Luận án Tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa

2. Hƣớng nghiên cứu tiếp của đề tài 2.1. Liên văn hóa là xu thế của thời đại toàn cầu hóa, là xu hướng của các nhà văn Trung Quốc cũng như các nhà văn trên thế giới. Vì vậy, có thể nghiên cứu tính liên văn hóa qua việc so sánh điểm giống và khác nhau giữa liên văn hóa trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn với các nhà văn Trung Quốc khác, hoặc so sánh tính liên văn hóa của Mạc Ngôn với các nhà văn Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. 2.2. Liên văn hóa đã có từ lâu trong lịch sử. Vậy điểm khác trong liên văn hóa xưa và nay như thế nào. Có thể tìm hiểu sự khác biệt giữa liên văn hóa trong các nhà văn xưa với liên văn hóa trong các nhà văn hiện nay.

pdf172 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2215 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của huyện trưởng Ngưu về việc vận động xóa bỏ tục bó chân, đôi bàn chân của Toàn Nhi đã thu hút sự chú ý của mọi người, ai cũng “nhìn vào bàn chân của mẹ”. Tuy nhiên, tác hại của nó là mẹ không thể chủ động “đứng một mình thì không vững, mẹ phải vịn vào vai bà cô”, “một bước đi ba lần nhún nhảy như cành liễu trước gió”. Trong con mắt của những người thủ cựu vùng Cao Mật như thế mới là đẹp nhưng hệ lụy của nó là “vai không thể gánh, chân không thể dơ lên”, nó biến người phụ nữ trở nên yếu đuối, mất khả năng lao động và hạn chế khả năng hoạt động. Theo quan niệm của người Trung Quốc: “Đàn bà không bó chân không lấy được chồng”. Chính vì vậy, đôi chân to cũng là một trở ngại khiến cho Mi Nương - một người con gái đẹp phải lấy một anh chàng đồ tể - một người đàn ông không bao giờ lớn (Đàn hương hình). Ban đầu Mi Nương không mấy quan tâm đến bàn chân to - 139 - của mình nhưng đứng trước tình địch - phu nhân quan huyện Tiền Đinh, trong lòng nàng nảy lên sự đố kỵ và xấu hổ. Nàng ao ước có một đôi chân nhỏ và giận mình không thể “cầm giao gọt bớt chân”. Trong Cao lương đỏ đôi bàn chân của nhân vật “bà tôi”, “mẹ tôi” cũng là kết quả của quan điểm thẩm mỹ bệnh hoạn này: “Bà tôi chưa được 6 tuổi đã bắt đầu bó chân, mỗi ngày bó một chặt”, nó làm cho các ngón chân “không phát triển được trông rất thảm”, nhưng chính đôi chân ấy đã chiếm gọn cảm tình của người phu kiệu, anh trân trọng, nâng niu đôi chân như giữ gìn vật quý: “Phu kiệu nhìn thấy cái chân nhỏ xinh xắn mịn màng, bất chợt hồn xiêu phách lạc. Từ Chiếm Ngao đi tới, cúi xuống, khẽ khàng, nhẹ nhàng, nắm lấy bàn chân như cầm con chim nhỏ chưa đủ lông cánh, nhè nhẹ đẩy vào trong kiệu” [61; 86]. Có thể nói, những hủ tục vô lý đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, không thể nào vứt bỏ. Một người mạnh mẽ như Mi Nương từng tự hào với đôi bàn chân to của mình cũng ao ước gọt chân cho nhỏ lại, nàng hận cha không quan tâm mượn người bó chân để rồi nàng phải khổ: “Nàng kêu thầm: Trời ơi, đất ơi, mẹ ơi, cha ơi, con tàn đời vì đôi chân này! Nếu mẹ chồng có thể gọt bé chân nàng bằng giao chọc tiết lợn, thì cứ để bà gọt, đau mấy nàng cũng chịu được! Nếu gọt bé chân mà phải chết sớm mười năm, nàng tình nguyện chết sớm mười hai năm! Nghĩ đến đây nàng hận cha không để đâu cho hết... ông chỉ biết nuôi tôi lớn mà không mướn người bó chân cho tui, cha ơi là cha” [64; 208 – 209]. Tập tục này đi vào tâm thức dân gian và phải đến Khang Hữu Vi với cuộc vận động bỏ bó chân thì hủ tục này mới chấm dứt hoàn toàn. Như vậy, “gót sen” không đơn thuần là việc bó chân cho nhỏ lại mà nó còn là biểu tượng cho địa vị, quyền lực, tương lai người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhân vật người phụ nữ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn vẫn là những người chịu sự chi phối của tư tưởng truyền thống. Sống trong xã hội phong kiến người phụ nữ luôn bị đè nén bởi những tư tưởng phong kiến lạc hậu, bảo thủ như trọng nam khinh nữ, hôn nhân sắp đặt. Những tư tưởng lạc hậu và bảo thủ này đã đè nặng lên số phận người phụ nữ bao đời. Đọc tiểu thuyết Mạc Ngôn người đọc bắt gặp những người phụ nữ với thân phận “con rùa nuôi trong xó cửa” kết quả của hôn nhân gả bán. Thượng Quan Lỗ Thị là con người trần tục, cuộc đời chị trải qua biết bao gian - 140 - truân, cơ cực, chưa có nỗi cay đắng, đau khổ nào mà người phụ nữ này chưa nếm trải. Soi rọi cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi cha bị giặc Nhật bắn chết, mẹ cũng treo cổ chết theo. Cô được cứu sống trong tình trạng chỉ còn “thoi thóp”. Lấy chồng từ năm 16 tuổi, cuộc hôn nhân của Lỗ Toàn Nhi cũng do bà cô quyết định theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Cô phải sống trong một gia đình với bố chồng nhu nhược, bà mẹ chồng cay nghiệt và người chồng - Thọ Hỉ - một người đàn ông không bao giờ lớn. Hôn nhân áp đặt còn thấy rõ trong Cao lương đỏ. Năm đó Cửu Nhi - một cô gái vừa tròn 16 tuổi “vừa xuân thì, phát tiết dung nhan, thắm màu hoa nguyệt”, tràn đầy sức sống và khát vọng yêu đương nhưng cha mẹ cô vì tham tiền mà gả cô vào nhà một tài chủ nổi tiếng là Đơn Đình Tú lấy thằng con trai độc nhất nhưng bị mắc bệnh hủi là Đơn Biển Lang. Nỗi oan ức đã khiến “bà tôi” khóc than: “Bà thấy tiền đồ đen tối, suốt đời không thoát được bể khổ: - Ôi bố, ôi mẹ, bố tham tiền, mẹ nhẫn tâm, bố mẹ hủy diệt đời con” [61; 85]. Người con gái đang rừng rực tuổi xuân thì, khao khát yêu đương bị kìm nén và dập tắt do tư tưởng phong kiến áp đặt. Mạc Ngôn đã khéo léo miêu tả tâm lý Cửu Nhi vừa mạnh mẽ, dứt khoát, vừa nhút nhát, e lệ, vừa ngoan hiền, nhu mì nhưng cũng khao khát yêu đương mãnh liệt. Tiếng nhạc hỉ vang lên cùng lúc cô lên kiệu hoa, người lắc lư theo bước đi của phu kiệu, lòng cô đau đớn như muốn chết đi, một không khí chán chường bao trùm người con gái ấy. Với sự miêu tả chân thực, nhà văn đã cho người đọc thấy nỗi đau của người phụ nữ bị gả bán, ép lấy người mà nàng không hề yêu thương. Người phụ nữ chỉ là con rối là món đồ để trao đi, bán lại. Ngay cả quyền làm người, được hưởng hạnh phúc gia đình cũng không được nắm lấy. Cùng với hôn nhân gả bán, tư tưởng nam quyền luôn đè nặng lên người phụ nữ. Nỗi đau của Lỗ Toàn Nhi trong Báu vật của đời không chỉ là sự hành hạ về thể xác, mà đau đớn hơn đó là sự tra tấn về tinh thần. Lấy chồng từ năm 16 tuổi nhưng đau đớn thay chồng lại là một người đàn ông không bao