợp nhượng quyền thương mại của hệ thống hàng đồng giá. 4.2.5. Đối với hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (ràng buộc bán kèm) Hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (chỉ định nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho bên nhận quyền hay còn gọi là “ràng buộc bán kèm”) là hành vi thường được bên nhượng quyền sử dụng để kiểm soát chất lượng hàng hóa, dịch vụ được cung ứng bởi bên nhận quyền, qua đó bảo vệ tính đồng bộ, vị thế, danh tiếng, hình ảnh của hệ thống nhượng quyền. Một mặt, hành vi này 137 giúp bên nhượng quyền kiểm soát được chất lượng sản phẩm được cung cấp bởi bên nhận quyền, thông qua đó, đảm bảo sự đồng nhất về chất lượng sản phẩm trong hệ thống. Mặt khác, hành vi này tác động trực tiếp đến quyền tự do lựa chọn nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ của bên nhận quyền trong quá trình kinh doanh, hệ quả là, gián tiếp gây hạn chế cạnh tranh đến thị trường của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được chỉ định nguồn cung cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của hệ thống nhượng quyền, sự đồng bộ về chất lượng sản phẩm giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống nhượng quyền, khi điều chỉnh hành vi này, pháp luật cạnh tranh cần cân nhắc bổ sung thêm trường hợp ngoại lệ đối với hành vi này khi xem xét có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không. Cụ thể, để nâng cao hiệu quả của Luật Cạnh tranh cũng như thúc đẩy hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển theo đúng bản chất vốn có, pháp luật cạnh tranh Việt Nam, ngoài việc giữ nguyên quy định cấm hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nếu bên nhượng quyền đạt vị thế thống lĩnh hoặc vị thế độc quyền như quy định tại Khoản 5, Điều 13, Luật Cạnh tranh như hiện nay, cần nghiên cứu quan điểm điều chỉnh của EU và Mỹ theo hướng mềm dẻo hơn, quan tâm đến đặc tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Việc điều chỉnh nên sửa đổi, bổ sung theo hướng sau đây: Một là, cho phép bên nhượng quyền được chỉ định nguồn cung cấp hàng hóa/nguyên vật liệu không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (Ràng buộc bán kèm) khi đạt đủ điều kiện sau: (i) Hành vi “ràng buộc bán kèm” nhằm mục đích đảm bảo tính đồng bộ, uy tín của hệ thống nhượng quyền. Nghĩa là, trong trường hợp này, dù bên nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh hoặc vị thế độc quyền trên thị trường thì cũng không bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh. (ii) Hành vi “ràng buộc bán kèm” này không ngăn cản bên nhận 138 quyền mua hàng hoá tương tự từ các bên nhận quyền khác trong hệ thống. Bởi lẽ, trong quan hệ nhượng quyền, hàng hóa, dịch vụ do các bên nhận quyền cung cấp có chất lượng đồng nhất với hàng hóa, dịch vụ của bên nhượng quyền. Hai là, giải thích rõ nội hàm của khái niệm: (1) “hàng hóa, dịch vụ liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại”; (2) “hàng hóa, dịch vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại”, và (3) “hàng hóa, dịch vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại”. Việc xác định đúng nội hàm của khái niệm này sẽ giúp các bên xác định được phạm vi hàng hóa, dịch vụ mà bên nhượng quyền được phép buộc bên nhận quyền phải mua từ một nguồn cung cấp nhất định. Nếu kết hợp việc giải thích khái niệm này với quy định về điều kiện hưởng miễn trừ như trình bày ở trên, sẽ giúp cho các bên cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuận lợi trong việc xử lý các hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm các khái niệm trên là không đơn giản, cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo, bởi lẽ, đối tượng của hợp đồng nhượng quyền không phải là một loại sản phẩm hữu hình mà là quyền được kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ đó theo một phương thức chung được quy định bởi bên nhượng quyền, khi mà chất lượng hình thức của sản phẩm cung cấp cấu thành nên đặc trưng của đối tượng mà hợp đồng nhượng quyền chuyển giao. KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 Trên cơ sở kết quả nghiên cứu được rút ra từ chương 1 đến chương 4 cho thấy việc hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động 139 nhượng quyền thương mại là yêu cầu khách quan, tất yếu. Quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại phải dựa trên những quan điểm đảm bảo tính khoa học, tính minh bạch, thống nhất và khả thi. Cụ thể, có thể có một số kết luận như sau: Một là, việc hoàn thiện pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại cần bảo đảm ghi nhận đầy đủ bản chất thương mại của hoạt động nhượng quyền thương mại, từ đó ghi nhận những ngoại lệ hợp lý của pháp luật cạnh tranh theo hướng phù hợp với bản chất thương mại của hoạt động nhượng quyền và đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật trực tiếp điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại với pháp luật cạnh tranh. Hai là, đối với việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh cụ thể trong quan hệ nhượng quyền thương mại cần tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và Liên minh Châu Âu, đồng thời đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam. Cụ thể: Đối với hành vi thỏa thuận về giá bán: cần phải được xem xét trên cơ sở bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, theo đó, pháp luật cần bổ sung thêm những ngoại lệ theo hướng cho phép các bên thỏa thuận ấn định giá nếu việc áp dụng một mức giá thống nhất là một trong những yếu tố nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Đặc biệt, việc thỏa thuận ấn định về giá trong trong hệ thống nhượng quyền đồng giá phải được xem xét áp dụng ngoại lệ trong mọi trường hợp. Đối với hành vi thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ: cần tính đến yếu tố lợi ích hợp lý của bên nhận quyền khi gia nhập hệ thống, theo hướng, bên cạnh việc cấm thực hiện hành vi này trong Luật Cạnh tranh như hiện nay, nên bổ sung điều kiện để được hưởng miễn trừ, đồng thời cấm tuyệt đối các hành vi thỏa thuận nhằm hạn chế việc bán hàng thụ động của bên nhượng 140 quyền cho khách hàng ngoài phạm vi lãnh thổ được nhượng quyền. Đối với hành vi áp đặt giá bán gây thiệt hại cho bên nhận quyền: cần quy định theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn đối với bên nhượng quyền trong việc thực hiện hành vi này so với quy định hiện nay tại Luật Cạnh tranh 2004. Cụ thể, cấm hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ của bên nhượng quyền gây thiệt hại cho bên nhận quyền theo mà không phụ thuộc vào thị phần của bên nhượng quyền có đạt đến 30% trên thị trường liên quan hay không. Nghĩa là, trong trường hợp này, điều kiện về thị phần của bên nhượng quyền nên được loại bỏ khi xác định hành vi áp đặt giá bán gây thiệt hại cho bên nhận quyền. Đối với hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu: Ngoài quy định kiểm soát hành vi này của pháp luật cạnh tranh hiện hành, cần lưu ý thêm một số vấn đề như: (i) bổ sung quy định theo hướng cấm các tham chiếu về giá của bên nhượng quyền khi hành vi này được thực hiện kết hợp với các biện pháp gián tiếp nhằm hướng bên nhận quyền áp dụng một mức giá thống nhất trong hệ thống, nếu giá sản phẩm không phải là yếu tố ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền; (ii) không cấm bên nhượng quyền đưa ra giá tham chiếu mà không kết hợp với những nỗ lực tích cực của bên nhượng quyền nhằm đạt được sự thống nhất về giá, kể cả trong trường hợp sự tham chiếu về giá này có dẫn tới việc tự nguyện lựa chọn áp dụng một cách vô điều kiện của bên nhận quyền; (iii) bổ sung ngoại lệ theo hướng cho phép bên nhượng quyền được ấn định giá bán lại hoặc giá bán lại tối thiểu đối với trường hợp giá sản phẩm là yếu tố ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền; (iv) bổ sung quy định riêng về giá trong trường hợp nhượng quyền thương mại của hệ thống hàng đồng giá. Đối với hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan đến hợp đồng (ràng buộc bán kèm): việc kiểm soát hành vi này 141 cần phải mềm dẻo hơn, quan tâm đến đặc tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền, theo đó, pháp luật cạnh tranh cần phải có những quy định theo hướng bổ sung các ngoại lệ thông qua việc đặt ra các điều kiện được hưởng ngoại lệ. Đồng thời, có những giải thích cụ thể về các khái niệm (i) “hàng hóa, dịch vụ liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại”; (ii) “hàng hóa, dịch vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại”, và (iii) “hàng hóa, dịch vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại” nhằm đạt đến sự rõ ràng và thống nhất trong việc vận dụng quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi này. 142 KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu của Luận án, có thể đưa ra một số kết luận sau đây: (1) Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại hiện đại, ít rủi ro so với các hoạt động thương mại khác. Trong xu hướng phát triển hiện nay, nhượng quyền thương mại không chỉ tồn