Luận án Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay

Trong quá trình phát triển KT -XHnói chung, TTKTnói riêng đã nảy sinh nhiều vấn đềvềtài nguyên, môi trường và bảo vệMTST. Các vấn đềnày chính là những trở ngại, thách thức của quá trình phát triển. Nếu chúng ta vượt qua được các trởngại, thách thức đó, gắn chặt sựtăng trưởng của kinh tế với bảo vệMTST, đất nước sẽđạt tới trạng thái PTBV. Tuy nhiên, đó là cả một quá trình lâu dài và đầy gian khổ, đòi hỏi phải có sựnỗlực cốgắng của mọi người, mọi cấp, mọi ngành từtrung ương đến địa phương, mà trước hết là ởvai trò quản lý của Nhà nước trong kết hợp chặt chẽgiữa TTKT với bảo vệ MTST. Vai trò ấy của Nhà nước biểu hiện ở chỗ thông qua khả năng điều khiển, chi phối của Nhà nước đối với các hành vi của các cá nhân, tổchức trong các hoạt động kinh tế, MTST sẽđược bảo vệvà phục hồi. Vềmặt phương pháp luận, có thểđánh giá vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST theo nhiều phương diện,lát cắt khác nhau. Song, trong luận án này, chúng tôi đánh giá vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST trên bốn nội dung, đó là: Vai trò của Nhà nước trong việc đềra hệthống pháp luật, chính sách, chiến lược vềkết hợp giữa TTKT và bảo vệMTST;Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST; Vai trò của Nhà nước trong việc tổchức thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa TTKT với bảo vệMTST; Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội đểthực hiện việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệMTST.

pdf176 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2130 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi” [55, tr.166], “Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức bảo động” [55, tr. 169], đặc biệt chúng ta “Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề” [55, tr.169]. Hạn chế này, tất nhiên còn có thể do nhiều nguyên nhân khác, song nguyên nhân chủ quan thuộc về trách nhiệm của cá nhân các chủ thể kinh tế là quá rõ ràng. Sự thiếu trách nhiệm của cá nhân trong lao động sản xuất không những không đem lại hiệu suất cao trong lao động mà còn cản trở việc bảo vệ MTST. Không ít các cá nhân với tư cách chủ thể sản xuất kinh doanh quay lưng trước thực trạng môi trường sống ngày càng xuống cấp trầm trọng; gian lận trong sản xuất kinh doanh, làm hàng nhái, hàng giả; nhẫn tâm với quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng khi cung cấp cho thị trường những sản phẩm kém chất lượng, làm ô nhiễm môi trường sống. Trước thực trạng này, Nhà nước cần phải có những biện pháp nhằm gắn trách nhiệm cá nhân với các hoạt động sản xuất kinh doanh và yêu cầu về bảo vệ MTST. Các biện pháp đó có thể là: Thứ năm: Nhà nước đã trao cơ hội sản xuất, kinh doanh cho mọi cá nhân, do đó, Nhà nước cũng phải đưa ra các biện pháp buộc mọi cá nhân, nhất là các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý phải nâng cao và phát huy trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng trong bảo vệ MTST. Biện pháp mà Nhà nước sử dụng 142 để đạt hiệu quả cao nhất là thông qua cơ chế lợi ích, bởi “chính lợi ích là cái liên kết các thành viên của xã hội” [89, tr.183] lại với nhau, và, “con người độc lập chỉ liên hệ với người khác thông qua cái nút là lợi ích” [89, tr.172]. Thứ sáu: Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường đề cao tự do cá nhân, là môi trường dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta chấp nhận kinh tế thị trường nghĩa là chúng ta chấp nhận cả những mặt tiêu cực của nó, biết rõ mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những chủ thể sản xuất kinh doanh có đạo đức, có trách nhiệm, biết bảo vệ MTST thì vẫn còn có những người vì lợi ích cá nhân mà tiến hành tàn sát và gây ô nhiễm nặng nề cho MTST. Thực trạng này đã và đang báo động trong xã hội ta ngày nay, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng pháp luật để điều chỉnh lợi ích cá nhân, phát huy lợi ích tập thể, xã hội. Bên cạnh việc sử dụng pháp luật, Nhà nước còn cần phải sử dụng cả đạo đức để điều chỉnh lợi ích cá nhân. Nhà nước có thể sử dụng biện pháp này thông qua việc giáo dục ý thức đạo đức, trách nhiệm xã hội cho mọi cá nhân, giúp họ nhận thức được giá trị của việc đặt lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, để từ đó họ “ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người” [90, tr.16]. Thứ bẩy: Việc sử dụng cơ chế lợi ích còn yêu cầu Nhà nước phải có những biện pháp nâng cao trách nhiệm của cá nhân là người đứng đầu các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên, môi trường. Có những cơ chế, chính sách quy trách nhiệm cụ thể và có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những cá nhân là người đứng đầu cố tình làm sai nguyên tắc của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ MTST vì lợi ích cá nhân. Thứ tám: Mở rộng, phát huy dân chủ trong gắn kết giữa TTKT và bảo vệ MTST cũng là một trong những nội dung mà Nhà nước cần phải quan tâm để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST. Như Hồ Chí Minh đã từng nói, Đảng và Nhà nước ta cần làm cho dân biết hưởng quyền làm chủ, biết dùng quyền làm chủ, từ đó họ dám nói, dám làm và như thế, Nhà nước mới 143 vững mạnh. Đối với quá trình kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, mở rộng và phát huy dân chủ sẽ tạo điều kiện để tất cả mọi người, mọi nhà không phân biệt địa vị, tôn giáo... được hưởng lợi từ MTST, và do đó, họ có nghĩa vụ bảo vệ MTST theo nguyên tắc MTST là tài sản công, có giá trị hữu ích, gắn bó mật thiết với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Biện pháp để Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST là tạo mọi điều kiện để nhân dân sử dụng quyền làm chủ của mình tham gia vào khai thác, bảo vệ MTST để mưu cầu lợi