giờ lớn, không có khả năng truyền giống. Gánh nặng của tư tưởng phong kiến phải có con nối dõi đặt lên vai Lỗ Toàn Nhi. Chị phải đi xin giống của những người đàn ông trong thiên hạ, tuy nhiên, 4 đứa con gái ra đời, nỗi bất hạnh của chị càng chồng chất: “Từ khi sinh - 141 - đứa con gái thứ 4, bầu trời nhà Thượng Quan lúc nào cũng mây đen vần vũ, mặt bà nội như lưỡi hái vừa lấy ra khỏi nước sôi, sẵn sàng đâm chém ai đó bất cứ lúc nào” [62; 790]. Tiếp đó, lần lượt 7 đứa con gái ra đời, người mẹ càng thêm khổ đau chồng chất khổ đau, uất hận càng thêm uất hận, chị phải chịu bao đau đớn về thể xác và sự hành hạ về tinh thần. Khi đứa con gái thứ bảy Cầu Đệ ra đời, “Thọ Hỉ xông vào trong buồng lật tã lên xem rồi ngã ngửa. Công việc đầu tiên sau khi hết bàng hoàng là vớ lấy cái chày đập giặt quần áo nhằm thẳng đầu vợ phang một chày. Người đàn ông không bao giờ lớn này giận đến phát điên, anh ta dùng kìm kẹp lấy một miếng sắt trong lò ấn vào giữa hai chân của vợ. Làn khói màu vàng bay lên, mùi lông và thịt cháy khét lẹt toả khắp phòng. Mẹ rú lên thê thảm, lăn từ trên giường xuồng dưới đất, người cong như cánh cung, co giật từng cơn” [62; 803]. Sống trong sự ngược đãi, ghẻ lạnh của nhà chồng. Nhưng ước nguyện sinh được đứa con trai “có cái chim xinh xinh” đã giúp chị có thể tiếp tục sống và nuôi hi vọng. Bảy lần sinh nở hi vọng rồi thất vọng đã gần như giết chết niềm tin và “vắt kiệt” sức chịu đựng của Thượng Quan Lỗ Thị. Khát vọng sinh được thằng con trai luôn thường trực trong chị, có khi biến thành ảo giác, cho nên ảo giác một đứa bé trai giữa hai đùi nó có “một bàn chân nhỏ xíu với những móng chân sáng loáng” thu hút sự chú ý của chị. Chính vì vậy, sau khi tỉnh lại “nhìn thấy cái chim bé tí như con nhộng ở giữa hai chân tôi, cặp mắt u tối của mẹ chợt bừng sáng”. Điều này cũng phản ánh hiện thực cuộc sống xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Lỗ Toàn Nhi tiếp nhận những người đàn ông xa lạ với thái độ vâng chịu “chỉ cầu mong anh ta cho một thằng con trai”. Bởi chị nhận ra một quy luật nghiệt ngã “Là đàn bà không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình dứt khoát phải sinh con trai” [62; 783]. Bà mẹ chồng cũng từng đưa ra chân lí: “Không có con trai thì suốt đời cô chỉ là nô lệ; đẻ con trai, cô lập tức thành bà chủ nhà”. Chính vì vậy, khát vọng lớn nhất của người mẹ ấy là có được một đứa con trai để “nối dõi tông đường”, để có thể ngẩng cao đầu mà sống, để có thể trả được nỗi hận trong lòng đối với nhà Thượng Quan. Không phải mình Lỗ Toàn Nhi khao khát có một đứa con trai mà bà Lã - người - 142 - đàn bà nửa người nửa quỷ nhưng là trụ cột trong gia đình Thượng Quan đúng như ông Ba Phàn nói: “Nhà Thượng Quan gà mái gáy, gà sống không đẻ trứng!” [62; 40]. Cả cuộc đời bà Lã chỉ mong có một đứa cháu trai. Sau bảy lần hi vọng bà đều thất vọng và đến lần thứ bảy nỗi thất vọng ấy đã lên đến cực điểm. “Bà Lã tuyệt vọng đến cực điểm. Bà loạng choạng đi vào phòng riêng, mở hòm lấy bình rượu quý cất giữ đã lâu ngửa cổ uống ừng ực và mượn hơi men, bà khóc hu hu” [62; 802]. Đến lần sinh thứ tám, khi một đứa con gái nữa ra đời - Thượng Quan Ngọc Nữ, bà thấy “trời đất quay cuồng”, ước vọng sụp đổ. Vào ngày quân Nhật tràn vào thôn cướp đi sinh mạng của hàng trăm người trong đó có cả Thượng Quan Thọ Hỉ và Thượng Quan Phúc Lộc. Khi những người thu lượm xác chết tưởng bà đã chết định mang đi thì điều kỳ lạ đã xảy ra, bà từ từ mở mắt. Bà cố nhìn đứa cháu trai duy nhất của mình. Nhưng khi nhìn thấy đứa bé tóc vàng “bụng bà réo ùng ục rồi xả ra một tràng rắm thối” [62; 72]. Người đàn bà từng tắc thở và phát ra uế khí tưởng đã thoát khí lìa trần vậy mà bà từ từ mở mắt cố nhìn đứa cháu trai mà cả đời mong đợi một lần, bà “từ từ bò dậy như một con rùa già, bà ngồi dậy tựa lưng vào tường cười cay độc. Bà ngồi đó vững chãi như một quả núi nhỏ ” [62; 72]. Trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, người phụ nữ một mặt tuân theo những luật tục của xã hội phong kiến, nhưng mặt khác họ luôn đấu tranh để thoát khỏi những luật tục ấy. Theo quan niệm truyền thống phong kiến, người đàn ông là người làm chủ, đứng ra gánh công việc gia đình. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn, điều độc đáo là những người phụ nữ đều vươn mình đứng lên giữ vị trí chủ gia đình. Ngay người đàn ông gang thép như Vu Bàn Vả hiên ngang ngoài đường nhưng về đến nhà lại là một người đàn ông ngoan ngoãn trước mặt bà vợ. Mọi công việc trong nhà đều do bà quyết định, Lỗ Toàn Nhi được gả cho Thọ Hỉ cũng chỉ do ý của bà cô. “Những người trên chợ Đại Lan thường chứng kiến một cảnh tức cười như sau: Bà Vu bó chân, người nhỏ thó, kéo tai ông chồng hộ pháp lôi về nhà, điệu bộ như một bà tướng” [62; 765], ngay cả việc “cho giống” để Thượng Quan Lỗ Thị một đứa con, ông chú dượng Vu Bàn Vả cũng làm theo sự sắp đặt của người vợ. Gia đình Thượng Quan và sau này là lớp con cháu của gia đình ấy đều không có - 143 - chỗ cho người đàn ông, mọi công việc trong gia đình đều do người phụ nữ quyết định. Ban đầu là bà Lã, người đàn bà sắt thép ấy là chủ của gia đình, trong cuộc đọ sức với sắt thép “cha con ông thợ rèn cứ đứng ngây ra mà nhìn người nữ thống soái của mình”. Sau này là Lỗ Toàn Nhi rồi đến các con và cháu gái của bà đều lần lượt đứng lên nắm quyền chủ động quyết định số phận cuộc đời mình. Cũng là một cách để phản ứng lại xã hội, Thượng Quan Lỗ Thị sinh con trong nỗi uất ức tủi hờn, lòng căm giận và sự trả thù với nhà Thượng Quan. Lấy phải người đàn ông không thể truyền giống, chị phải đi xin giống của đủ mọi loại người trong thiên hạ. Cả chín người con của chị lại có những người cha khác nhau. Chuyện ăn nằm, thụ thai, sinh đẻ của Thượng Quan Lỗ Thị chính là sự phản tỉnh, sự thách thức đối với xã hội. Ở Đàn hương hình khi mẹ chồng Mi Nương định cầm dao gọt chân nàng, Mi Nương đã đánh lại mẹ chồng như “Võ Tòng đả hổ”, mẹ chồng uất hận mang bệnh mà chết, từ đó Mi Nương tự do làm những điều mình thích. Cũng có nghĩa nàng kiên quyết cự tuyệt với hủ tục bó chân. Tuy nhiên, để thay đổi được tận gốc tư tưởng này đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng. Mạc Ngôn không chỉ miêu tả, kể lại những hủ tục lạc hậu, mà ông còn có ý thức phản tư, nhìn nhận những sai lầm, phơi bày những gò