tại trong nội bộ một quốc gia mà ngày càng phát triển sâu rộng trong phạm vi quốc tế, xuyên quốc gia và mang lại lợi ích to lớn do hiệu quả kinh doanh của hoạt động thương mại mang bản chất “nhân rộng thành công” của các thương nhân. (2) Đặc trưng cơ bản mang tính thương mại của hoạt động nhượng quyền là tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền, các thương nhân khi gia nhập hệ thống nhượng quyền đều được bên nhượng quyền đào tạo quy trình, kỹ thuật, cách thức kinh doanh cũng như được sử dụng các yếu tố liên quan đến sở hữu trí tuệ mang dấu hiệu nhận biết thương nhân. Nhờ vậy, bên nhận quyền không mất thời gian, chi phí để xây dựng thương hiệu mà được hưởng lợi dựa trên sự nổi tiếng sẵn có của bên nhượng quyền cũng như của cả hệ thống nhượng quyền đã kinh doanh tương đối thành công. (3) Công trình nghiên cứu đã cho thấy, hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại xuất phát từ bản chất tất yếu, khách quan của xu hướng cạnh tranh và trong một chừng mực nhất định là cần thiết để duy trì và bảo vệ tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ khó thành công và hiệu quả nếu thiếu vắng những hành vi hạn chế cạnh tranh. (4) Việc nghiên cứu về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ nghiên cứu mang tính đơn lẻ, thể hiện bằng việc nhận diện các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại và chỉ ra sự cần thiết phải có những quy định mang tính đặc thù để điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền mà chưa thể hiện được một cách tổng 143 thể về mặt lý luận cũng như thực trạng toàn diện hệ thống pháp luật có liên quan của Việt Nam. (5) Pháp luật của các quốc gia, tổ chức trên thế giới mà điển hình là Mỹ và Liên minh Châu Âu cho thấy đã ghi nhận những ngoại lệ hợp lý trong việc điều tiết hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại nếu có chứng cứ chứng minh sự tồn tại của các ngoại lệ đó là thực sự cần thiết và nhằm mục đích bảo vệ tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. (6) Pháp luật hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam mới chỉ điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung mà chưa thừa nhận tính hợp lý của các hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền, bao gồm các quy định liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh về giá bán hàng hóa, dịch vụ trong hệ thống nhượng quyền; thỏa thuận về phân chia lãnh thổ; các hành vi áp đặt giá bán; ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; buộc bên nhận quyền phải chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan đến hợp đồng... Nội dung luận án chỉ rõ, các hành vi này thường xuyên xuất hiện trong quá trình thực hiện hoạt động nhượng quyền, cần thiết phải tồn tại trong một chừng mực nhất định nhằm bảo vệ tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam không có bất cứ một quy định mang tính ngoại lệ nào cho hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động thương mại khá đặc thù này. (7) Giải pháp đặt ra hiện nay cho vấn đề này đối với các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam là ghi nhận sự tồn tại của các ngoại lệ trong Luật Cạnh tranh và sớm ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể để điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại, thông qua đó đưa ra được giới hạn của những hành vi có dấu hiệu xâm phạm trật tự cạnh tranh nhưng lại được chấp nhận trong một chừng mực nhất định, hoặc những hành vi hạn chế cạnh tranh cần phải cấm chặt chẽ hơn. Từ đó, có thể điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại – một lĩnh vực kinh doanh đặc thù – nhưng lại 144 không phá vỡ nền tảng và nguyên tắc của pháp luật về cạnh tranh nói chung. 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ 1. Nguyễn Thị Tình (2011), Tăng cường sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại thông qua pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh, Hội thảo khoa học quốc tế: “Hội nhập: Hợp tác và cạnh tranh”, Trường Đại học thương mại và Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại TPHCM, Quyển 1, Tr.381, TPHCM, 12/2011. 2. Nguyễn Thị Tình (Tham gia) (2012), "Hợp đồng nhượng quyền thương mại và một số vấn đề cần chú ý khi đàm phán và ký kết", Trong sách: Kiến thức pháp lý và kỹ năng cơ bản trong đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, Sách chuyên khảo, TS. Nguyễn Thị Dung Chủ biên, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Tình (2014), "Xác định thị trường liên quan trong quan hệ nhượng quyền thương mại", Tạp chí Dân chủ Pháp luật, (5). 