ích cá nhân và bảo toàn lợi ích cộng đồng. Trong các hoạt động thường ngày, các cấp chính quyền nhà nước phải xem trọng những sự vụ người dân khiếu kiện liên quan tới bảo vệ MTST. Không chỉ dừng lại ở đó, Nhà nước còn phải công khai, minh bạch, làm rõ đúng - sai những điều người dân thắc mắc. Kiên quyết chống lại nạn tham nhũng, quan liêu, tâm tính tư thù cá nhân của cán bộ chính quyền các cấp khi giải quyết các vấn đề liên quan đến khai thác, sử dụng, gây ô nhiễm MTST là một biện pháp quan trọng khác để nâng cao quyền làm chủ của nhân dân trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. Vì lợi ích, nhiều cán bộ sẵn sàng “nhận tiền” của các doanh nghiệp để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm của họ. Đây chính là một trong những nguyên nhân của tình trạng mặc dù người dân đã phát hiện, đã tố cáo hành vi gây ô nhiễm MTST của doanh nghiệp lên các cơ quan công quyền trong nhiều năm liền nhưng không được giải quyết, chỉ đến khi người dân quá bức xúc, tự ý “hành xử” thì mới được Nhà nước quan tâm, giải quyết. Phát huy dân chủ cho nhân dân là “phải để họ có tiếng nói thực sự” và chỉ khi nào điều này trở thành hiện thực, Nhà nước mới phát huy được một lực lượng đông đảo giám sát, ngăn ngừa các hành vi hủy hoại, gây ô nhiễm MTST. Như vậy, việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST là rất cần thiết. Đó là yêu cầu khách quan, không chỉ để kinh tế tăng trưởng, mà ở ý nghĩa sâu xa, nó còn bảo đảm mục tiêu chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Điều này không thể đến một cách tự nhiên mà phải thông qua sự tác động có chủ 144 đích của kiến trúc thượng tầng chính trị mà trước hết là Nhà nước với các nhân tố khác của nó cùng với toàn thể quần chúng nhân dân. 4.3.3. Kết hợp giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Bảo vệ MTST là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, sự tham gia tích cực của các tổ chức CT - XH như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… và các hiệp hội như Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường… Về thực chất, đây là một nội dung quan trọng trong xã hội hóa công tác bảo bảo vệ MTST. Vai trò của các tổ chức CT - XH, các hiệp hội trong bảo vệ MTST được Nhà nước quán triệt trong nhiều văn bản pháp quy quan trọng. Gần đây nhất là Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định hướng đến 2020. Chiến lược xác định xã hội hóa công tác bảo vệ MTST là một trong 8 giải pháp trọng tâm để đạt được các mục tiêu về môi trường. Chiến lược nhấn mạnh sự cần thiết phải xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với cả các đối tác nhà nước cũng như các đối tác tư nhân khi tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội trong thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ MTST. Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai thực hiện các chiến lược, kết quả thu được cho thấy, công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường ở nước ta còn gặp nhiều bất cập. Nhà nước chưa xây dựng được các quy định pháp lý để khuyến khích các tổ chức CT - XH, các hiệp hội tham gia sâu rộng vào công tác bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô nhiễm MTST chưa thấy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức và các hiệp hội bảo vệ MTST tiếp cận, tham gia tìm giải pháp khắc phục. Vẫn còn những đối xử chưa thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp với các tổ chức, các hiệp hội trong quá trình 145 thanh tra, kiểm tra, xử lý các điểm nóng ô nhiễm MTST. Những bất cập này đòi hỏi Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách để phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các tổ chức CT - XH, các hiệp hội trong lĩnh vực bảo vệ MTST. Theo chúng tôi, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau đây: Thứ nhất: Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư nhiều hơn trong bảo vệ MTST. Để đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút sự tham gia rộng rãi hơn nữa của các tổ chức CT - XH và các hiệp hội vào bảo vệ MTST. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã và đang tích cực xây dựng, ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong bảo vệ môi trường. Các chính sách này được quy định trong một số văn bản: Luật Bảo vệ môi trường 2005; Nghị định số 04/2009/NĐ-CP về Ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; Quyết định 130/2007/ QĐ-TTg về Một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch (CDM); Các quỹ bảo vệ môi trường ở Việt Nam… Các chính sách này ra đời đã có tác dụng rõ rệt đối với công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, để bảo vệ MTST cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh. Do vậy, tăng cường công tác tài chính cho các tổ chức CT - XH và các hiệp hội để họ làm tốt công tác bảo vệ MTST là việc làm cần thiết. Các chính sách về tài chính mà Nhà nước đưa ra cần công khai, rõ ràng; đặc biệt, Nhà nước cần có các cơ chế kiểm tra, giám sát nguồn tài chính đó để chúng được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Thứ hai: Trong điều kiện nguồn tài chính cấp cho những tổ chức làm công tác bảo vệ MTST còn hạn hẹp, Nhà nước nên tổ chức các buổi truyền thông, diễn đàn kêu gọi các tổ chức, hiệp hội đầu tư vào các công trình, dự án, hoạt động bảo vệ MTST. Tăng cường cơ chế trao đổi thông tin liên quan đến lĩnh vực bảo vệ MTST, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hiệp hội có những đóng góp hữu ích cho công tác bảo vệ MTST. Thứ ba: Việc bảo vệ MTST không chỉ có quan hệ tác động hỗ trợ đối với sự phát triển KH - XH bền vững mà trong quá trình đó, luôn luôn phát sinh những xung đột về lợi ích giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội; giữa các chủ 146 thể trong việc hưởng thụ, sử dụng các thành phần môi