Luận văn Biện pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả sử dụng FDI

Trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sự thay thế nhau của các phương thức sản xuất xã hội, quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan là sựphát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội. Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, hoạt động đầu tưnước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, đã và đang là nhân tốcơbản cấu thành và quy định xu hướng phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển.

pdf55 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2341 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả sử dụng FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à ngành dầu khí, công nghiệp nhẹ, xây dựng và thực phẩm. Nông, lâm nghiệp có 16 dự án chiếm 13,5% tổng vốn đầu tư. Theo hình thức đầu tư, Mỹ có 83 dự án 100% vốn nước ngoài (chiếm 64,3% tổng số dự án), với tổng số vốn đầu tư là 554,3 triệu USD (chiếm 52,4% tổng vốn đầu tư); Tiếp theo là hình thức liên doanh có 33 dự án (25,6%) với vốn đầu tư là 369,8 triệuUSD (34,9%) và hợp đồng hợp tác liên doanh có 11 dự án (10,1%) với tổng vốn đầu tư là 134,1 triệu USD (12,7%). Các dự án đầu tư của Mỹ đầu tư tại 26 tỉnh thành phố nhưng tập trung chủ yếu tại thành phố HCM với 37 dự án, với vốn đầu tư là 187,5 triệu USD; Hà Nội: 22 dự án với 158,1 triệu USD và Đồng Nai với 14 dự án, với vốn đầu tư là 181,4 triệu USD; 3 địa phương này chiếm 56% tổng số dự án và 50% tổng vốn đầu tư của Mỹ tại Việt Nam. Đây là những địa bàn có cơ sở hạ tầng và điều kiện sản xuất kinh doanh tốt hơn so với các tỉnh thành trong cả nước. Tác động của hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam. Cơ hội đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam thể hiện ở những điểm chính sau: Thứ nhất, với mức thuế suất của nhiều mặt hàng giảm từ 40-60% xuống còn 3%, xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng. Ngân hàng Thế giới dự báo xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng từ 368 triệu USD (mức năm ngoái) lên 1 tỷ USD/năm trong vòng 4 năm tới. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt có lợi cho ngành sản xuất quần áo, giày dép vì các doanh nghiệp Mỹ muốn tận dụng lợi thế nhân công rẻ ở Việt Nam "Việt 29 Nam thực sự là nơi lý tưởng cho sản xuất, và điều này sẽ còn trở nên tốt hơn trong thời gian tới". Đó là lời phát biểu của ông Lalit Monteiro. (Tổng giám đốc hãng Nike tại Việt Nam) Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ làm cho vị thế của Việt Nam được nâng trên trường quốc tế do đó sẽ có một số nhà đầu tư nước ngoài đến đây để xây dựng nhà máy sản xuất hàng hoá xuất khẩu đi Mỹ và những nhà đầu tư nước ngoài khác đang đầu tư tại Việt Nam sẽ có kế hoạch sản xuất. Thứ ba, bằng những cam kết thực hiện dần việc minh bạch hoá, giảm thuế xuất, bỏ hàng rào phi thuế quan, cởi mở hơn nữa cho đầu tư nước ngoài, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… Môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng tốt hơn và mọi bên đều có lợi. Điều đó đồng nghĩa với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam sẽ tăng. II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 1. Quy mô nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh Từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết ngày 12 năm 2001 thì nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số lượng dự án cũng như vốn đăng ký. 371.8 582.5 839 1322.3 2156 2900 3765.6 6530.8 8492.3 4649.1 3892 1568 2012.4 2436 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 9000 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Đồ thị: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần không nhỏ trong tổng số vốn tiến hành CNH, HĐH đất 30 nước. Tư khi luật đầu tư ra đời năm 1988 đã có 371,8 triệu USD đến nay con số đã tăng lên hàng nghìn (năm 1996 là 8497,3 triệu USD). Thời kỳ đầu tăng mạnh nhất vào những năm 1993, 1994, 1995 và sau đó có xu hướng giảm xuống vào những năm 1996, 1997, 1998, 1999 và đến năm 2001, 2002, 2003 đang tăng lên cho thấy tín hiệu khả quan hơn. Sự biến động trên phần nào do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên 70%) vào Việt Nam là xuất phát từ các nhà đầu tư châu Á. Khi các nước này lâm vào cuộc khủng hoảng thì các nhà đầu tư ở đây rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, khả năng đầu tư giảm sút. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là sự giảm sút về khả năng hấp dẫn do điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Trong đó có việc do giảm bớt một số ưu đãi trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 so với trước. Số lượng vốn cùng được thể hiện qua các dự án, quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988-2000 là 11,44 triệu USD/1 dự án theo số lượng vốn đăng ký. Tuy nhiên quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân năm 1999 bị nhỏ đi một cách đột ngột (5,04 triệu USD/1 dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng 40,06% quy mô bình quân thời kỳ 1988-2001 và chỉ bằng 28,5% của năm cao nhất là năm 1995. Quy mô vốn bình quân của các dự án mới được cấp phép trong năm 2000 tuy đã tăng lên, nhưng sang năm 2001 mặc dù có thêm dự án với quy mô đầu tư lớn (nhà máy điện Phú Mỹ III số vốn đăng ký là 412,9 triệu USD, mạng điện thoại di động số vốn đăng ký 230 triệu USD) dự án chế biến nông sản phẩm tại TP HCM có vốn đăng ký 120 triệu USD…). Nhưng quy mô vốn bình quân của các dự án đạt bằng 97,4% mức bình quân năm 2000. Điều đó chứng tỏ năm 2001 có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với qui mô nhỏ. 2. Cơ cấu vốn đầu tư a) Cơ cấu vốn đầu