4. Nguyễn Thị Tình (2014), "Pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong quan hệ nhượng quyền thương mại và kinh nghiệm lập pháp của Liên minh Châu Âu", Tạp chi Luật học, (4). 5. Nguyễn Thị Tình, TS. Vũ Đặng Hải Yến (2014), "“Ràng buộc bán kèm” trong quan hệ nhượng quyền thương mại và kinh nghiệm lập pháp của EU", Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (1/60). 146 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. CIDA - Bộ Thương mại Việt Nam (2004), Luật Cạnh tranh Canada và bình luận, Hà Nội. 2. Bùi Ngọc Cường (2007), “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7). 3. Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên Việt Nam - EU (MUTRAP). Sổ tay hạn chế cạnh tranh - Một số vụ việc điển hình của Châu Âu. 4. Ngô Thị Thu Hà, Hoàng Văn Thành (2014), “Mối quan hệ giữa pháp luật nhượng quyền thương mại và cạnh tranh”, Tạp chí Tài chính, (2). 5. OEDC-WB (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, Sách dịch, Hà Nội. 6. Hoàng Thị Thanh Thủy (2011), “Điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản cấm cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Luật học, (2). 7. Nguyễn Thanh Tú (2007), “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ Luật Cạnh tranh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (3). 8. PGS.TS Lê Danh Vĩnh (Chủ biên) (2010), Giáo trình Luật Cạnh Tranh, Nxb Dân trí, Hà Nội. 9. Walter Goode (1997), Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Sách dịch, Nxb Thống kê, Hà Nội. 10. Vũ Đặng Hải Yến (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. Tiếng Anh 11. Broadcast Music, Inc. v Columbia Broadcasting System, Inc., 441U.S. 1, 19-20 (1979) 12. Bryan A. Garner (1999), Black‟ Law Dictionary, St. Paul. 147 13. Charles Jourdan Decision 89/94/EEC, of 2 December 1988 OJ EEC L 35/31 of 7 January 1989 14. Chicago Board of Trade v US, 246 U.S. 231, 238 (1918); 15. Collins v International Dairy Queen, Inc., 939 F.Supp. 875 (M.D.Ga. 1996). 16. Commission Regulation (EC) No. 2790/99 on the application of Art 81(3) of the Treaty to categories of verticalagreements and concerted practices (Vertical Restraints Block Exemption Regulation) [1999] OJ L 336/25 17. Computerland decision, of 13 July 1987 OJ EEC L 222/12 of 10 August 1987 18. Continental T.V. Inc. v GTE Sylvania, 433 U.S. 36, 40 & 50-59 (1977) 19. De Jesus v Sears Roebuck & Co., 87 F.3d 65, 70 (2nd Cir. 1996); 20. Eastman Kodak v Image Technical Services, 504 U.S. 451, 461-462 (1992); 21. Forter Enterprises, Inc v. US Steel Corp., 394 U.S. 495, 503 (1969). 22. FTC‟s Disclosure Requirements and Prohibitions Concerning Franchising and Business Opportumities Ventures, 16 C.F.R. 23. Giuliano Amato, 1997, Antitrust and the Bounds of Power, Hart Publishing, Oxford, tr. 24-27; 24. Guidelines on Vertical Restraint OJ [2000] C 291/01, [2000] 5 CMLR 1074 (Hướng Dẫn của Ủy Ban Châu Âu về các hạn chế theo chiều dọc) 25. Kentuckey Fried Chicken v. Diversified Packaging, 549 F.2d 368, 375-378 (5 th Cir. 1977). 26. Little Caesar Enterprises, Inc. v Smith, 34 F.Supp.2d 459, 490 (E.D.Mich 1998). 27. Northern Pacific Railway Company v US, 356 U.S. 1, 5-6 (1958) 28. Pronuptia de Paris GmbH v. Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, Case 161/84, [1986] E.C.R p.353 148 29. Richard A. Posner, 1975, Antitrust Policy and the Supreme Court: An Analysis of the Restricted Distribution, Horizontal Merger and Potential Competition Decisions, 75 Colum L. Rev. 282 30. S.M. Their, An Analysis of Tying Arrangements in Franchising Contracts, 23 Journal of Corporation Law 563, 577-580; 31. ServiceMaster, Commission decision No. 88/604/EEC, L 332/38 of 3 December 1988 32. Siegel v Chicken Delight, Inc., 448 F.2d 43 (9th Cir. 1971), cert. denied 405 U.S. 955 (1972). 33. Standard Oil Co. v US, 221 U.S. 1, 60 (1911). 34. State Oil Co. v Khan, 522 U.S. 3, 10 (1997); 35. Subsolutions, Inc v Doctor‟s Associates, Inc., 62 F.Supp.2d 616, 626 (D.Conn. 1999); 36. Yves Rocher, Commission decision No. 87/14/EEC, L 8/49 of 10 January 1987 Website: 37. (UNCTAD, Model Law on Competition, Mục I, Chương III, Phần I) 38. 39. canh-tranh-trong-hop-111ong-nhuong-quyen-thuong-mai 40. 11 Đại học Kinh tế- Luật, Giáo trình Luật Cạnh Tranh. Chủ biên: PGS.TS Lê Danh Vĩnh. Nxb Dân Trí, 2010. Tr78

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfncs_nguyen_thi_tinh_dh_luat_ha_noi_toan_van_luan_an_0283.pdf