trường với việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Do vậy, Nhà nước phải đóng vai trò là người tạo dựng, gắn kết các tổ chức CT - XH với các doanh nghiệp và mọi người dân để cùng chia sẻ lợi ích từ MTST, cùng nhau bảo vệ MTST. Nhà nước nên sử dụng biện pháp tăng cường năng lực cho các tổ chức, hiệp hội để họ nhận biết sâu sắc vai trò, vị trí, quyền lợi, trách nhiệm của mình trong bảo vệ MTST. Các hình thức chủ yếu để tăng cường năng lực cho các tổ chức, các hiệp hội là: tổ chức các khoá tập huấn, tổ chức các đợt tham quan học tập để trao đổi, học tập kinh nghiệm, gửi các đại diện đi tham quan học tập các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường ở trong và ngoài nước. Thứ tư: Tăng cường quyền tiếp cận thông tin, đối thoại cho các tổ chức, hiệp hội, giúp họ có đủ những thông tin cần thiết để đi đến sự đồng thuận hơn trong quá trình thảo luận, tham gia ý kiến góp ý với Nhà nước về gắn TTKT với bảo vệ MTST. Thứ năm: Tăng cường thể chế, cơ chế chính sách cho các tổ chức chính trị và các hiệp hội trong lĩnh vực bảo vệ MTST. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ MTST, trong cộng đồng đã lập ra một số tổ chức khác nhau với vai trò là “hạt nhân” và mang tính “tự quản” như câu lạc bộ, ban điều hành, tổ, nhóm phụ nữ, cựu chiến binh... theo sự hướng dẫn và chỉ đạo từ các tổ chức đoàn thể của mình. Nhà nước đã có những văn bản pháp lý công nhận quyền của cộng đồng tham gia công việc chung như Nghị định 80/NĐ-CP của Chính phủ về Quy định Giám sát đầu tư của cộng đồng, Pháp lệnh 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dân chủ cơ sở ở xã phường... Tuy nhiên, chính quyền các cấp cơ sở vẫn cần tiếp tục xác định một mô hình thể chế cấp cộng đồng chuẩn và các cơ chế chính sách liên quan để hoàn thiện khung thể chế - chính sách cấp cộng đồng, nhằm thực hiện tốt nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng lợi. Trong đó, ưu tiên giao thêm quyền cho các tổ chức, các hiệp hội, khuyến khích vật chất, đảm bảo lợi ích cho các tổ chức này để họ làm tốt công việc của mình. 147 Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách để xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức CT - XH, các hiệp hội với nhau để thiết lập sự đồng thuận và cùng chung chí hướng trong bảo vệ MTST. Đây cũng là yêu cầu thiết yếu đảm bảo tạo ra nguồn lực đủ lớn để giải quyết các vấn đề môi trường trong điều kiện kinh phí còn hạn hẹp. Nhà nước phải xây dựng được mạng lưới rộng rãi giữa các tổ chức, hiệp hội tham gia bảo vệ MTST, trên cơ sở đó, kết nối các cơ quan, đơn vị, cá nhân, cộng đồng trong và ngoài nước nhằm góp phần phát huy hiệu quả tổng hợp các nguồn lực phục vụ cho việc duy trì bền vững mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ MTST. Kết luận chương 4 Thực hiện gắn kết TTKT với bảo vệ MTST là một trụ cột quan trọng trong PTBV. Ở tầm vĩ mô, đó còn là nội dung có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Để đạt được mục tiêu gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST, cần phải có nhiều giải pháp khác nhau. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, từng giải pháp sẽ có vai trò, vị trí khác nhau trong tổng thể chiến lược TTKT gắn với bảo vệ MTST. Do đó, việc ưu tiên giải pháp nào cần thiết phải được nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng gắn với quan điểm lịch sử - cụ thể nhất định. Trong chương 4, để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về gắn TTKT với bảo vệ MTST, luận án đã nêu và phân tích một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế đặt ra từ việc thực hiện vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay. Các nhóm giải pháp mà luận án nêu ra, bao gồm: Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST; Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chức bộ máy nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTMT; 148 Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Theo chủ kiến của tác giả luận án, trong điều kiện thực tế về gắn TTKT với bảo vệ MTST đang hiện hữu ở Việt Nam hiện nay, thì việc Nhà nước sử dụng đồng bộ các giải pháp trên sẽ nâng cao vai trò của Nhà nước trong gắn TTKT với bảo vệ MTST; đảm bảo rằng việc khai thác TNTN và các thành phần môi trường sinh thái sẽ không chỉ giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng vững chắc, mà MTST, qua đó, sẽ có thêm điều kiện để tái tạo và phục hồi. Như một yêu cầu thiết yếu, để thực hiện được các giải pháp nêu trên, cần đặc biệt chú trọng đến chức năng quản lý của Nhà nước. Chỉ có Nhà nước cùng với bộ máy của nó mới có thể thực hiện gắn kết đồng bộ cùng một thời điểm các giải pháp đó để vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, vừa bảo vệ MTST theo mối quan hệ biện chứng và gắn bó mật thiết với nhau. 149 KẾT LUẬN Trong quá trình phát triển KT - XH nói chung, TTKT nói riêng đã nảy sinh nhiều vấn đề về tài nguyên, môi trường và bảo vệ MTST. Các vấn đề này chính là những trở ngại, thách thức của quá trình phát triển. Nếu chúng ta vượt qua được các trở ngại, thách thức đó, gắn chặt sự tăng trưởng của kinh tế với bảo vệ MTST, đất nước sẽ đạt tới trạng thái PTBV. Tuy nhiên, đó là cả một quá trình lâu dài và đầy gian khổ, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của mọi người, mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến địa phương, mà trước hết là ở vai trò quản lý của Nhà nước trong kết hợp chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Vai trò ấy của Nhà nước biểu hiện ở chỗ thông qua khả năng điều khiển, chi phối của Nhà nước đối với các hành vi của các cá nhân, tổ chức trong các hoạt động kinh tế, MTST sẽ được bảo vệ và phục hồi. Về mặt phương pháp luận, có thể đánh giá vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST theo nhiều phương diện, lát cắt khác nhau. Song, trong luận án này, chúng tôi đánh giá vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST trên bốn nội dung, đó là: Vai trò của Nhà nước trong việc đề ra hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược về kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST; Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST; Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST; Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội để thực hiện việc kết hợp giữa TTKT và bảo vệ MTST. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST theo bốn nội dung nêu trên được đánh giá cụ thể và khẳng định kể từ khi tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật; tiến hành tổ chức thực hiện và tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội vào kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Ở một phương diện nhất định, Nhà nước đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong các nội dung trên. Nhưng, cũng 150 phải thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, vai trò quản lý của Nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST cũng còn nhiều hạn chế, như: nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước còn những lỗ hổng chưa được khắc phục, nội dung một số chính sách, chiến lược còn chồng chéo lên nhau, công tác tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST còn nhiều sai sót, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra… Để khắc phục tình trạng này, cần phải kết hợp nhiều giải pháp. Trong khuôn khổ có hạn, luận án mới chỉ đề cập đến ba giải pháp có tính nguyên tắc, đó là: Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược về gắn TTKT với bảo vệ MTST; Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của tổ chức bộ máy nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTMT; Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Đây là các nhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt đối với sự PTBV ở đất nước ta không chỉ trong hiện tại mà còn cả mai sau. Vấn đề vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST là một nội dung phong phú, đa dạng và phức tạp. Những vấn đề mà luận án nghiên cứu mới chỉ là tiếp cận bước đầu, trên thực tế còn nhiều nội dung mà tác giả còn phải nghiên cứu, luận giải và làm rõ hơn như: vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng lực lượng sản xuất đảm bảo cho kết hợp chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST; vai trò của Nhà nước trong việc củng cố quan hệ sản xuất đảm bảo cho kết hợp TTKT với bảo vệ MTST; vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST trong hội nhập kinh tế quốc tế… 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN A. Các công trình đã đăng trên các tạp chí: 1. Nguyễn Trường Kháng - Nguyễn Thị Khương (đồng tác giả) (2010), “Giáo dục ý thức phát triển bền vững về môi trường sinh thái cho sinh viên”, Tạp chí Giáo dục, (số 238), tr.57 - tr.63. 2. Nguyễn Thị Khương (2010), “Giáo dục ý thức phát triển bền vững về môi trường sinh thái cho sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số 6), tr.8-11. 3. Nguyễn Thị Khương (2011), “Vai trò quản lý của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số 4), tr.87-90. 4. Nguyễn Thị Khương (2011), “Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên với việc giáo dục đạo đức học môi trường cho sinh viên”, Tạp chí Giáo dục, (số 6), tr.60-62. 5. Nguyễn Thị Khương (2012), “Tính tất yếu của việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 188), tr.69-71. 6. Nguyễn Thị Khương (2012), “Gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái vì mục tiêu phát triển bền vững: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số 12), tr.71-74. 7. Nguyễn Thị Khương (2013), “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 207), tr.49-52 152 B. Các công trình tham gia đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học: 1. Nguyễn Thị Khương (2011), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên ở các tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học. 2. Nguyễn Thị Khương (2011), Đạo đức học môi trường và vai trò của nhà trường sư phạm trong việc giáo dục đạo đức học môi trường cho thế hệ trẻ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Đại học sư phạm, tr.411-415. 3. Nguyễn Thị Khương (2013), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong một số tác phẩm của hai ông, Kỷ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tr.85-88. 153 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Quý An (1992), “Những quan điểm chú ý về môi trường và phát triển tại hội nghị Ri-ô 92”, Tạp chí Thông tin, Môi trường, (3). 2. Vũ Đình Bách, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Văn Định (Đồng chủ biên) (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Trần Lê Bảo (Chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội. 5. Hoàng Hữu Bình (Chủ biên) (2006), Những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình CNH, HĐH, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 6. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.cpv.org.vn. 7. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.cpv.org.vn. 8. Bộ Chính trị (2009), Chỉ thị số 29/CT-TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết 41/NQ-TW về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.tuyengiao.vn. 9. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội. 10. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2012), Tổng hợp các số liệu phát triển kinh tế - xã hội các năm, Hà Nội, tại website www.mpi.gov.vn. 11. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, website: www.molisa.gov.vn. 12. Bộ Tài nguyên và Môi trường, website: http//monre.gov.vn. 154 13. Bộ Thương mại (1998), Môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (1995) (Việt - Anh), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Chính phủ Cộng hòa Nam Phi (2011), Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, tổ chức tại Pretoria, Cộng hòa Nam Phi. 16. Chính phủ Việt Nam (1995), Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm giai đoạn 1995 - 2005, www.chinhphu.vn. 17. Chính phủ Việt Nam (2000), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2020, www.chinhphu.vn. 18. Chính phủ Việt Nam (2002), Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, www.chinhphu.vn. 19. Chính phủ Việt Nam (2003), Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010, www.chinhphu.vn. 20. Chính phủ Việt Nam (2003), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, www.chinhphu.vn. 21. Chính phủ Việt Nam (2004), Chiến lược Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, www.chinhphu.vn. 22. Chính phủ Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, www.chinhphu.vn. 23. Chính phủ Việt Nam (2005), Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, www.chinhphu.vn. 24. Chính phủ Việt Nam (2006), Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường, www.chinhphu.vn. 25. Chính phủ Việt Nam (2006), Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trong 5 năm 2006 - 2010, www.chinhphu.vn. 155 26. Chính phủ Việt Nam (2006), Giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, www.chinhphu.vn. 27. Chính phủ Việt Nam (2006), Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, www.chinhphu.vn. 28. Chính phủ Việt Nam (2007), Chiến lược về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến 2020, www.chinhphu.vn. 29. Chính phủ Việt Nam (2008), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, www.chinhphu.vn. 30. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, www.chinhphu.vn. 31. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược Quốc gia về Biến đổi khí hậu, www. chinhphu.vn. 32. Chính phủ Việt Nam (2012), Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, www.chinhphu.vn. 33. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, www.chinhphu.vn. 34. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, www.chinhphu.vn. 35. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh, www. chinhphu.vn. 36. Chính phủ Việt Nam (2012), Quy định việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, www.chinhphu.vn. 37. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Biện chứng của tự nhiên và giá trị hiện thời của nó, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền vững”, Tạp chí Triết học (1/164). 156 39. Hoàng Duy Chúc (2004), Tập bài giảng Môi trường và con người (Sinh thái - nhân văn), Hà Nội. 40. Chương trình phát triển Liên hiệp quốc, Website: www.undp.org.vn. 41. Hoàng Đình Cúc (2009), “Phát triển bền vững ở Việt Nam: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Triết học, (8). 42. Cục Cảnh sát môi trường, website: www.canhsatmoitruong.gov.vn. 43. Cục Môi trường (2002), Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972- 1992-2002, Hà Nội. 44. Nguyễn Thị Doan (2010), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4). 45. Vũ Trọng Dung (2009), Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Phan Thị Hồng Duyên (2008), “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con người và giới tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (1). 47. Bùi Văn Dũng (1999), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội. 51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 157 54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 57. Trần Thọ Đạt (Chủ biên) (2005), Các mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb Đại học kinh tế quốc dân. 58. Lê Cao Đoàn, (1993) Phát triển kinh tế: lịch sử và học thuyết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Lê Thị Thanh Hà (2011), “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường”, Tạp chí Triết học, (8). 60. Lê Thị Thanh Hà (2013), Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị - Hành chính. 61. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2005), Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 62. Nguyễn Minh Hằng, “Môi trường sinh thái - vấn đề của mọi người”, http//www.hcmush.edu.vn. 63. Nguyễn Văn Hậu (2013), “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1). 64. Trần Đắc Hiến (2009), “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, (11). 65. Hiệp hội các hội đồng nghiên cứu Khoa học xã hội châu Á (AASSREC) (2007), Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá, Hội thảo. 66. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2013), Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23, tổ chức tại Brunei 158 67. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống”, Tạp chí Triết học, (8). 68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Kinh tế chính trị Mác - Lênin và một số vấn đề về tổ chức, quản lý kinh tế ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 69. Lê Thị Hồng (2001), Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 70. Hội đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 71. Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2013), Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Hội khoa học và chuyên gia Việt Nam tại Pháp, Xây dựng và phát triển bền vững, Hội thảo Pháp - Việt CIGOS2013 (2013) tổ chức tại Lyon - Pháp 73. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Bộ Tài nguyên và môi trường (2005), Nghị quyết liên tịch về Việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ PTBV. 74. Đỗ Huy (2007), “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng môi trường văn hóa trong lịch trình thế kỷ XXI”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 75. Đỗ Huy (2009), “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (12). 