Luận văn Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long

MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục hình, bảng biểu Mở đầu 1 Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 5 1. 1. Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.1. Khái nệm về Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi 6 1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi 7 1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi 8 1.2. Kinh nghiệm BHTG ở một số nước trên thế giới 17 1.2.1. Bảo hiểm tiền Mỹ 17 1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản 19 1.2.3. Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan 23 Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở ĐBSCL 25 2.1. Sự cần thiết khách quan hình thành BHTG Việt Nam 25 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 25 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam 26 2.2. Những thành tựu của BHTG Việt Nam (từ năm 1999 – 2008) 29 2.2.1. Đối với hệ thống NHTM và tổ chức phi ngân hàng 29 2.2.2. Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 32 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 33 2.3.1. Những hạn chế 34 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 47 2.4. Thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam ở khu vực ĐBSCL 49 2.4.1. Quá trình thành lập 49 2.4.2. Những thành tựu của Chi nhánh khu vực ĐBSCL 50 2.4.3. Những tồn tại trong hoạt động của Chi nhánh 53 2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại 55 Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHTG VIỆT NAM Ở ĐBSCL 57 3.1. Những định hướng chủ yếu về phát triển BHTG ở ĐBSCL 57 3.1.1. Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 57 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHTGVN Khu vực ĐBSCL 58 3.2. Dự báo về phát triển BHTG ở ĐBSCL 59 3.2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế và lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng. 59 3.2.2. Đối với quản lý rủi ro 60 3.3. Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở ĐBSCL 61 3.3.1. Hoàn thiện qui trình cho vay hỗ trợ tài chính đối với các QTDND tạo chỗ dựa vững chắc cho tín dụng ở nông thôn 61 3.3.2. Xây dựng quỹ hỗ trợ tiền gửi ngân hàng, từ nguồn vốn của NHTM nhằm hỗ trợ rủi ro tiền gửi 66 3.3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ BHTG ở ĐBSCL 66 3.3.4. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tiền gửi 67 3.3.5. Tái cơ cấu bộ máy quản lý của hệ thống BHTG ở ĐBSCL 68 3.3.6. Xây dựng mô hình BHTGVN trong điều kiện hội nhập 68 3.4. Các giải pháp hỗ trợ 75 3.4.1. Của Chính phủ 75 3.4.2. Của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76 3.4.3. Môi trường pháp lý 78 3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực 79 Kết luận 81 Danh mục tài liệu tham khảo Các phụ lục, mô hình

doc95 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến tâm lý người gửi tiền và cũng làm mất đi hình ảnh người bảo vệ người gửi tiền của tổ chức BHTG. Nhằm chấn chỉnh việc này BHTG Việt Nam gần đây đã liên kết với Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam để chi trả tiền gửi tại các tổ chức tín dụng bị phá sản. Việc cử cán bộ tham gia hội đồng thanh lý cũng không thực hiện được vai trò giám sát Hội đồng thanh lý, vì tổ chức này do đại diện NHNN trên địa bàn quản lý. - Đối với nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ: Thực sự với một bộ máy thiếu và yếu chi nhánh ĐBSCL không thể đảm đương được nhiệm vụ được giao, trong quá trình kiểm tra chưa nhận được sự đồng tình từ phía các chi nhánh NHNN, cụ thể Chi nhánh NHNN tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, từ đó cũng gây khó khăn cho Chi nhánh, bên cạnh đó còn nhiều QTDND cơ sở hoạt động mạnh trên địa bàn tỉnh An Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Bạc Liêu có thái độ bất cần tổ chức BHTG. Hiện nay chi nhánh chỉ thực hiện kiểm tra tại chổ đối với hệ thống QTDND còn các chi nhánh NHTM thì chỉ dừng lại ở mức kiểm tra số tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm và cách tính nộp phí của các đơn vị, điều này nằm ngoài năng