bó, tàn dư của xã hội cũ kêu gọi mọi người nhận ra u mê để thoát khỏi hành động sai lầm. Cuộc đời của Đái Phượng Liên trong Cao lương đỏ nhiều éo le, thăng trầm nhưng cũng hết sức đẹp đẽ. Bà là người đi đầu trong việc giải phóng cá tính, tìm cuộc sống tự do, tự chủ. Miêu tả Đái Phượng Liên, Mạc Ngôn muốn nói lên số phận của những người phụ nữ phong kiến Trung Quốc nhưng cũng là khát khao phá bỏ luật lệ mà nhà văn muốn hướng tới. Cùng với sự đổi mới về thể chế kinh tế, chính trị, xã hội là sự giao lưu văn hóa Đông - Tây, nhà văn đã mạnh dạn thể hiện ý thức tự ngã của con người cá nhân, con người bản năng, đặc biệt là người phụ nữ. Trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, một mặt ông thể hiện quan niệm tính dục lành mạnh của người bình dân qua tín ngưỡng phồn thực. Nhưng mặt khác, một cái nhìn mới về con người đã xuất hiện. Người phụ nữ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không chỉ là con người nghĩa vụ, con - 144 - người công dân mà còn là con người bản năng với những ham muốn rất người. Họ có những dục vọng mãnh liệt với những phút giây say đắm hạnh phúc tột bậc nhưng cũng có lúc cô đơn đến tột cùng. Trong tiểu thuyết Mạc Ngôn những người phụ nữ không hề e dè, thẹn thùng trong việc bộc lộ tình yêu mà họ bộc lộ tình cảm của mình một cách mạnh mẽ. Trong Báu vật của đời có trên 10 lần nhà văn miêu tả những cuộc làm tình, mỗi một lần đều mang dáng vẻ riêng. Với Mạc Ngôn, tình dục là nơi biểu hiện chất người nhất, là món quà tuyệt vời nhất mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Hành vi tình dục sôi nổi mãnh liệt và phóng đãng của Tư Mã Khố đã chữa khỏi bệnh cho Lai Đệ. Đưa cô từ một góa phụ điên điên khùng khùng trở về đời sống của một phụ nữ khao khát yêu đương. Chính cái đêm cuồng hoan giữa chị và Tư Mã Khố đã khiến chị tỉnh táo trở lại và “cái ngượng của chị là ngượng trong hạnh phúc”. Đặc biệt, nhà văn miêu tả cuộc tình giữa Lai Đệ và Hàn Chim sau bao ngày bị Tôn Câm cưỡng bức về thể xác và tinh thần. Sự gặp gỡ với Hàn Chim đã “khiến chị như tỉnh, như say, như thư thái, như điên cuồng”. Lai Đệ dám bước qua thằng Câm để đến với tình yêu, mặc dù tình yêu đó sau này phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Nhưng dù có kết cục như thế nào thì tình yêu đối với Lai Đệ đều là cứu cánh, nó cứu chị thoát khỏi những trạng thái tâm lý bi kịch đau thương. Tám cô gái nhà Thượng Quan mỗi người một tính cách nhưng họ đều giống nhau ở sự mạnh mẽ đi theo tiếng gọi của tình yêu, quyết liệt dám sống và dám chết theo con đường mình đã chọn. Ở Đàn hương hình, Mạc Ngôn lại xây dựng một Mi Nương, mắc bệnh tương tư, sẵn sàng “xăm xăm băng lối vườn khuya” lần tìm vườn yêu cho mình, nàng mạnh mẽ và bạo dạn trong tình yêu đến mức “quằn quại trong lửa dục, giãy giụa trong bể tình”. Trong cuộc đọ râu giữa Tôn Bính và Tiền Đinh, Mi Nương mạnh dạn bước lên phân xét ai thắng ai thua với mục đích tiếp cận Tiền Đinh. Khi đối mặt với quan lớn, “nàng cảm thấy bước chân nhẹ tênh, tim đập như trống làng, mặt nóng bừng”, nàng như mụ đi trước cái giơ tay, cái nhắc chân, cái nhìn của ông lớn. Khát khao tình yêu của Mi Nương thật mãnh liệt: “Ông thân yêu gan ruột của tui tui sắp chết vì nhớ ông đây! Ông làm ơn hãy thương tui ông như quả đào - 145 - tiên! Ôi sao mà thèm! Thoạt nhìn đã yêu!... Tình yêu đơn phương không đã thèm! Biết khi mô quả rụng, lay không rụng, ai người trèo lên” [64; 220]. Tình yêu mãnh liệt đối với quan lớn Tiền Đinh đã khiến nàng mong muốn: “Trời ơi! Ông trời ơi! Ông hãy biến tui thành con cò, cũng biến ông lớn Tiền thành con cò!... Ông trời hãy khiến cổ tui ngoắc vào cái cổ ông lớn, biến thành dây tơ hồng! Cho tui được thơm khắp người quan lớn. Tui cũng mong được ông lớn thơm khắp người tui. Tui chỉ muốn nuốt chửng ông, tui cũng mong được ông ăn thịt tui” [64; 227]. Dục vong quá lớn đã khiến cho Mi Nương hoàn toàn không còn tỉnh táo “tâm trạng như mê như say”. “Nàng trần truồng đi ra sân, cảm thấy ánh trăng như nước chảy trên người, Tiền Đinh ơi Tiền Đinh, ông lớn Tiền, oan gia của tui! Khi nào ông mới biết rằng có người đàn bà mất ngủ vì ông? Khi nào ông mới hay rằng một quả đào mật đã chín nẫu đang đợi ông thưởng thức” [64; 230]. Khi miêu tả những ham muốn yêu đương này, Mạc Ngôn không hề bày tỏ quan điểm, thành kiến, không bình luận đúng sai, phải trái. Ông để con người hiện lên với tất cả bản năng của mình với đặc điểm giống loài đực - cái tuân theo lẽ tự nhiên của cuộc sống. Cũng là những dục vọng lệch lạc, Lý Ngọc Thiền là con người có nhục dục cao, nhưng không được chồng thỏa mãn, cô luôn có nhu cầu giải phóng tính dục, thèm muốn sự giao hoan về thể xác. Ngay từ bé, Lý Ngọc Thiền đã không thể nào quên được cảnh tượng 3 con người: Phó cục trưởng Vương, Mỹ nhân họ Lạp - mẹ cô và Lý Ngọc Thiền lõa lồ chơi trong vườn. Hình ảnh đó thể hiện sự tha hóa, băng hoại về đạo đức, con người chông chênh giữa hai bờ vực thiện - ác, nếu không vững lập trường con người có thể dễ dàng sa ngã. Mạc Ngôn đã miêu tả sự thèm khát xác thịt đến mê muội của những người phụ nữ trong Đàn hương hình, Thập tam bộ, qua đó cảnh tỉnh con người không để cho dục vọng quá lớn điều khiển, không làm chủ được mình trở nên tha hóa và biến chất. Nếu như trước đây, văn chương truyền thống chỉ có hai kiểu loại nhân vật đối lập là nhân vật chính diện và nhân vật phản diện thì đến các nhà văn hiện đại không còn sự phân chia đơn giản ấy nữa mà xuất hiện nhân vật phức hợp, đa bình diện với tính cách, tâm lý phức tạp cùng những bản năng và khao khát rất người. - 146 - Miêu tả về tính dục không còn là vấn đề mới trong văn học Trung Quốc, trong văn học cổ điển, Kim Bình Mai được liệt vào hàng “dâm thư” khi miêu tả các cuộc truy hoan về xác thịt. Điều này đối lập với tư tưởng phong kiến nên bị tư tưởng diệt dục của Khổng Mạnh phê phán mạnh mẽ. Xã hội phong kiến khống chế, kiềm tỏa cái tôi cá nhân cùng với nó là những cấm kỵ về tình dục, con người không được phép phô bày đời sống tình dục. Cùng với làn gió toàn cầu hóa, các nhà văn Trung Quốc đã đặt lại vấn đề tính dục và xem nó như một phương tiện khai thác, khám phá con người. Sự thức tỉnh về tính dục của các nhân vật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn được miêu tả với nhiều sắc thái khác nhau. Có khi đó là sự