tư FDI tại Việt Nam theo vùng lãnh thổ 31 Trong thời kỳ này thì vùng Đông Nam Bộ đã chiếm hơn nửa tổng số vốn đầu tư 54%. Tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng với 30%. Còn các vùng khác thì con số này là rất thấp. Duyên hải Nam Trung Bộ là 8%. Đồng bằng Sông Cửu Long là 2%, Bắc Trung Bộ (2%) và Đông Bắc (4%). Còn hai vùng Tây Nguyên, Tây Bắc con số này là 0%. Qua đây ta thấy tỉ lệ vốn đầu tư vào các vùng không đồng đều nhau. Tập trung ở vùng có các tỉnh thành phố phát triển. Còn các vùng khác thì cơ cấu vốn lẻ tẻ, ít ỏi. Đây cũng là điều bất cập làm cho đất nước phát triển không đều, gây nên khoảng cách giàu nghèo. Mặt khác ở từng vùng thì tỉ lệ vốn cũng khác nhau. Nếu hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. Thành phố Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương như sau: Hà Nội 7763,5 (22%); Đồng Nai 34390 (9,7%); Bà Rịa - Vũng Tàu 2515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước 1677,9 (4,8%); Hải Phòng 1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 133,0 (3,8%); Quảng Nam Đà Nẵng 1013,7 (2,9%)… Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào "những vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa". Tuy vậy, vốn nước ngoài vẫn được đầu tư trực tiếp chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế. Và vì thế đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác tiềm năng trong nước, đạt kết quả chưa cao. Đây cũng là vấn đề cần điều chỉnh trong thời gian tới trong lĩnh vực này. b) ĐTTTNN vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế Đồ thị 2: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam theo ngành kinh tế 32 CN; 38% KS, du lÞch; 13%TC, N/hµng; 1% Dvô kh¸c; 21% N/L nghiÖp; 4% X©y dùng; 12% GTVT, b−u ®iÖn; 9% VH, Y tÕ, GD; 1% T/s¶n; 1% Nhìn vào đồ thị tính cả thời kỳ 1988-2001, các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư (38%), tiếp đó là các lĩnh vực dịch vụ, khách sạn - du lịch, xây dựng… còn các ngành tài chính ngân hàng, văn hoá, y tế, giáo dục, GTVT, bưu điện chiếm con số nhỏ. Ta nhận thấy cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với sự nghiệp CNH- HĐH. Ở thời kỳ đầu các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khách sạn văn phòng cho thuê… từ 1995, 1996 đến nay các dự án đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất nhiều hơn. Theo số liệu thống kê trên đồ thị ta nhận thấy rằng sự phù hợp tương đối của các chỉ số này với yêu cầu về cơ cấu của một nền kinh tế hiện đại, CNH: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp và nông nghiệp là một thế mạnh của Việt Nam, tập trung hơn 75% số lao động. Và nông nghiệp của Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để khai thác. Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH là thực hiện CNH, HĐH ở nông thôn, nông nghiệp, để tạo ra việc làm, thu nhập cho một số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số dân cư Việt Nam. 3. Tình hình sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án. Năm Vốn thực hiện (triệu USD) So với vốn đăng ký mới trong năm (%) Vốn nước ngoài (triệu USD) Vốn trong nước (triệu USD) 1991 478 37,49 432 46 1992 542 26,74 478 64 33 1993 1097 42,37 871 226 1994 2213 59,08 1936 277 1995 2761 41,79 2363 398 1996 2837 32,84 2447 390 1997 3032 62,53 2768 264 1998 2189 56,17 2062 127 1999 1933 123,36 1758 175 2000 2100 105,69 1900 200 2001 2300 94,42 2100 200 Tổng 21482 51,72 19115 2367 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2001-2002 Việt Nam và thế giới, tr50. Đến hết năm 2001 tổng số vốn đã thực hiện bằng 51,72% của tổng số vốn đăng ký. Trong điều kiện của Việt Nam kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triển chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn thực hiện như vậy là không thấp. Đặc biệt vào những năm (1999, 2000) số vốn thực hiện lớn hơn số vốn đăng ký (123,9%). Ở Việt Nam, số vốn thực hiện của từng năm chủ yếu là các dự án đã phê duyệt từ trước đó vì khi phê duyệt các dự án chưa có đủ điều kiện để thực hiện ngay vì thế so sánh số vốn thực hiện của từng năm so với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký trước đó trừ đi số vốn thực hiện) thì tỉ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu năm 1997 và sau đó giảm dần từ 1998 đến 1999, năm 200, 2001 đã có biểu hiện của xu hướng tăng lên. Nếu xét trên tổng thể hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần lớn (9%) trong tổng số vốn thực hiện. Và số vốn đang có xu hướng giảm xuống kể từ năm 1996. Khu chế xuất và khu công nghiệp là loại địa bàn tương đối hấp dẫn nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2037,6 triệu USD. 34 Đầu tư nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế được lựa chọn: + Lĩnh vực dầu khí: thu hút tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư. + Lĩnh vực công nghiệp điện tử: là lĩnh vực các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỉ lệ cao so với vốn đăng ký. Vốn đăng ký 615 triệu USD, vốn thực hiện là 60%. + Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy: thu hút được nhiều nhà đầu tư nổi tiếng như Toyota, Honda, Suzuki… với số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ô tô là 376 triệu USD (bằng 43,12% vốn đăng ký). + Lĩnh vực viễn thông: tổng số vốn đăng ký là 2 tỷ USD. + Hoạt động kinh doanh khách sạn du lịch có 7585 triệu USD vốn đăng ký và đã có 33,26% (2553 triệu USD) vốn thực hiện. + Lĩnh vực công nghiệp hoá chất: tổng số vốn đăng ký là trên 2 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 682 triệu USD. + Lĩnh vực dệt may giày dép: vốn đăng ký là 2396 triệu USD, vốn thực hiện là 1079 triệu USD. + Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp: Vốn đăng ký là 1,86 tỷ USD và vốn thực hiện là 852 triệu USD. 4. Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Thứ nhất: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện kiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực tế cho thấy, từ khi thực hiện chính sách FDI cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD/năm; vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân 16291 tỷ tỷ đồng/năm, thời kỳ 1991 - 1999. Đối với một nền kinh tế như của nước ta, thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến, không chỉ về 35 qui mô mà còn có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991 - 1999 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án FDI chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên. Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng, giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH - HĐH. Hoạt động FDI còn là một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, điều này được chứng minh thông qua số tiền thực hiện nộp ngân sách nhà nước tăng lên qua các năm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về định tính, sự hoạt động của đồng vốn có nguồn vốn từ FDI như là một trong những động lực gây phản ứng dây chuyển làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Thứ hai: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo nên năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước (chỉ số phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1997 là: 120,75% và chỉ số phát triển chung của cả nước là 108,15%; năm 1998 là: 116, 88% và 105,8%. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP cũng có xu hướng tăng lên (năm 1997 là 9,08%; năm 1998 là 10,12%; 1999 là 13,3%). Đối với ngành công nghiệp: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này, đạt từ 28,9% năm 1997 đã tăng lên 31,98% năm 1998 và 34,73% năm 1999. Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vón đầu tư 36 nước ngoài đang có vị trí hàng đầu với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Trong ngành công nghiệp chế biến, tỷ trọng này chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng. Đối với ngành công nghiệp: Tính đến nay, có 211 dự án FDI đang hoạt động trong ngành với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất cho ngành, chuyển giao cho lĩnh vực nhiều giống cây, giống con tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hoá. Vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH - HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào chế biến gỗ, lâm sản thì những năm gần đây nhiều dự án đã hướng vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng… Vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện còn những ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng nếu phân tích theo logic, cùng với đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn thì thấy rằng: Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn là mục tiêu hàng đầu. Tiếp theo là thiết bị công nghệ. Mặc dù chưa phải là hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn những thiết bị đã cố trước đây của Việt Nam. Một vấn đề cũng rất quan trọng là, nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi cản bản phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng thích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đương đầu với vấn đề xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn cách là thay đổi một cách canư bản từ công nghệ cho đến phương thức sản xuất kinh doanh. 37 Thứ ba: Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực sản xuất cho người lao động. Tính đến ngày 31/12/1999 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 296.000 việc làm trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp. Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài chiếm khoangr 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Thu nhập bình quân của lượng lao động này là 70 USD/ tháng bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật nghiêm khắc, trình độ cao là yếu tố tạo nên người Việt Nam có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ tay nghề. Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh: Trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp có khả năng tổ chức có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh, khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức kinh doanh tiên tiến. Đây chính là điều kiện tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo các bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ nào đó để đáp ứng được các yêu cầu trong các dự án. Như vậy dù muốn hay không thì các nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá tại Việt Nam thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. 38 Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc thực hiện các dự án đã trở thành "cầu nối", là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác với nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, trung tâm kinh tế kỹ thuật công nghệ cao của thế giới. Mặt khác, hoạt động của FDI đã giúp Việt Nam mở rộng thị phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tạivn thành bạn hàng của Việt Nam. Nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này, cao hơn khả năng xuất khẩu của cả nước và hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Tóm lại, hoạt động của FDI vừa qua đã gó phần chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế CNH - HĐH. Đối với Việt Nam như lực khởi động, như một trong những đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH - HĐH. Một số dự án FđI đã góp phần xây dựng một số doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế. Nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới cũng như nhiều sản xuất mới. 5. Hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ và kỹ thuật của nhiều ngành sản xuất để tạo điều kiện nâng cao tay nghề, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, ngoài ra khu vực này đã thu hút được một lượng lao động đáng kể, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, thu nhập của người lao động được tăng lên, mức sống được cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số hạn chế sau: b. Cơ cấu vốn đầu tư nhìn chung còn bất hợp lý so với định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thực tế hoạt động FDI trong những năm qua cho thấy vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi 39 nhuận, thời gian thu hồi vốn ngắn như; Các ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành gia công may mặc, giày dép lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử, dân dụng, sắt thép, xi măng, khách sạn, văn phòng cho thuê… Còn các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thuỷ sản, công ngghiệp cơ khí và dịch vụ có giá trị lớn như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng lĩnh vực công nghệ cao chiếm tỷ lệ rất thấp cả về số lượng dự án và vốn đầu tư. - Một số dự án hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài dẫn đến tình trạng bị phá sản, công nhana bị sa thải. Từ năm 1998 đến năm 2001 có xu hướng nhiều liên doanh đã phải chuyển sang hình thức Công ty 100% vốn nước ngoài để cải thiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một số liên doanh do vốn đầu tư của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư (trung bình khoảng 30% vốn pháp định, bằng khoảng 10% tổng vốn đầu tư, chủ yếu góp bằng giá trị quyền sử dụng đất), cộng với nưững yếu kém về trình độ chuyên môn, quản lý nên nhiều dự án bị các chủ đầu tư nước ngoài thao túng, tự động tăng giá thiết bị nguyên liệu đầu vào, thực hiện chuyển giá trong nội bộ Công ty. Nhiều công nghệ lạc hậu quá cũ, gây ô nhiễm môi trường. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là do các Công ty xuyên quốc gia chi phối, điều này làm cho nền kinh tế nếu không phát triển nhanh, bền vững sẽ dần phụ thuộc về vốn, kỹ thuật, thị trường và mạng lưới tiêu thụ phân phối của họ. Thông qua sự chi phối về kinh tế, các Công ty xuyên quốc gia có khả năng ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội, tăng xu hướng phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Về phía chủ quan, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, song hiện nay sự suy giảm củ dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có những nguyên nhân như: a. Tuy đã có định hướng cơ bản trong việc thu hút đầu tư nước ngoài theo ngành, lĩnh vực, đối tác, nhưng trên thực tế chưa làm rõ chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài một cách toàn diện. Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập nhất là quy hoạch ngành (quy hoạch ngành thép, xi măng, viễn thông, cảng biển…). 40 Trong khi đó một số ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch gây khó khăn cho việc xác định chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài (quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề…). b. Luật pháp liên quan đến đầu tư nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện còn nhiều chồng chéo mâu thuẫn, việc thực hiện luật pháp điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu tư nước ngoài còn chưa được ban hành (như luật cạnh tranh, chống độc quyền, còn chưa thống nhất giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài…) Tình trạng các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chậm, nhiều vấn đề chồng chéo, mẫu thuẫn giữa các văn bản pháp quy. c. So với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang giảm dần do các chi phí đầu vào cao, thủ tục hành chính còn rườm rà, chính sách đi vào cuộc sống còn chậm. - Theo báo cáo của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETR), chi phí các nước trong khu vực, đặt biệt là Trung Quốc. Cho đến nay, cước phí dịch vụ cảng biển và vận tải biển từ Việt Nam, cước viễn thông quốc tế, giá điện, phí đăng kiểm và chi phí gải phóng mặt bằng tại Việt Nam cao hơn trong khu vực, bên cạnh đó ưu thế về nguồn lao động rẻ bị mất dần. Trong khi đó các ngành côn nghiệp phụ trợ của Việt Nam kém phát triển, điển hình là các ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và may mặc. Các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu, và chỉ thực hiện công đoạn lắp ráp, gia công tại Việt Nam, nên giá trị gia tăng thực tại Việt Nam thấp, đồng thời thực tế này làm giá thành sản phẩm cao, hạn chế sức cạnh của sản phẩm. 41 CHƯƠNG BA GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHỤC VỤ TỐT HƠN CÔNG CUỘC CNH, HĐH CỦA ĐẤT NƯỚC. Trước nhiệm vụ phát triển kinh tế của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, để đạt nhịp độ tăng trưởng GDP trên 7% năm, Việt Nam chủ trương tiếp tục thu hút nhiều hơn, với chất lượng cao hơn nguồn vốn đầu trực tiếp nước ngoài để đẩy nhanh CNH - HĐH đất nước. Mục tiêu trong 5 năm 2001 - 2005 đối với vốn đầu tư nước ngoài là thu hút mới được 12 tỷ USD vốn đăng ký và 11 tỷ USD vốn thực hiện. Đến năm 2005, ĐTNN sẽ đóng góp khoảng 15% GDP, 25% kim ngạch xuất khẩu và trên 10% tổng thu ngân sách. Đây là thách thức lớn trong bối cảnh sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997, dòng vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm, trong khi nhiều nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư và trở thành điểm hút mạnh nguồn vốn FDI. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải đổi mới đồng bộ, khẩn trương cơ chế chính sách, nhất là khâu điều hành để thực hiện thắng lợi mục tiêu thu hút nhiều hơn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI theo tinh thần nghị quyết đại hội IX của Đảng. Theo hướng này cần thống nhất về nhận thức, xây dựng chính sách đảm bảo sự ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đang hoạt động, mở rộng mục tiêu, quy mô dự án, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, phù hợp với quy định của pháp luật và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Rồi thế cần phải có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phục vụ tốt hơn công cuộc CNH, HĐH đất nước. I. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bộ máy, nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo lòng tin của nhân 42 dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước bảo đảm trật tự an ninh xã hội, ngăn chặn và xử lý thật nghiêm khắc mọi hành vi gây rối, bảo vệ tốt tính mạng và tài sản của các thành viên trong xã hội. Thứ hai: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Thứ ba: Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bằng các điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế của họ và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, đảm boả thi hành pháp luật nghiêm chỉnh. Thứ tư: Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ sở của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩn trương hoàn htiện quy hoạch tổng thể đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cần có quy hoạch cụ thể về cơ cấu kinh tế (theo ngành và lãnh thổ), quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng… Thứ năm: Phát triển kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ tạo điều kiện cho chính thị trường đầu tư hoạt động có hiệu quả. Nhanh chóng hình thành thị trường tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ sáu: Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn các đối tác đầu tư nước ngoài, lựa chọn các hình thức thu hút FDI phù hợp và có hiệu quả, đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư. Tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước theo chủ trương "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả với các nước". Thứ bảy: Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và tay nghề theo hướng trang bị kiến thức cơ bản và đào tạo chuyên sâu. Thứ tám: Củng cố quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI, nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị hợp tác đầu tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, đảm bảo sự tập trung 43 thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt phân tán. Cải các thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đơn giản hoá các thủ tục tiếp nhận FDI. Thứ chín: Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng. Đây không phải là một công việc dễ dàng trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế. Vì vậy, một mặt chúng ta phải huy động tối đa khả năng của mình, cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nước. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung xây dựng dứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế. Thứ mười: Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc doanh theo hướng hiệu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức. Mười một: Dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tậ trung phát triển mạnh những ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Mười hai: Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền được thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Như vậy: Những yếu tố trên đây có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thu hút vốn FDI. Nhưng nếu chỉ có các điều kiện vật chất của nền kinh tế thì chưa đủ. Điểm quan trọng là phải dung hoà lợi ích của cả hai bên. Vì những mục đích lâu dài của đất nước, trong một số trường hợp chúng ta cũng đành phải nhượng bộ và chấp nhận hy sinh lợi ích trước mắt. Chúng ta sẽ thành công trong hợp tác nước ngoài nếu chúng ta biết xử lý vấn đề một cách khôn kheó và không để mắc những sai lầm có tính nguyên tắc. 1. Xây dựng định hướng chiến lược và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 44 Chiến lược thu hút FDI được xem là một hình thức biểu hiện cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phản ánh sự kết hợp hài hoà của việc phát huy nội lực với phát huy nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, là cơ sở để xây dựng các quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, đến nay chúng ta chưa xác định chính thức quy hoạch phát triển đối với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư thì gần như bão hoà về nhu cầu đầu tư. Đây là một trong những lý do tình trạng chừng lại và giảm sút của đầu tư TTNN vào Việt Nam. Để cải thiện tình hình này, một mặt chúng ta phải cải thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản pháp quy thì việc nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI cũng trở nên cần thiết thế nên phải chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước, quốc tế, đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch về kế hoạch đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch các bộ, ngành và địa phương trong việc thu hút FDI. Cần xây dựng danh mục kêu gọi dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 5 năm tới. Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngaòi trong việc lựa chọn dựáan đầu tư. Mặt khác công khai làm căn cứ cho các ngành, địa phương tính toán chủ động trong kêu gọi vốn đầu tư một cách hợp lý, có hiệu quả, giải toả được những bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư nước ngoài theo kinh tế, kỹ thuật, và vùng lãnh thổ vừa qua. Để xây dựng chiến lược tốt phải dựa trên cơ sở xác định một cách khoa học các yếu tố cần thiết để có một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH thích hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong tương lai. Đã đến lúc chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng hơn trong việc phê duyệt các dự án đầu tư. Đối với vấn đề này một mặt chúng ta có những chính sách ưu đãi tương xứng hơn với mức độ chênh lệch về các điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng… Giải pháp bổ sung nhằm khắc phục tình trạng này là một mặt nhà nước ta tìm cách huy động các nguồn ODA, cùng với vốn ngân sách nhằm chủ động đầu tư vào những vùng, những ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng… Mặt khác tiếp tục nghiên cứu bổ sung các chính sách ưu 45 đãi thoả đáng đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghiệp chế biến (trong đó chú ý hơn cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản) đầu tư vào các vùng có cơ sở hạ tầng chưa phát triển điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, vùng xâu, vùng xa. 2. Cải thiện môi trường đầu tư. Cải thiện môi trường đầu tư được thực hiện trong cả 5 năm (luật pháp, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh, hệ thống trọng tài và toà án). a. Về vấn đề thủ tục hành chính và phát triển cơ sở hạ tầng. Giải quyết về thủ tục hành chính: những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một nhân tố cản trở quá trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách được bộ máy nhà nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư… Do vậy chính phủ cần dành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong viẹec thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này. Cơ sở hạ tầng yếu kém. Những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được khắc phục. Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam như đường sá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng ở Việt Nam còn rất lạc hậu. Trong những năm tới cũng như lâu dài, đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn được nhà nước khuyến khích đầu tư nhiều nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn tự có từ các doanh nghiệp nhưng cũng cần nghiên cứu thu hút nguồn vốn tư nhân trong nước góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 46 Theo "phân tích thương mại và đầu tư Việt Nam" của Uỷ ban Châu Âu những việc mà Việt Nam làm đả cải thiện môi trường đầu tư là "cải cách hành chính và thể chế cần thiết để hoạt động cho các Công ty đầu tư nước ngoài là những vấn đề quan trọng hơn rất nhiều so với các khuyến khích tài chính mà chính phủ đưa ra, giảm tói đa bệnh quan bên và sự áp dụng các quy định mọt cách tuỳ tiện sự thay đổi các nguyên tắc ra quyết định trong hội đồng quản trị đối với các liên doanh, xoá bỏ sự phân biệt đối xử với các Công ty đầu tư nước ngoài về giá dịch vụ cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác". b. Hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài và các chính sách có liên quan. Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai việc nghiên cứu dễ tiến tới xây dựng một bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và ĐTNN. Hoàn chỉnh hệ thống páhp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh tế ổn định, bình đẳng, sớm ban hành luật về kinh doanh bất động sản, luật cạnh tranh và chống độc quyền… Luật đầu tư doanh nghiệp Hiện nay chúng ta đã có luật "luật đầu tư nước ngoài" luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng chúng ta chưa có luật cạnh tranh, luật chống phá giá… nên mức độ điều chỉnh pháp luật còn có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp nhiều khi còn có sự phân biệt và thiếu nhất quát trong các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt quan trọng là sự chưa hoàn thiện của hành lang pháp lý, sự "vắng bóng" của một hệ thống văn bản hoàn chỉnh để quản lý các doanh nghiệp liên doanh nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp có vốn đầu tư Việt Nam nói chung. Cần nhấn mạnh sự quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay chưa chặt chẽ. Chúng ta chưa có những quy định cụ thể cũng như tổ chức hoàn chỉnh về quản lý doanh nghiệp FDI sau khi cấp giấy phép. Để khắc phục tình trạng trên haynói cách khác là để 47 xoá đi những khoảng tối trong bức tranh toàn cảnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần phải kết hợp rất nhiều giải pháp: Thứ nhất, cần tăng cường việc quản lý, giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Thứ hai, cần tăng cường công tác kiểm định và nâng cao vai trò giám định của tổ chức giám định tại Việt Nam. Thứ ba, cần sớm khắc phục tình trạng chồng chéo, thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Thứ tư, cần mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ năm là cần nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng hướng chọn cán bộ lãnh đạo cho nhà nước Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI. Ngoài tất cả các phương pháp nói trên, trong trường hợp các doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài thì nhà nước cố gắng duy trì hoạt động của các doanh nghiệp này bằng các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, cùng các doanh nghiệp thảo luận và khắc phục. Đổi mới hoàn thiện các chính sách Tiếp tục nghiên cứu và sớm cho sửa đổi một số chính sách nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn sửa đổi bổ sung một số chính. - Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Điều chỉnh giá phí các loại hàng hoá, dịch vụ để sau một thời gian về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trước