lực của cấp chi nhánh và nó cũng là cái hạn chế chung của toàn hệ thống. - Đối với nghiệp vụ giám sát từ xa: Do chi nhánh chưa trang bị phần mềm chung cho hệ thống giám sát xếp hạng, nên rất khó khăn trong việc thu thập va xử lý dữ liệu, hiện nay chi nhánh ĐBSCL tự sử dụng phần mềm ứng dụng cho riêng chi nhánh để xử lý số liệu giám sát. Tuy nhiên việc chấp hành gửi báo cáo thông từ phía các TCTD không tốt đã làm cho việc giám sát thiếu tính khách quan, việc cảnh báo sớm đối với các TCTD còn mang tính hình thức, chưa có ý nghĩa thực tiễn. - Đối với công tác kiểm tra nội bộ: đây là một công tác lớn nhưng hiện nay các chi nhánh khu vực không có Bộ phận kiểm tra nội bộ (trước đây trong cơ cấu tổ chức cấp chi nhánh thì có), điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến việc chấn chỉnh trong nội bộ những sai sót trong vận hành bộ máy của Chi nhánh khu vực. - Đối với nghiệp vụ hỗ trợ tài chính: là một trong những sản phẩm có ý nghĩa chiến lược nhưng chi nhánh ĐBSCL không thực hiện được, có thể nói không có công tác marketing nào có sức thuyết phục bằng chính sản phẩm dịch vụ mà chúng ta mang lại cho khách hàng, phía sau công tác quảng bá hình ảnh phải là sản phẩm của chi nhánh nhưng sản phẩm này không đến được khách hàng (tổ chức tham gia BHTG) thì làm sao BHTG Chi nhánh khu vực ĐBSCL có một chổ đứng trong lòng khách hàng. 2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại - Nguyên nhân khách quan: + Do cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam theo mô hình trực tuyến chức năng, mọi quyền lực tập trung về Hội sở chính, mọi hoạt động của chi nhánh mang tính thực hiện chỉ tiêu kế hoạch từ trung ương xuống chi nhánh, chứ không xuất phát từ phía cơ sở. + Các chính sách tầm vĩ mô: do bị hạn chế từ phía trung ương nên chi nhánh khu vực bị chi phối bởi các chính sách này, như chưa có Luật điều chỉnh hoạt động BHTG. - Nguyên nhân chủ quan: Do trình độ của chi nhánh còn hạn chế, nguồn nhân lực thiếu và không được đào tạo, nhiều cán bộ tác nghiệp không phải từ ngành ngân hàng do đó sự hiểu biết về lĩnh vực tài chính ngân hàng còn hạn chế, chính sách sử dụng con người chưa được quan tâm, nhiều cán bộ có tâm huyết có nghiệp vụ ngân hàng bỏ đi về các NHTM. Được biết hiện nay BHTG Việt Nam đang trong quá trình đào tạo lại nguồn nhân lực cho các chi nhánh trong đó có chi nhánh ĐBSCL và đang hoàn thiện trong việc cơ cấu lại bộ máy các chi nhánh khu vực. Tất cả các nhân tố trên đã làm cho Chi nhánh khu vực ĐBSCL hoạt động chưa xứng với tầm cỡ mà BHTG Việt Nam giao phó. Kết luận chương 2: Chương này chúng ta đã phân tích sự cần thiết của việc thành lập BHTG Việt Nam, qua đó nhận biết được những mặt tích cực của BHTG Việt Nam đối với các định chế trung gian tài chính, đồng thời nêu lên những mặt hạn chế của chính sách BHTG của Việt Nam đối với tổ chức tham gia BHTG. Chúng ta cũng phân tích thực trạng hoạt động của BHT Việt Nam chi nhánh Khu vực ĐBSCL, những thành tựu và những hạn chế, những nguyên nhân của nó. Từ đó tạo tiền đề đưa ra những giải pháp cho Chương 3. Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHTG VN Ở ĐBSCL 3.1. Những định hướng chủ yếu về phát triển BHTG ở ĐBSCL 3.1.1. Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 Là một chi nhánh trực thuộc BHTG Việt Nam, do đó khi xây dựng chiến lược cho khu vực phải dựa trên nền tảng chung của chiến lược phát triển BHTG Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 là: xây dựng BHTGVN trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, phát triển bền vững, hoạt động hiệu quả phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin đối với công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Chiến lược dựa trên 5 trụ cột như sau: (xem Hình 3.1). Phát triển bền vững của BHTGVN Chiến lược Trụ cột 1 Xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý Trụ cột 2 Củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống Trụ cột 5 Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin Trụ cột 4 Tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý Trụ cột 3 Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và