76. Mai Lan Hương (2012), Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), “Trách nhiệm môi trường - một phương diện của trách nhiệm xã hội”, Tạp chí Triết học, (8). 159 78. Trần Thị Thu Hường (2010), Vai trò Nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 79. S.V.Kalesnik (1970), Các quy luật định lý chung của trái đất, Nxb Mátxcơva. 80. Nguyễn Văn Kim (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (316). 81. Đỗ Thị Ngọc Lan (2011), “Từ cảnh báo của Ăng ghen về thảm họa thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái”, Tạp chí Lý luận chính trị (7). 82. Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội. 83. Trần Thanh Lâm (1998), “Quản lý, bảo vệ môi trường - hiện trạng và giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (21). 84. Trần Thanh Lâm (2006), Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 85. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 86. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 88. Liên hiệp quốc (2012), Hội nghị Liên hiệp quốc về Phát triển bền vững (Rio+20), tổ chức tại Brazil 89. C. Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 90. C. Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 91. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 160 92. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 94. C.Mác-Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 95. C.Mác-Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, Tập 32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 96. C.Mác-Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 97. Trần Văn Miều (2004), Tuổi trẻ Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ môi trường, Hà Nội, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 98. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 99. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 100. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 101. Ngô Quang Minh (2010), “Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 102. Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (Đồng chủ biên) (2006), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. 103. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 104. Phạm Hữu Nghị (2005), “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2). 105. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Luật bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành, Hà Nội. 161 106. S.S.Park (1992), Tăng trưởng và phát triển - Tổng sản phẩm vật chất và chiến lược về lao động, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin tư liệu, Hà Nội. 107. Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (Đồng chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108. Quốc hội (1995), Hiến pháp Việt Nam (năm 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 109. Quốc hội (1996), Luật Khoáng sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 110. Quốc hội (2003), Luật Thủy sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 111. Quốc hội (2003), Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 112. Quốc hội (2003), Luật Xây dựng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 113. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 115. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 116. Quốc hội (2005), Luật Đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 117. Quốc hội (2012), Luật Biển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 118. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và Công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 119. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2000), Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 120. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của C. Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 121. Lương Xuân Quỳ, Đỗ Đức Bình (Đồng chủ biên) (2010), Thể chế kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 122. Tô Thị Tâm (2001), Sự tác động của Nhà nước đối với thị trường trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế. 162 123. Nguyễn Văn Thanh (2009), “Xây dựng mô hình kinh tế sinh thái hiện đại trong chiến lược phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (802). 124. Chu Thái Thành (2004), “Mấy vấn đề phát triển bền vững”, Tạp chí Con số và sự kiện, (7). 125. Trần Thành (2012), “Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (10). 126. Hồ Bá Thâm, Đinh Thị Hồng Diễm (Đồng chủ biên) (2012), Toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 127. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (Đồng chủ biên) (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 128. Nguyễn Thị Thơm và An Như Hải (Đồng chủ biên) (2011), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 129. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (Chủ biên) (1998), Văn hóa, lối sống với môi trường, Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn về phát triển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 130. Trần Văn Thuật (2002), “Một số vấn đề phát triển miền núi hiện nay”, Tạp chí Dân tộc và miền núi, (24). 131. Trương Mạnh Tiến (1996), Sự phát triển của thương mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế. 132. Tìm hiểu một số thuật ngữ khái niệm trong các môn lý luận Mác - Lênin (1992), Nxb Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội 133. Nguyễn Cảnh Toàn (2003), “Tổ chức sao cho giáo dục bảo vệ môi trường có hiệu quả”, Báo Giáo dục và thời đại, (2). 134. Tổng cục môi trường, Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010, http//vea.gov.vn. 163 135. Tổng cục thống kê, website: www.gso.gov.vn 136. Phạm Thị Ngọc Trầm (1996), “Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (5). 137. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 138. Phạm Thị Ngọc Trầm (1998), “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề MTST ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6). 139. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), “Về cách tiếp triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Triết học, (6). 140. Phạm Thị Ngọc Trầm (2005), “Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nhân tố xã hội - nhân văn trong quản lý nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và môi trường”, Tạp chí Triết học, (8). 141. Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 142. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), “Xây dựng đạo đức sinh thái - Một trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (6). 143. Lê Nguyễn Hương Trinh (2006), “Về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (11). 144. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về giải quyết các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 145. Phan Quang Trung (2006), “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ môi trường”, Tạp chí Khoa học công nghệ, (6). 146. Trường Đại học kinh tế quốc dân, Bộ môn Kinh tế phát triển (1995), Kinh tế phát triển (Những vấn đề lý luận), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 164 147. Trần Văn Tùng (2002) Mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 148. “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010” (2010), Tạp chí Lý luận chính trị biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, (4). 149. Viện Khoa học năng lượng (2013), Hội thảo Phát triển năng lượng bền vững (SED3). 150. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng. 151. Website: www.hawacom.vn. 152. Website: www.vea.gov.vn. 153. Website: www.undp.org.vn 154. Website: www.vietnamnet.vn. 165 PHỤ LỤC Phụ lục 1 Mức tăng GDP hàng năm (2005 - 2013) (Tỷ lệ: %) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Tỷ lệ 8,44 8,23 8,46 6,31 5,32 6,78 5,89 5,03 5,4 Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê [135] Phụ lục 2 Thu nhập bình quân đầu người theo các năm (Đơn vị tính: USD) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Bình quân 715 723 817 1018 1026,8 1168 1300 1540 1960 Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê [135] Phụ lục 3 Diện tích rừng trồng tập trung ở Việt Nam Giai đoạn Diện tích rừng trồng 1990 - 1995 743 nghìn ha 1996 - 2000 1.096 nghìn ha 2001 - 2005 1,3 triệu ha 2006 - 2010 2 triệu ha Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục môi trường [152] 166 Phụ lục 4 Diện tích rừng bị huỷ hoại hàng năm ở Việt Nam (Đơn vị: nghìn ha) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Diện tích rừng bị cháy 1,5 12,3 - 4,8 7,6 2,4 5,1 1,7 Diện tích rừng bị chặt phá 2,8 5,1 2,0 7,0 10,3 3,1 1,3 2,2 Nguồn: Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam [127] Phụ lục 5 Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam (Đơn vị: %) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Tỷ lệ 22 15,5 14,75 13,5 12,3 10,7 11,76 9,64 Nguồn: Tổng hợp từ website www.molisa.gov.vn [11] Phụ lục 6 Số lao động đang làm việc trong năm ở Việt Nam (Đơn vị: triệu người) Năm 1990 1995 2000 2005 2010 2011 Số lượng 29,45 33,03 37,08 42,77 49,15 50,35 Nguồn: Tổng hợp từ website www.molisa.gov.vn [11] 167 Phụ lục 7 Xếp hạng chỉ số phát triển con người của Việt Nam Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Các nước tham gia xếp hạng 177 177 182 177 182 169 187 187 Xếp hạng của Việt Nam 108 109 116 105 116 113 128 127 Nguồn: Tổng hợp từ website: www.undp.org.vn [153] Phụ lục 8 Nguồn vốn chi hàng năm cho công tác bảo vệ môi trường (Đơn vị: tỷ đồng) Trung ương Địa phương Năm Tổng số Vốn % trong tổng đầu tư Vốn % trong tổng đầu tư Phần trăm trong tổng chi ĐTPT từ NSNN 2006 1429,0 230 16 1990 84 1,8 2007 1815,4 400 22 1415,4 78 1,9 2008 1775,4 330 18,5 1445,4 81,5 1,8 2009 2109,7 420 19,9 1689,7 80,1 2,1 2010 2468,9 450 18,2 2018,9 81,8 2,1 2011 2954,3 580 19,6 2374,3 80,4 2,1 Tổng 12.552,7 2410 19 10142, 7 81 2,0 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư [10] 168 Phụ lục 9 Tỷ lệ cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở một số quốc gia (Đơn vị: số người/1 triệu dân) Quốc gia Việt Nam Trung Quốc Thái Lan Malaixia Singapore Số người 13 20 30 100 330 Nguồn: Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt [102] Phụ lục 10 Theo số liệu quyết toán thu ngân sách Nhà nước năm 2007 thì số thu từ hoạt động khai thác dầu khí chiếm 24% tổng thu ngân sách nhà nước (khoảng hơn 78 tỷ đồng), thu từ hoạt động thuế tài nguyên cho ngân sách là hơn 23 tỷ đồng, chiếm hơn 7,3% tổng thu ngân sách và hơn 13,1% tổng thu nội địa. Từ đây có thể thấy chính nguồn thu từ các hoạt động khai thác TNTN có vai trò to lớn đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, đóng góp của ngành khai khoáng chiếm tới hơn 10% GDP. Theo số liệu quyết toán thu ngân sách năm 2007 thì số thu từ dầu khí đã tăng lên tới 24% tổng số thu ngân sách, thu từ thuế tài nguyên chiếm 7,32% tổng thu ngân sách. Năm 2009, doanh thu từ xuất khẩu khoáng sản đạt 8,5 tỷ USD, trong đó riêng dầu thô đạt 6,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 25%, trong doanh thu ngân sách nhà nước. Nguồn: Tổng hợp tại các trang web: monre.gov.vn, vietnamnet.vn [12], [154] Phụ lục 11 - Theo đánh giá của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, phần lớn hồ, ao, kênh, mương, các đoạn sông trong các đô thị, khu dân cư, đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, một số chỉ số như nồng độ oxy 169 sinh học (BOD), chất rắn lơ lửng đã vượt quy chuẩn cho phép đến hàng chục lần. Cụ thể hàm lượng BOD (mg/l) trên sông Cầu là 5-10mg/l; sông Nhuệ- Đáy 5-10mg/l; sông Sài Gòn 7-15mg/l; sông Đồng Nai 4-6mg/l. - Phần lớn các