mắt thực hiện giảm giá cước viễn thông, vận tải hàng không, giảm giá thuế đất… Tạo điều kiện giúp doanh nghiệp giảm cih phí đầu vào để tăng sức cạnh tranh, từ đó hấp dẫn các dự án đầu tư mới. - Đối với tiền thuê đất có thể miễn giảm tiền thuê đất trong một sóo năm để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm tình trạng giải phóng mặt bằng đền bù đang bị ách tắc cho việc triển khai dự án. Tiếp tcụ ban hành văn bản hướng dẫn về điều kiện, thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất. - Cải tiến công cụ thuế sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, xây dựng 48 chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng linh kiện, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá. Hoàn chỉnh hệ thống thuế xuất khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, hoàn thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo hành đầu tư, phá sản đối với các doanh nghiệp ĐTNN. - Cho phép các doanh nghiệp tham gia trực tiếp thuê lao động để sản xuất, gảim dần tình trạng các doanh nghiệp FDI phải sử dụng lao động qua các tổ chức cung ứng của Việt Nam hiện nay. Để làm được vấn đề này cần xem xét sửa đổi lại quy định tại bộ luật lao động theo hướng cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được trực tiếp thuê lao động, đồng thời cần kết hợp với các giải pháp khác để đảm bảo trật tự an ninh xã hội. 3. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài Cần xác định chiến lược lâu dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các Công ty xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian môi giới đâù tư. Thu hút được các nhà đầu tư thuộc các Công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn đồng nghĩa với việc bắt tay làm ăn hợp tác được với những chủ sở hữu mạnh, có năng lực ngăn ngừa, chống đỡ, điều chỉnh, khắc phục hiệu quả của những biến động lớn có thể xảy ra. Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các Công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử thách và phát triển. Chúng ta còn có sự đầu tư thích đáng để sớm hình thành được các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế. 4. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư. Đối với thị trường đầu tư, cần có sự nghiên cứu phân tích một cách nghiêm túc các đối tác đầu tư lớn nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU. Tuy 49 nhiên các nước này đầu tư vào ASEAN và Việt Nam rất dè dặt. Hiệp định thương mại có hiệu lực nếu công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh ở Mỹ, Nhật, Châu Âu, Việt Nam sẽ thu hút sức mạnh của các Công ty xuyên quốc gia của các trung tâm kinh tế lớn này. Do để làm được điều này cần phải có sự quan tâm phối hợp của tất cả các cơ quan nhà nước, đồng thời phải được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương. Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại các bộ, ngành, tổng Công ty lớn, tại một số cơ quan đại diện ở một số địa bàn trọng điểm nước ngoài.. để chủ động vận động đối với từng dự án, đầu tư có tiềm năng. Ở Việt Nam để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI cần có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các bộ ngành: Bộ ngoại giao, bộ kế hoạch và đầu tư, các bộ ngành kinh tế và các bộ khác, đặc biệt là bộ kế hoạch và đầu tư, bộ thương mại. II. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC HIỆU QUẢ SỬ DỤNG FDI 1. Tạo điều kiện để thực hiện các dự án. Tốc độ thực hiện dự án đầu tư là một yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả đầu tư, quá trình thực hiện càng nhanh thì dự án càng đi vào sản xuất đem lại hiệu quả. Trên thực tế trong những năm vừa qua, tiến độ thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được nhanh chóng. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, các nhà đầu tư còn gặp một số trở ngại như: thủ tục hành chính rườm rà… Để cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài triển khai thực hiện nhanh chóng, sớm phát huy hiệu quả, chúng ta cần thiết phải tháo gỡ những trở ngại trên đây, chấm rứt tình trạng dây dưa kéo dài trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cùng với việc cải tiến các thủ tục hành chính, hoàn thiện các văn bản pháp quy và hướng dẫn thi hành đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chúng ta cần thiết phải cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Cả hai yếu tố của môi trường đầu tư nói trên có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả đầu tư 50 trực tiéep nước ngoài, đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như đối với cả chúng ta. Cần tháo gỡ những trở ngại, chấm dứt những tình trạng dây dưa kéo dài trong việc giải quyết vấn đề FDI. 2. Quản lý Nhà nước. Một công cụ quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế là việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, ban hành chính sách và luật pháp. Để quản lý tốt hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, từng bước đưa vào quy hoạch thống nhất, thời gian qua cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư đã phác thảo chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng, đã vạch ra phương hướng, mục tiêu và các biện pháp chủ yếu cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Thẩm định dự án đầu tư là khâu đầu tiên xác định hiệu quả của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công việc này đòi hỏi phải được tiến hành nhanh chóng và chuẩn xác, muốn có kết quả tốt yêu cầu phải có đầy đủ thông tin cần thiếtd, những kiến thức khoa học về kinh tế kỹ thuật. Quản lý dự án giấy phép đầu tư là công đoạn khó khăn nhất, chiếm thời gian và công suất nhất trong toàn bộ quy trình quản