thăng hoa của tình yêu, của sự nổi loạn cũng có khi đó là sự bùng nổ của bản năng tính dục, có khi đó là cuộc giao hoan giữa những con người bình thường, nhưng cũng có khi nó là cuộc làm tình của những con vật. Dù dưới góc độ nào thì tính dục trong tiểu thuyết Mạc Ngôn cũng là một tiếng nói trái chiều, là sự đối lập lại với văn hóa Nho giáo Khổng Mạnh. Điểm độc đáo trong tiểu thuyết Mạc Ngôn là, mặc dù tình yêu, tình dục được nói đến nhiều lần với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau, nhưng ông không nhấn mạnh ham muốn xác thịt đơn thuần của con người mà quan trọng hơn nhà văn muốn thể hiện những khát khao, những nỗi niềm sâu kín đầy chất nhân bản của con người. Khao khát ấy thể hiện ở bản lĩnh dám nghĩ dám làm, phá tung mọi ràng buộc của luân lý xã hội. Chính vì thế, họ trở thành những người làm chủ số phận mình như những cô gái nhà Thượng Quan (Báu vật của đời), Đái Phượng Liên (Cao lương đỏ) đã chớm nở tình yêu với người phu kiệu kể từ khi anh nắm lấy bàn chân nhỏ của bà đẩy vào kiệu. Để rồi, ba ngày sau trên đường trở về nhà thăm cha mẹ, họ đã dành trọn cho nhau cả thể xác và tâm hồn “bà và ông yêu mến nhau trong ruộng Cao lương đang sinh sôi nảy nở” và rồi chính người đàn bà “mặt hoa da phấn ấy” cũng là người đi đầu trong cuộc kháng chiến chống giặc Nhật. Đó là sự trỗi dậy của con người luôn nắm chân lý: “Tôi chỉ làm theo cách nghĩ của tôi, tôi yêu hạnh phúc, tôi yêu sức mạnh, tôi yêu cái đẹp, thân tôi là của tôi, tôi phải làm chủ cuộc đời tôi” [61; 133]. Trong dòng ý thức trên, ta nhận ra tư tưởng giải phóng người phụ nữ trong thời đại mới, dám làm, dám chấp nhận để thay đổi số phận cuộc đời mình - một cảm quan của con người hiện đại. - 147 - Ở khía cạnh bản năng tính dục, Mạc Ngôn đã thể hiện cái nhìn mới về con người. Từ vấn đề tưởng như đã cũ, nhưng nhà văn đã đụng đến những khía cạnh nóng bỏng nhất của thời đại. Bên cạnh việc đề cao tính dục như một phần bản năng của con người, là sự phản tỉnh về nhân cách của con người trong xã hội hiện đại. Chính vì vậy, S.Freud đã cho rằng tình dục chính là thước đo văn minh của nhân loại về nhân cách con người. Từ sự phân tích tính truyền thống và hiện đại ở nhân vật người phụ nữ trên các phương diện ngoại hình, tâm lý, tính cách, suy nghĩ, hành động, có thể thấy, dạng nhân vật này đã thể hiện rõ tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Tiểu kết chƣơng 4: Nói tới tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không thể không nói đến thế giới nhân vật. Đó là thế giới của “kỳ nhân” được Mạc Ngôn tạo ra trên cơ sở mỹ học của cái kỳ. Nhưng dù có “kỳ” có “dị” đến mấy thì trong nhân vật đều có sự hợp lưu giữa hai dòng thác văn hóa: Đông và Tây, hai thời đại: truyền thống và hiện đại, hai tư tưởng văn hóa: dân gian và bác học. Cách xây dựng nhân vật, vừa mới lạ vừa đậm chất truyền thống, vừa táo bạo, cách tân vừa thân quen là một cống hiến của phong cách Mạc Ngôn đối với văn học đương đại Trung Quốc. Cũng chính ở đây, người đọc có thể tìm thấy ở tiểu thuyết của Mạc Ngôn những điều mới lạ nhưng cũng rất gần gũi và hấp dẫn. Về mặt xây dựng nhân vật mang tính liên văn hóa, tiểu thuyết Mạc Ngôn không chỉ dừng lại các kiểu nhân vật chúng tôi đã nêu ở trên, mà còn các kiểu, các nhóm và các dạng thức nhân vật khác. Song kiểu nhân vật kỳ tài, nhân vật anh hùng, nhân vật hóa thân, đội lốt và nhân vật người phụ nữ là các dạng nhân vật mà Mạc Ngôn đầu tư công sức và bút lực nhất, đồng thời cũng thể hiện rõ tính liên văn hóa trong tiểu thuyết của nhà văn. Những nhân vật ấy là kết quả quá trình trải nghiệm cuộc sống của nhà văn kết hợp với những sáng tạo độc đáo, biến hóa của Mạc Ngôn trong sáng tác. Thông qua nhân vật, nhà văn đã giúp độc giả tri nhận sâu sắc và lĩnh hội toàn diện những vấn đề liên quan đến xã hội và con người mà ông muốn gửi gắm. Chính vì thế, Mạc Ngôn được xem là “quái tài” của văn học đương đại Trung Quốc. - 148 - KẾT LUẬN 1. Những kết luận khoa học chủ yếu Trong hành trình sáng tác, Mạc Ngôn luôn ý thức về sự đổi mới, tìm tòi của ngòi bút, chính điều này đã tạo nên những phá cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Qua quá trình tìm hiểu đặc sắc của tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa, chúng tôi rút ra một số kết luận ban đầu sau: 1.1. Có lần Mạc Ngôn tự bạch rằng: “Dù làm gì, viết gì thì đều phải có tính sáng tạo đầu tiên và độc nhất. Người khác đã làm rồi thì không thể lặp lại, tốt nhất là viết những gì người khác chưa viết, chưa gặp cũng là cái mà mình chưa sử dụng lần nào. [43; 275]. Với quan điểm đó, trong hành trình sáng tác, Mạc Ngôn luôn bám chặt vào cội nguồn văn hóa dân tộc để trở về và vượt lên trên dân gian nhưng lại luôn bắt kịp tư tưởng thời đại qua việc tiếp biến các giá trị văn hóa nghệ thuật hiện đại trong tác phẩm. Qua tiểu thuyết của Mạc Ngôn ta nhận ra dấu ấn đặc trưng văn hóa Trung Hoa, đồng thời cũng nhận ra hơi hướng của văn hóa các nước phương Tây cũng như các nước trên thế giới, ở đó vừa có yếu tố truyền thống, cổ xưa nhưng cũng không thiếu các nhân tố hiện đại. Tuy nhiên, đó không phải là sự sao chép, bắt chước một cách tùy tiện theo kiểu “tiện đâu làm đó” mà là kết quả của quá trình nhà văn học tập, tiếp thu và gạn lọc những tinh hoa văn hóa của thời đại kết hợp với giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc. Do đó, tác phẩm của ông vừa gần gũi với độc giả phương Đông nhưng cũng không xa lạ với độc giả phương Tây cũng như các nước trên thế giới. 1.2. Mỗi một dân tộc đều có dấu ấn riêng về văn hóa và cái để tạo nên dấu ấn ấy chính là biểu tượng. Trong tiểu thuyết của mình Mạc Ngôn đã xây dựng nên một hệ biểu tượng phong phú với biểu tượng tự nhiên, biểu tượng con người, biểu tượng tôn giáo, biểu tượng phồn thực, Đây là những biểu tượng hàm nghĩa, đó có thể là lớp nghĩa gốc nguyên thủy, có thể là vô vàn những ý nghĩa được nhà văn tạo dựng từ nghĩa gốc, cũng có thể là ý nghĩa mới được người đọc khám phá nằm ngoài chủ ý của tác giả. Tất cả đan xen, hòa quyện với nhau giúp chúng ta nhận diện tính liên - 149 - văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn một cách hiệu quả. Mạc Ngôn đã chắt lọc tinh hoa văn hóa phương Tây và văn hóa Trung Hoa để kết tinh thành một thứ văn học “thuộc về tôi”, mà ở đó các giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại được đẩy lên cao, chúng thẩm thấu hài hòa một cách tự nhiên để tạo nên giá trị trường tồn của sự sống. 1.3. Tìm hiểu tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không thể không tìm hiểu “mô hình nghệ thuật” đầu tiên của thế giới - đó chính là nhân vật. Mạc Ngôn đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn các yếu tố văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, văn hóa phương Đông và phương Tây, văn hóa dân gian và bác học để xây dựng nhân vật. Bằng sự kết hợp này, Mạc Ngôn đã xây dựng nên các kiểu nhân vật liên văn hóa: nhân vật kỳ tài, nhân vật anh hùng, nhân vật hóa thân, đội lốt và nhân vật người phụ nữ, qua đó nhà văn chuyển tải những điều mình tâm đắc nhất, những suy ngẫm, trăn trở và trải nghiệm của bản thân vào tác phẩm tạo nên một thế giới nhân vật độc đáo, đa dạng và hàm nghĩa mà không gian, thời gian, sự kiện đều nhuốm màu hư ảo. Từ nhân vật có thể hiểu hơn về một Mạc Ngôn vừa rất dân gian, truyền thống nhưng cũng đầy mới lạ, độc đáo và cách tân. 1.4. Mạc Ngôn là một hiện tượng văn học độc đáo, sự độc đáo ấy thể hiện trước hết ở chỗ ông vẫn bám chặt vào mảnh đất văn hóa Trung Hoa, tiếp thu từ suối nguồn văn hóa dân gian truyền thống để cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật, mặt khác ông vẫn luôn bắt kịp tư tưởng thời đại qua việc tiếp thu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La Tinh, học thuyết phân tâm học của S. Freud, chủ nghĩa cảm giác mới của phương Tây. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, nhưng Mạc Ngôn đã thể hiện phong cách riêng của mình, đó là một chủ nghĩa hiện thực huyền ảo mang đặc trưng Trung Quốc, một tư tưởng về phân tâm học mang đặc tính phồn thực của văn hóa nông nghiệp phương Đông và một chủ nghĩa cảm giác mang đậm dấu ấn của tác giả. Điều này, đã tạo nên sự hòa hợp giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa phương Tây, văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trên tất cả các phương diện trong tiểu thuyết từ cốt truyện, biểu tượng, nhân vật đến nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết. Chính điều này đã khẳng định đẳng cấp thế giới của tiểu thuyết Mạc - 150 - Ngôn với một phong cách độc đáo không giống ai kể cả các nhà văn phương Tây lẫn Trung Quốc. 1.5. Nghiên cứu về Mạc Ngôn dưới góc độ liên văn hóa không chỉ giúp khám phá sâu hơn và toàn diện hơn những bí ẩn của nhà văn Trung Quốc, mà còn làm sáng tỏ nhiều vấn đề giao lưu văn hóa trong bối cảnh “thế giới phẳng”, đồng thời góp phần vào việc giảng dạy văn học đương đại Trung Quốc, giúp các nhà văn Việt Nam trao đổi, học hỏi những kinh nghiệm sáng tác văn học để trở thành những hiện tượng văn học độc đáo. 1.6. Mạc Ngôn với trí tưởng tượng phong phú, cách diễn đạt cảm xúc tuyệt vời đã tạo ra những kiệt tác văn học thực sự. Kết quả đã đem lại cho ông nhiều giải thưởng cao quý. Tuy nhiên, Mạc Ngôn không vì thế mà cảm thấy thỏa mãn để rồi tự thỏa hiệp với chính mình, người ta vẫn thấy vượt lên trên hết là một Mạc Ngôn cần mẫn, đam mê, nghiêm túc với công việc. Cuối cùng tôi muốn kết thúc Luận án này bằng câu nói của Mạc Ngôn: "Quên đi tất cả các giải thưởng, là sự lựa chọn cao quý nhất của các nhà văn" [183; 216]. 2. Hƣớng nghiên cứu tiếp của đề tài 2.1. Liên văn hóa là xu thế của thời đại toàn cầu hóa, là xu hướng của các nhà văn Trung Quốc cũng như các nhà văn trên thế giới. Vì vậy, có thể nghiên cứu tính liên văn hóa qua việc so sánh điểm giống và khác nhau giữa liên văn hóa trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn với các nhà văn Trung Quốc khác, hoặc so sánh tính liên văn hóa của Mạc Ngôn với các nhà văn Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. 2.2. Liên văn hóa đã có từ lâu trong lịch sử. Vậy điểm khác trong liên văn hóa xưa và nay như thế nào. Có thể tìm hiểu sự khác biệt giữa liên văn hóa trong các nhà văn xưa với liên văn hóa trong các nhà văn hiện nay. - 151 - DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1. Tạ Thị Thủy, Nguyễn Thị Thu Phương (2011), Thế giới kỳ nhân trong Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, trang 68 - 74. 2. Tạ Thị Thủy (2014), Tiểu thuyết Mạc Ngôn trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống Trung Hoa, Tạp chí Khoa học và giáo dục, Đại học Sư phạm Đà Nẵng, Số 12 (tháng 3), trang 47 - 55. 3. Tạ Thị Thủy (2015), Hướng tiếp cận mới trong xử lý cốt truyện “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Số 46 (tháng 1), trang 32 - 35. 4. Tạ Thị Thủy (2015), Sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn trên phương diện ngôn ngữ tiểu thuyết, Tạp chí Khoa học và giáo dục, Đại học Sư phạm Đà Nẵng, Số 14 (tháng 1), trang 65 - 71. 5. Tạ Thị Thủy (2015), Cái đói trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6, trang 72 - 80. 6. Tạ Thị Thủy (2015), Giải mã biểu tượng Ếch trong tiểu thuyết Ếch của Mạc Ngôn, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 7, tr. 35 - 37. 7. Tạ Thị Thủy (2015), Sự kết hợp văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trong tiểu Mạc Ngôn trên phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 8, tr. 48- 59. 8. Tạ Thị Thủy (2015), Biểu tượng trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 8, tr. 68 - 76. - 152 - TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Nhuệ Anh (2006), “Mạc Ngôn: cá tính làm nên số phận”, báo văn nghệ số (15), tr.13. 2. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 3. Đào Tuấn Ảnh (2007), Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số (12), tr. 39 - 57 4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Bakhtin. M (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội. 6. Barthes R. (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. 7. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 8. Trần Lê Bảo (1998), Tiên thoại – một đặc sản văn hóa Trung Hoa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số (3), tr. 67 - 69. 9. Trần Lê Bảo (2006), Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr. 3 -17. 10. Trần Lê Bảo (1991), “Cái kỳ trong tổ chức nghệ thuật Tam Quốc Chí của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số (3), tr.32 - 46. 11. Trần Lê Bảo (2012), Đặc điểm văn hóa Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.41-50. 