đô thị trên cả nước và hơn 35% khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung, hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu - Ô nhiễm ở các làng nghề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa có biện pháp khắc phục và giải quyết hiệu quả. Chỉ tính đến tháng 7/2011, cả nước có 3.355 làng nghề, trong đó có 1.318 làng nghề được công nhận. Qua khảo sát 52 làng nghề điển hình, có tới 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng, 27% làng nghề ô nhiễm vừa và mức độ ô nhiễm của các làng nghề đều có xu hướng gia tăng. - Hầu hết chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị và nông thôn chưa được phân loại tại nguồn. Vẫn còn trên 60% số xã ở khu vực nông thôn chưa tổ chức thu gom rác thải. - Hàng năm ước tính tổng lượng phân bón vô cơ sử dụng trong canh tác nông nghiệp vào khoảng 2,5-3 triệu tấn, trong đó có đến 50-70% không được cây trồng hấp thụ thải ra môi trường. Riêng lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu cần tiêu hủy trên cả nước khoảng 90 tấn, 75 tấn bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật vẫn còn tồn đọng từ trước đến nay. - Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm môi trường tại Việt Nam những năm qua gây thiệt hại cho nền kinh tế tới 5,5% giá trị GDP. Nguồn: Tổng hợp từ www.canhsatmoitruong.gov.vn [42] Phụ lục 12 - Theo Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên hoang dã thế giới (WWF), sự cạn kiệt tài nguyên của Trái Đất do chính con người gây nên. Nhân loại hiện đang 170 sử dụng vượt quá 50% nguồn TNTN mà Trái Đất có thể cung cấp. Từ năm 2008, nhân loại đã cần tới 18,2 tỷ héc ta đất nhưng Trái Đất chỉ có 12 tỷ héc ta đất có thể canh tác. WWF cảnh báo kể từ năm 1970 đến năm 2008, 28% đa dạng sinh học của Trái Đất đã biến mất. Đa dạng sinh học ở các khu vực nhiệt đới đã giảm tới 61% và ở các khu vực ôn đới giảm 31%. - Nghiên cứu mới nhất của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) cho biết, mỗi năm thế giới mất tới 13 triệu hécta rừng nhiệt đới, tương đương diện tích của Hy Lạp. - Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), năm 2010 có tới 30,6 tỷ tấn CO2 phát thải vào bầu khí quyển, chủ yếu do hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch, tăng 1,6 tỷ tấn so với năm 2009. Nguồn: Tổng hợp từ website www.canhsatmoitruong.gov.vn [42] Phụ lục 13 Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21. Nó đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, TN - MT và cuộc sống của con người. Biến đổi khí hậu làm cho: 1. Mực nước biển dâng: do nhiệt độ trên trái đất ngày càng tăng, khiến các tảng băng tan nhanh hơn. Nằm ở giữa Australia và quần đảo Hawaii (Mỹ) trên Thái Bình Dương, phần lớn lãnh thổ Tuvalu (gồm 9 đảo san hô vòng) cách mực nước biển chưa tới 0,9 m. Nơi cao nhất của nước này chỉ cách mực nước biển 4,5 m. Vì thế mà Tuvalu đang đối mặt với nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do tình trạng ấm lên toàn cầu. 2. Băng tan: diện tích của các dòng sông băng trên toàn thế giới đang dần bị thu hẹp lại. Vùng lãnh nguyên (vùng đất cao nơi cây cối không thể sinh trưởng và phát triển) từng bị lớp băng vĩnh cửu bao phủ, nay dưới tác động của nhiệt độ cao, lớp băng đã tan chảy và sự sống của các loài thực vật trên 171 vùng đất này cũng đã xuất hiện. 80% diện tích băng trên đỉnh Kilimanjaro tại Tanzania đã biến mất trong 50 năm qua. 3. Nắng nóng: Trong 50 năm trở lại đây, tần suất xảy ra các đợt nắng nóng đã tăng từ 2- 4 lần. Nhiều khả năng trong 40 năm tới, số lượng các đợt nắng nóng sẽ tăng 100 lần. Theo các chuyên gia, nắng nóng sẽ làm tăng số vụ cháy rừng, các loại bệnh dịch, và mức nhiệt độ trung bình trên hành tinh trong tương lai cũng sẽ tăng theo. 4. Bão và lũ lụt: Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi. Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng. Việt Nam mất hàng trăm sinh mạng và hàng triệu USD mỗi năm do thiên tai lũ lụt, hậu quả của biến đổi khí hậu. 5. Hạn hán: Các chuyên gia ước tính tình trạng hạn hán sẽ tăng ít nhất 66% do khí hậu ngày càng ấm hơn. Hạn hán xảy ra thường xuyên sẽ thu hẹp nguồn cung cấp nước, làm giảm chất lượng các sản phẩm nông nghiệp, khiến nguồn cung ứng lương thực toàn cầu trở nên bấp bênh. Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu tại châu Phi cho rằng, tới năm 2020, sẽ có 75 - 250 triệu dân châu Phi không có nước sử dụng và sản lượng nông nghiệp của châu lục này cũng sẽ giảm 50%. 6. Dịch bệnh: Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh. 7. Thiệt hại kinh tế: Bão lụt cùng với những tổn thất trong ngành nông nghiệp đã gây thiệt hại hàng tỷ USD. Bên cạnh đó, các chính phủ cũng cần một lượng tiền lớn để xử lý và kiểm soát sự lây lan dịch bệnh. 172 Năm 2005, cơn bão lịch sử đã đổ bộ vào Louisiana, khiến mức thu nhập của người dân nơi đây giảm 15% trong những tháng sau cơn bão, và thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 135 tỷ USD. Theo dự đoán của Viện nghiên cứu Môi trường và phát triển toàn cầu tại Đại học Tufts, Mỹ, chi phí cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu tới năm 2100 sẽ đạt 20 ngàn tỷ USD. 8. Giảm đa dạng sinh học: Nhiệt độ gia tăng đã đẩy nhiều loài sinh vật tới bờ vực suy giảm số lượng hoặc tuyệt chủng. Nếu mức nhiệt độ trung bình tăng từ 1,1ºC - 6,4ºC, 30% loài động thực vật hiện nay sẽ có nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050. 9. Hủy diệt hệ sinh thái: Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức khỏe. Cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương. Sự biến mất của các rạn san hô diễn ra đặc biệt nghiêm trọng ở Sri Lanka, Kenya, Maldives, Tanzania. Nguồn: website: www.hawacom.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nguyen_thi_khuong_k26_triet_293.pdf
Luận văn liên quan