lý nhà nước, nó quyết định thành công và hiệu quả của hoạt động dự án đầu tư. Việc buông lỏng quản lý dự án sau giấy phép đầu tư đã gây ra nhiều khó khăn trở ngại cho việc triển khai thực hiện dự án một cách có hiệu quả, đây cũng là nguyên nhân đổ bể của một số dự án đầu tư và một số các vi phạm đáng tiếc của nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, như vi phạm chế độ tuyển dụng lao động, tiền lương cho cán bộ và công nhân… Công tác tổ chức cán bộ là một yếu tố quyết định nhất trong công tác quản lý nhà nước. Hiện nay đã có khoảng 5000 cán bộ hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Hầu hết số cán bộ nàychưa có kiến thức và kinh nghiệm đầu tư nước ngoài, ít hiểu biết kỹ thuật ngoại ngữ kém. Nhưng họ lại được nhận một công việc khó khăn, mới mẻ vượt quá sức của họ như được cử vào hội đồng 51 quản trị, làm giám đốc hoặc phó giám đốc xí nghiệp liên doanh. Họ không hiểu rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và nghiệp vụ chuyên môn lại phải đối mặt với các nhà kinh doanh sừng sọ lõi đời nên không trách khỏi bị thua thiệt. Hơn nữa, nhiều cán bộ của ta trong liên doanh chỉ lo toan cho đồng lương và lợi ích của riêng mình, thiếu quan tâm đến lợi ích của nhà nước, của người lao động và không ít các bộ của ta bị mua chuộc, mắc bệnh tham nhũng. Tình trạng trên đây là nguyên nhân chính gây thiệt thòi lớn cho chúng ta trong quá trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ. 3. Tăng khả năng tiếp nhận đầu tư. Khả năng tiếp nhận nước ngoài của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp là một nhân tố quyết định hiệu quả đầu tư FDI sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chúng ta có khả năng tiếp nhận tốt và ngược lại, chúng ta có thể bị "bội thực" hoặc phụ thuộc vào bên ngoài nếu như chúng ta có ít khả năng tiếp nhận FDI. Để tiếp nhận một cách có hiệu quả FDI, đòi hỏi phải có một tỷ lệ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào và trong từng giai đoạn cụ thể nhưng vấn đề là làm thế nào để huy động vốn trong nước đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư một cách chủ động. Điều đó phụ thuộc trước hết vào tốc độ tăng trưởng kinh tế sau đó là các biện pháp chính huy động vốn tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế thì mối tương quan giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Theo chúng tôi thì nhân tố quyết định đến sự phát triển lâu dài và ổn định nền kinh tế phải là đầu tư trong nước, còn đầu tư nước ngoài cũng luôn là nhân tố quan trọng. Về năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự yếu kém về mọi mặt của bên đối tác Việt Nam trước các đối tác đầu tư nước ngoài hùng mạnh là một bâts lợi lớn của chúng ta. Những khoản mất mát, thua thiệt không thể coi là học phí được nữa 52 mà nso là những cái giá phải trả cho sự non yếu của chúng ta. Trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp của bên Việt Nam còn thấp, trung bình chỉ khoảng 25%. Phần góp vốn ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh doanh thuộc về các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các bên đối tác Việt Nam cần tăng tỷ lệ góp vốn trong các liene doanh với nước ngoài, về lâu dài có thể mau lại cổ phần của bên nước ngoài. Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, ngoài sự lỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, nó cần thiết phải giúp đỡ của nhà nước. Bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước cần toạ điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính chiến lược, nó phục vụ cho lợi ích lâu dài của chúng ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, cũng như trong quá trình phát triển kinh tế. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, tế bào ấy có khoẻ thì cơ t hể kinh tế mới khỏe mạnh được. 53 KẾT LUẬN Trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sự thay thế nhau của các phương thức sản xuất xã hội, quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội. Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Và trên cơ sở đó, đầu tư nước ngoài cũng ở sjư chuyển biến thay đổi về phương thức quy mô, cũng như xu hướng vận động. Xu hướng này là khách quan tuy nhiên những diễn biến cụ thể lại chịu sự chi phối trực tiếp của rất nhiều nhân tố chính trị - xã hội khác nữa. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của Việt Nam, vào quá trình CNH - HĐH đất nước, ĐTNN đã thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta tránh tình trạng tụt hậu so với các nước khác. Và thực sự đưa lại những điều kiện cơ bản như nguồn vốn, kỹ thuật, quản lý… để đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH, đưa ra thành một nước công nghiệp. Cơ hội thu hú đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong những năm tới và rất thuận lợi. Chúng ta cần phải biết phát huy những lợi thế của mình ba nỗ lực, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, trong đó có ĐTNN. Bên cạnh đó cần phải khắc phục những tiêu cực của ĐTNN và ĐTNN phải thực sự có tác dụng góp phần vào quá trình CNH - HĐH theo hướng tiến bộ, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách: 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB - GD 2. Giáo trình đầu tư 3. Kinh tế học của P.A Samuellson (2 tập) 4. Lênin toàn tập tập 27 5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế - Vũ Xuân Tường 6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH - HĐH ở Việt Nam Tạp chí: 1. Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 1 ( 30) tháng 2 -2001 2. Phát triển kinh tế số 128, tháng 6 - 2001 3. Những vấn đề kinh tế thế giới số 6 (86) 2003 55

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10190_9204.pdf