12. Trần Lê Bảo (2013), Đường lối văn nghệ hiện đại của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (8), tr.51-65. - 153 - 13. Trần Lê Bảo (2014), Giải mã biểu tượng gót sen trong tác phẩm Gót sen ba tấc của Phùng Ký Tài, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (2), tr. 28-37. 14. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kì ảo và văn học huyễn ảo”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số (8), tr. 33 - 44. 15. Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong (2013), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 16. Cao Hành Kiện (2006), Kỹ thuật hiện đại và tính dân tộc, Báo Văn nghệ, số 32. 17. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ điểm nhìn văn hoá”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số (8), tr. 24 - 32. 18. Phạm Tú Châu (2003), “Tiểu thuyết tiên phong Trung Quốc ra đời nở rộ và trầm lắng”, Tạp chí Văn học số (12), tr. 41 – 48. 19. Phạm Tú Châu (2003), “Văn học Trung Quốc những năm 90: Tổng thể, phồn vinh, nguy cơ và tiềm ẩn”, Tạp chí Văn học nước ngoài số (3), tr. 223 - 227. 20. Chevalier J, Gheebrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vĩ dịch, Nguyễn Thị Bình viết lời tựa, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du. 21. Võ Nguyễn Bích Duyên, (2011), Cái kỳ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 22. Đường Đắc Dương (chủ biên), (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, Nhà xuất bản hội nhà văn. 23. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội. 24. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hóa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 25. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây - Tiếp nhận và giao thoa trong văn học, Nhà xuất bản giáo dục, Hà nội. - 154 - 26. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. 27. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 28. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 29. Erich Fromm (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội. 30. Freud S. (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn), Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội. 31. Nguyễn Thị Hà (2012), Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH &NV 32. Võ Hồng Hà (2002), “Yếu tố kỳ trong Tây Du Ký”, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 33. Nguyễn Thị Bích Hải (2007), Truyền thống hiếu kỳ trong tiểu thuyết Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr.77 – 83. 34. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. 35. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới biểu tượng, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số (9), tr 55 – 64. 36. Hồ Sĩ Hiệp (2001), Văn học Trung Quốc năm 2000, Tạp chí Văn học số (2), tr. 37 - 40. 37. Hồ Sĩ Hiệp (2005), “Đọc mốt số tác phẩm văn học đương đại Trung Quốc dịch ra tiếng Việt”, Báo văn nghệ trẻ, số 51. 38. Hồ Sĩ Hiệp (2003), Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kỳ mới, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 39. Nguyễn Thị Vũ Hoài (2010), Giấc mơ trong tiểu thuyết mạc Ngôn, - 155 - 40. Vương Kiến Huy, Dịch Ngọc Kim (20041), Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. 41. Trần Quỳnh Hương (2011), Một số tranh luận về văn học đương đại Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (2), tr 91-105 42. Khravchenkô M.B (1978), “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học”, Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội. 43. Lâm Kiến Phát, Vương Nghiêu (2004), Mạc Ngôn và những lời tự bạch (Nguyễn Thị Thại dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 44. Huy Liên (2003), Wiliam Faulkner và những sáng tạo nghệ thuật của tiểu thuyết m thanh và cuồng nộ, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (10), tr.37 - 44. 45. Nguyễn Thị Mai Liên, (2014), Đặc trưng thi pháp nhân vật trong sử thi Ramayana, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội. 46. Giáp Thị Liễu (2013), Cái đẹp và cái xấu trong Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 47. Nguyễn Thị Khánh Linh (2007), Yếu tố kỳ ảo trong Báu vật của đời, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 48. Bùi Thùy Linh (2014), Bầu vú và nguyên lý tính mẫu trong Báu vật của đời, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (6), tr. 31 - 41. 49. Lê Nguyên Long (2006), Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (9), tr. 40 - 54. 50. Phùng Ký Tài (1998), Gót sen ba tấc, (Phạm Tú Châu dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ. 51. Lỗ Tấn (1996), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Luơng Duy Tâm dịch, Nhà xuất bản Văn hoá. 52. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 53. Phương Lựu (2001), Lý luận và phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. - 156 - 54. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. 55. Phương Lựu (chủ biên), (2004), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 56. Phương Lựu (2010), Khái quát và tranh luận trực tiếp về văn hóa hậu hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr. 3 - 16. 57. W. Scott Morton, C.M.Lewis (2008), Lịch sử và văn hóa Trung Quốc, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 58. Bửu Nam (2012), Toàn cầu hóa và xu hướng tiểu thuyết “liên văn hóa” trong văn học thế giới, Kỷ yếu hội thảo khoa học Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong bối cảnh ngày nay, Đại học Sư phạm Huế. tr. 107-114 59. Trần Thị Ngoan (2009), Biểu tượng tiêu biểu trong Báu vật của đời, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 60. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 61. Mạc Ngôn (2007 tái bản), Cao Lương Đỏ (Lê Huy Tiêu dịch), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 62. Mạc Ngôn (2001), Báu vật của đời (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh 63. Mạc Ngôn (2003), Cây tỏi nổi giận, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 64. Mạc Ngôn (2003), Đàn hương hình (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội. 65. Mạc Ngôn (2003), Rừng xanh lá đỏ, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản văn học, Hà Nội. 66. Mạc Ngôn (2004), 41 chuyện tầm phào, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 67. Mạc Ngôn (2004), Chuyện văn chuyện đời (Nguyễn Thị Thại dịch), Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội. - 157 - 68. Mạc Ngôn (2004), Tửu Quốc (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 69. Mạc Ngôn (2007), Thập tam bộ, (Trần Trung Hỷ dịch), Nhà xuất bản Văn nghệ. 70. Mạc Ngôn (2007), Sống đoạ thác đày (Trần Trung Hỷ dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội. 71. Mạc Ngôn (2010), Ếch (Nguyên Trần dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 72. Mạc Ngôn (2006), Bảo vệ sự tôn nghiêm của tiểu thuyết dài, (Phan Trọng Hậu dịch), Báo Văn nghệ số 43. 73. Nhiều tác giả (1983; 1984), Từ điển văn học (tập 1; 2), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 74. Hoàng Phê (chủ biên), (1998), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học. 75. Nguyễn Khắc Phê (2002), “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn qua hai tiểu thuyết Báu vật của đời và Đàn hương hình”, Tạp chí Sông Hương, số (12), tr.77 - 81. 76. Nguyễn Khắc Phi, Trương Chính (1987), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 77. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học cổ Trung Quốc và văn học Việt Nam qua cái nhìn so sánh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 78. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội. 79. Rjanskaya L.P. (2007), Liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lý thuyết của vấn đề (Ngân xuyên dịch), Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (11), tr. 195 - 212. 80. Trần Minh Sơn (Giới thiệu tuyển chọn và dịch) (2004), Phê bình văn học Trung Quốc đương đại, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 81. Diệp Tú Sơn (2004), Mỹ học tiểu thuyết, (Nguyễn Kim Sơn dịch), Tư liệu Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN. 82. Đặng Đức Siêu (2005), Văn hóa Trung Hoa, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội. - 158 - 83. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 84. Trần Đình Sử (1996), Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, Tạp chí Văn học, số (1), tr. 31 -35 85. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 86. Cao Nhĩ Thái (1990), Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Trung Quốc đương đại, Tạp chí Văn học, số (6), tr.71- 75. 87. Phan Thị Tâm Thanh (2011), Tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Huế. 88. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ chí Minh. 89. Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2011), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. 90. Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2013), Tự sự kiểu Mạc Ngôn, Nhà xuất bản văn học, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây 91. Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2007), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế 92. Trần Nho Thìn (2010), Một vài vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu so sánh văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 1. 93. Lê Huy Tiêu (biên dịch) (1993), Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc, Nhà xuất bản Khoa học xã hôi, Hà Nội. 94. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hoá, văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 95. Lê Huy Tiêu (2006), Sự đổi mới thi pháp đương đại Trung Quốc, Tạp chí Văn học nước ngoài số (2), tr. 154 - 162. 96. Lê Huy Tiêu (2008), “Thử phản biện Mạc Ngôn”, Báo Văn nghệ, số (46), tr. 12. - 159 - 97. Lê Huy Tiêu (2011), Tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 98. Lê Huy Tiêu (2003), “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số (4), tr. 16 - 24. 99. Lê Huy Tiêu (2012), “ Con đường Mạc Ngôn đi tới giải Nobel văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (134), tr. 57-60. 100. Phùng Văn Tửu (2006), “Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (5), tr. 20 - 25. 101. Tzevan Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội. 102. Vương Văn Anh (chủ biên) (2005), Văn học hiện đại Trung Quốc nhìn từ Thượng Hải (Phạm Công Đạt dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 103. Tiền phong, Trần Đăng khoa: Thấy Mạc Ngôn được giải Nobel mà sốt cả ruột! Đang-Khoa-Thay-Mac- Ngon-doat Nobel-ma-sot-ca-ruot-tpp.html B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG TRUNG 104. 程文超,郭冰茹 (主编)(2006), 中国当代小说叙事演变史,中国社 会科学出版社。 105. 陈思和 (2002), 莫言近年小说的民间叙述,中国当代文学关键词十 讲,上海:复旦大学出版社。 106. 樊保玲 (2003), 现代与传统的纠结:莫言小说叙事分析,硕士学位论 文,扬州大学。 107. 洪亮 (2008), 背叛与复归间的彷徨- 从莫言小说的艺术形式其对故乡的 复杂心理,硕士学位论文,福建师范大学。 108. 李业根 (2007),莫言小说狂欢化叙事研究,硕士学位论文,南昌大学. 109. 李悔吾 (1997), 中国小说史漫稿,湖北教育出版社。 110. 鎏叶秋,苑育新,许振生 (1992), 成语熟语词典,商务印书馆,北京。 - 160 - 111. 莫言 (2007), 说吧,莫言 -仿伎对话集,广东海天出版社。 112. 莫言,王尧 (2003), 莫言王尧对话录,苏州:苏州大学出版社。 113. 莫言研究会 (2006),“高密莫言研究会” 成立, 114. 莫言的写作风格是什么, uery 115. 宁宗 (1995), 中国小说学通论,安徽教育出版社。 116. 苏方强 (2005), 民族与超越民族的莫言小说论,硕士学位论文,山东 师范大学。 117. 石昌渝 (1994), 小说,中国古代文体丛书,人民文学出版社。 118. 陶文刘(2008),以“丰乳肥臀” 为例论莫言小说对越南文学的影 响,硕士学位丈,中山大学。 119. 苏静(2006),“独特的腔调”- 莫言小说创作的叙述学研究,硕士 学位论文,山东师范大学。 120. 苏忠钊 (2007), 放逐于美与丑之间 - 莫言小说审美特征论,硕士学位 论文,西北师范大学。 121. 王保中 (2008), 莫言小说的魔幻现实主义风格, 硕士学位论文, 河南 大学。 122. 王剑引(责任编辑)(1985), 中国成语大辞典,上海辞书出版社。 123. 王娟 (2007), 莫言小说与间叙事 - 从“檀香刑” 到“生死疲劳”看莫 言的创作转型,硕士学位论文,苏州大学。 124. 王尧, 林健法 (2003), 对话录, 苏州大学出版社 125. 吴蓓 (2007), 中国式的“狂欢”- 论莫言长篇小说的莫言体特征,学位 论文,山东师范大学。 126. 吴超 (2009), 苍白而狂乱 - 莫言长篇历史小说批判,硕士学位论文, 西南大学。 - 161 - 127. 严晓蓉 (2004), 莫言小说艺术论,硕士学位论文,浙江师范大学人文学院。 128. 杨杨 (2005), 莫言研究資料, 中国当代作家研究资料丛书, 天津人民出 版社。 129. 叶开 (2008), 莫言评传,河南:河南文艺出版社。 130. 徐国兵 (2004), 莫言小说的叙事学价值, 硕士学位论文, 苏州大学。 131. 张爱萍 (2007), 莫言小说语言研究, 硕士学位论文, 安徽大学。 132. 张开艳 (2006), 论莫言小说的狂欢化叙事,广州师范大学。 133. 莫言研究会 (2006), “高密莫言研究会" 成立, 134. 孟文彬 (2012), 齐文化视野的文学创作及其审美风格:张炜与莫言, 文 学与艺术研究. 135. 周宾忠 (2006),莫言与福克纳比较研究,博士学位论文,武汉大学. 136. 周红霞 (2003), 90年代后莫言小说论,硕士学位论文,山东师范大学. 137. 吴树新 (2012), 莫言文学创作及其成就的文化解读,渊安徽省社会科学 院社会学所,合肥. 138. 范文明 (2013), 莫言作品在越南的翻译与研究, 山西大学学报 (哲学社 会科学报)。 139. 孔小彬 (2013), 论莫言小说的中国想象, 上海师范大学 人文与传播学 院, 上海. 140. 贺重明(2012), 莫言的乡村立场和文学意义,山东大学文学与新闻传播 学院. 141. 栾梅健 (2013), 民间传说-论莫言的文学观, 当代作家评论. 142. 张艳梅 (2013), 历史文化视野中的莫言,山西大学学报(哲学社会科学报. 143. 宁明 (2012), 莫言海外研究述评, 山东大学外国语学院. 144. 赵云洁 (2013), 众声喧哗悲族哀歌-论莫言“檀香刑” 中猫腔的艺术价 值,昭通学院学报。 145. 徐露 (2011), “檀香刑”的民间叙事,硕士学位论文,中南大学。 - 162 - 146. 孙荣 (2014), 试析“檀香刑” 中的刑罚文化,阿坝师范高等专科学 校,四川 阿坝洲。 147. 杨巍 徐今 (2014), 莫言“檀香刑”与中国式传奇的回归,大连理工大 学 辽宁大连。 148. 田文兵 (2012), 个人情感与民族叙事的融合 - 论莫言“丰乳肥臀” 中 情书写的文化隐喻,海南师范大学学报(社会科学版)。 149. 浅析莫言《檀香刑》的文化内涵, 150. 解读 思考 莫言, C. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH 151. Alexander C. Y. Huang, Howard Goldblatt (2009), Mo Yan as Humorist, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 32-37. 152. Amor C. Dimaano (2015), The 20th Century World of Mo Yan: A Corpus-Based Approach, Ateneo Chinese Studies Program Lecture Series, No. 2, pp. 32-45. 153. Angelica Duran, Yuhan Huang (2014), Mo Yan in context: Nobel laureate and global storyteller, Purdue University Press. 154. David Der-Wei Wang, Michael Berry (2000), The Literary World of Mo Yan, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 487-494. 155. Duke, Michael (1993), “Past, Present, and Future in Mo Yan‟s Fiction of the 1980s”, In: Ellen Widmer, David Der-wei Wang (1993), From May Fourth to June Fourth: Fiction and Film in Twentieth-Century China, Cambridge, Harvard University Press, pp. 295-326. 156. Goldblatt, Howard (2000), Forbidden Food: „The Saturnicon‟ of Mo Yan, World Literature Today. Vol. 74, No. 3 : 477-485. 157. Haiyan Lee (2009), Mo Yan: Laureate of the 2009 Newman Prize for Chinese Literature, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 25. - 163 - 158. Howard Goldblatt (2009), Mo Yan's Novels Are Wearing Me out: Nominating Statement for the 2009 Newman Prize, World Literature Today, Published by: University of Oklahoma, Vol. 83, No. 4, pp. 28-29. 159. Janice Wickeri (1993), Explosions and Other Stories by Mo Yan, The Australian Journal of Chinese Affairs, Vol. 29, pp. 195-196. 160. Jonathan Stalling (2012), Mo Yan and the Technicians of Culture, World Literature Today, (October 29, 2012). 161. Larry Siems, Jeffrey Yang. “China’s Nobels.” New York Times 18 Oct. 2012. 162. Lauring, Jakob (2011). "Intercultural Organizational Communication The Social Organizing of Interaction in International Encounters". Journal of Business and Communication 48.3: 231–255. 163. Leach, Jim (2011). The Real Mo Yan . Humanities Vol. 32, No. 1: 11–13. 164. Lionel M. Jensen (Editor), Timothy B Weston (Editor) (2007), China's Transformations: The Stories beyond the Headlines, The University of Chicago Press on behalf of the College of Asia and the Pacific, The Australian National University. 165. Liu Hongtao, Haiyan Lee (2009), Mo Yan's Fiction and the Chinese Nativist Literary Tradition, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 30-31. 166. Mo Yan, Benbiao Yao (2010). A Writer Has a Nationality, but Literature Has No Boundary. Chinese Literature Today, Published by: University of Oklahoma Vol. 1, No. 1, pp. 22–24. 167. Mo Yan, Noël Dutrait, Tina Frow (2000), The Republic of Wine by Mo Yan: Interview with the author, China Perspectives, No. 29, pp. 57-62. 168. Mo Yan as Storyteller: A Conversation with Chinese writer and Nobel laureate Mo Yan in Dialogue with Ha Jin. (Nov. 17, 2014) Sponsored by the Fairbank Center for Chinese Studies, the CCK Inter- University Center for Sinology, and the Department of East Asian Languages and Civilizations, Harvard University, from: - 164 - 169. M. Thomas Inge (2000), Mo Yan through Western Eyes, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 501-506. 170. Ning Wang (2013), “Freudianism and twentieth-century Chinese literature”, In: Tao Jiang, Philip J. Ivanhoe (2013), The Reception and Rendition of Freud in China: China‟s Freudian Slip, published in the USA and Canada by Routledge. 171. Omid Akhavan (2015), Samsara, Karma, and Self-Enlightenment: A Buddhist Perspective on Mo Yan‟s Life and Death Are Wearing Me Out, Studies in Literature and Language, Vol. 10, No. 2, pp. 11-18. 172. Omid Akhavan, Esmaeil Zohdi (2015), Mo Yan‟s Life and Death Are Wearing Me Out: A Conceptual Integration Analysis, International Journal of Applied Linguistics & English Literature ,Vol. 4, No. 1, pp. 79-88. 173. Ouyang Yu (2013), Mo Yan, My China, Self-Colonization and Hallucination, Antipodes, Published by: Wayne State University Press, Vol. 27, No. 1, pp. 99-104. 174. Rong Cai (2003), Problematizing the Foreign Other: Mother, Father, and the Bastard in Mo Yan's "Large Breasts and Full Hips", Modern China, Vol. 29, No. 1, pp. 108-137. 175. Rong Cai (2004), "Mirror of the Self:The Foreign Other in Mo Yan‟s Large Breasts and Full Hips", In: The Subject in Crisis in Contemporary Chinese Literature, University of Hawai'i Press , pp. 154-178. 176. Shelley W. Chan (2000), From Fatherland to Motherland: On Mo Yan's Red Sorghum & Big Breasts and Full Hips, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 495-500. 177. Spence, Jonathan (2008), “Born Again.” Rev. of Life and Death Are Wearing Me Out by Mo Yan. New York Times, 4 May. 178. Trevisani, Daniele (2005). Negoziazione interculturale. Comunicare oltre le barriere culturali. Translated title: Intercultural Negotiation: Communication Beyond Cultural Barriers, Milan, Franco Angeli - 165 - 179. Yinde Zhang, Jonathan Hall (2010), The Fiction of Living Beings: Man and Animal in the Work of Mo Yan, China Perspectives, Published by: French Centre for Research on Contemporary China, Vol. 83, No. 3, pp. 124-132. 180. Yinde Zhang, Jonathan Hall (2011), The (Bio)political Novel: Some Reflections on "Frogs" by Mo Yan, China Perspectives, Published by: French Centre for Research on Contemporary China, Vol. 88, No. 4, pp. 53-61. 181. Yomi Braester (2003), The Columbia Companion to Modern East Asian Literature: Mo Yan and red sorghum, Columbia University Press, pp. 541-545. 182. Victoria Xiaoyang Liu (2014), The Reception of Mo Yan in the British and North American Literary Centers, Stockholm University (Master Thesis Literature). 183. Wang Xinyan (2014), García Márquez‟s Impact and Mo Yan‟s Magical Realism, Studies in Literature and Language, Vol. 9, No. 3, pp. 214-217. 184. Wendy Larson (2013), “Psychology and Freudian Sexual Theory in Early 20th Century China”, In: From Ah Q to Lei Feng, Published by Stanford University Press, e-ISBN: 9780804769822.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_thuyet_mac_ngon_tu_goc_nhin_lien_van_hoa_3797.pdf
Luận văn liên quan