hội nhập quốc tế Hình 31: Mô hình chiến lược phát triển bền vững của BHTGVN - Thứ nhất: xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý - Thứ hai: củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống - Thứ ba: đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, hội nhập quốc tế - Thứ tư: tái cấu trúc hệ thống BHTG và phát triển nguồn nhân lực - Thứ năm: xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHTGVN Khu vực ĐBSCL Theo mô hình tổ chức hiện nay của BHTG Việt Nam, các chi nhánh khu vực hoàn toàn thụ động trong việc hoạch định chiến lược hoạt động cũng như phát triển các sản phẩm dịch vụ. Trong chiến lược tổng thể của BHTG Việt Nam (phần thứ 4) đưa ra việc tái cấu trúc hệ thống BHTG và phát triển nguồn nhân lực. Trong xu thế hội nhập ngành tài chính ngày càng đặt ra cho BHTG Việt Nam nhiều thách thức, việc cần thiết thay đổi mô hình hoạt động là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu hoạt động BHTG một số quốc gia trong khu vực và các nước khác việc cần thiết xây dựng mô hình hoạt động của BHTG Việt Nam theo mô hình công ty cổ phần trong đó nhà nước nắm quyền quản trị, khi đó các chi nhánh khu vực trở thành công ty con và được phân cấp quản lý theo từng khu vực. Mặt khác cần xác định mục tiêu lợi nhuận mới có thể tiến tới xây dựng mô hình bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro, bên cạnh đó cần phải có cơ chế giám sát quyền hạn của BHTG Việt Nam khi được khai thác mảng bảo hiểm tiền gửi, tránh rơi vào thế độc quyền. Đồng bằng sông Cửu long với một địa bàn rộng, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là rất lớn giữa các TCTD, việc cần thiết phải xây dựng chi nhánh BHTGVN khu vực này như sau: Mô hình hoạt động như một công ty con. Được phân quyền quyết định chính sách BHTG trong khu vực phụ trách, tự chịu trách nhiệm về kết quả của chi nhánh. Quyết định về việc tuyển dụng nhân sự theo phân cấp quản lý. 3.2. Dự báo về phát triển BHTG ở ĐBSCL. 3.2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế và lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng. Khu vực ĐBSCL bao gồm 12 tỉnh và một thành phố trực thuộc trung ương, dân số hơn 17 triệu, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hiện nay cả khu vực này có 122 QTDND cơ sở và 6 ngân hàng TMCP có Hội sở chính đặt trong khu vực, còn các chi nhánh của các NHTM lớn có hội sở chính tại Hà Nội và TP. HCM thì có mặt hầu hết tại các tỉnh trong khu vực này. Trong điều kiện đó các TCTD ngày càng mở rộng mạng lưới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của khu vực, hoạt động ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro mà nhất là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Đặc thù các NHTM hoạt động trong vùng ĐBSCL chủ yếu là nguồn thu từ tín dụng, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, tỷ lệ thu từ các sản phẩm dịch vụ còn rất khiêm tốn chiếm vào khoảng 10% - 15% đối với các ngân hàng có tầm cỡ lớn, đặc thù có những ngân hàng nhỏ 100% nguồn thu từ hoạt động tín dụng, do đó rủi ro là rất cao. Trong khi đó tại khu vực này BHTG Việt Nam chỉ có 01 chi nhánh khu vực ĐBSCL đặt tại TP. Cần Thơ, với nhân sự vào khoảng 40 cán bộ nhân viên thì việc đảm nhiệm cho cả một khu vực, về công nghệ chưa được ứng dụng công nghệ hiện đại, thì việc giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tham gia BHTG theo chức năng của BHTG Việt Nam là hết sức khó khăn, theo báo cáo của Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, đến tháng 06/2008 chi nhánh chỉ kiểm tra được 12 đơn vị, trong đó gồm 9 QTDND cơ sở và 03 NHTMCP trên địa bàn, điều này làm hạn chế việc phát hiện những khó khăn của các TCTD nhằm có biện pháp sớm khắc phục và cảnh báo những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng Tính 31/12/ 2008 chi nhánh khu vực ĐBSCL mới kiểm tra được 47/128 đơn vị trên địa bàn quản lý (xem phụ lục 3.1). Trong thời gian qua những biểu hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh của nhiều chi nhánh các NHTMCP trên địa bàn là một là một thực tế đáng quan ngại, việc nâng hạn mức cho vay kéo khách hàng về các chi nhánh của mình, do áp lực mở rộng mạng lưới chi nhánh của các NHTMCP ồ ạt tại các trung tâm đô thị lớn như TP. Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau, Vĩnh Long, Kiên Giang … đã làm cho tình hình tín dụng tại khu vực tăng trưởng nóng. Trong tình hình này đòi hỏi BHTG Việt Nam cần có những giải pháp quản lý các TCTD nhằm hạn chế những rủi ro có thể phát sinh trong trường hợp đổ vở các ngân hàng có thể xảy ra và nhất là các QTDND cơ sở. 3.2.2. Đối với quản lý rủi ro Mục tiêu chung của tất cả các ngành bảo hiểm là muốn tối thiểu mức độ rủi ro, mà hạn chế rủi ro cũng có nghĩa là tăng lợi nhuận. Bảo hiểm tiền gửi cũng không nằm ngoài tiêu chí đó, mặc dù mục tiêu không vì lợi nhuận, BHTG Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, việc quản lý rủi ro được đặt ra hàng đầu, góp phần cho các tổ chức tham gia BHTG hoạt động một cách an toàn và hiệu quả, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm chỉ là giải pháp sau cùng khi tổ chức tham gia BHTG mất khả chi trả dẫn đến phá sản. Mục tiêu chính của BHTG là sự ổn định về mặt chính trị, góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng. Trong tương lai hoạt động BHTG cần thiết có một thể chế giám sát từ xa các TCTD mà không cần thiết phải kiểm tra tại chỗ như hiện nay đang làm, việc kiểm tra của BHTG không làm cho các TCTD lành mạnh hơn, do năng lực về vốn cũng như nguồn nhân lực của BHTG Việt Nam chưa đủ khả năng để có thể kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, việc kiểm soát này đòi hỏi phải có sự phối hợp một cách đồng bộ giữa Chi nhánh NHNN các tỉnh trên địa bàn, các tổ chức kiểm toán, qua sự phối hợp đó nhằm làm lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng thông qua kênh giám sát của tổ chức BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD mà nhất là các ngân hàng nhỏ và hệ thống QTDND cơ sở. Trong giai đoạn hiện nay, việc xuất hiện kinh doanh ngân hàng của các tập đoàn ở Việt Nam trong thời gian gần đây là một điều đáng quan ngại, việc thiếu cơ chế giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng trong các tập đoàn luôn tiềm ẩn những nguy cơ khó lường trước được, việc kiểm tra hoạt động tín dụng trong nội bộ ngành của các tập đoàn hiện nay NHNN Việt Nam cần phải có cơ chế giám sát chặc chẽ, bên cạnh đó BHTG Việt Nam là một kênh giám sát nhằm góp phần lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng quốc gia. 3.3. Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở ĐBSCL. 3.3.1. Hoàn thiện qui trình cho vay hỗ trợ tài chính đối với các QTDND tạo chỗ dựa vững chắc cho tín dụng ở nông thôn. Hai hình thức bảo vệ bảo vệ trực tiếp người gửi tiền được thực hiện đối với tổ chức BHTG Việt Nam hiện nay là: chi trả tiền gửi được bảo hiểm và hỗ trợ tài chính. Khi công chúng gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi, nếu tổ chức nhận tiền gửi bị đổ vỡ, người gửi tiền sẽ nhận lại được tiền gửi của mình tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi) từ tổ chức BHTG. Số tiền vượt quá 50 triệu đồng sẽ được tiếp tục thanh toán cho người gửi tiền trong quá trình thanh lý tổ chức nhận tiền gửi theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản. Việc BHTG Việt Nam bảo vệ quyền lợi người gửi tiền thông qua nghiệp vụ chi trả tiền gửi khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản thời gian qua tại khu vực ĐBSCL, cụ thể là tại tỉnh Kiên Giang, thực sự là một giải pháp tốt trong tình thế các QTDND mất khả năng chi trả từ những năm trước khi BHTG Việt Nam chưa ra đời, việc chi trả số tiền 8.703.989.000 đồng, tại 7 QTDND cơ sở đã làm cho công chúng gửi tiền an tâm, tin tưởng vào hệ thống ngân hàng, ngăn ngừa hiệu ứng dây chuyền rút tiền ồ ạt tại các TCTD khác. Tuy nhiên, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm chỉ là biện pháp cuối khi không còn biện pháp nào để khôi phục tổ chức tham gia BHTG trở lại hoạt động bình thường. Ngoài biện pháp trên, người gửi tiền còn được BHTG Việt Nam bảo vệ một cách trực tiếp thông qua nghiệp vụ hỗ trợ tài chính. Như vậy, ngay bây giờ BHTG Việt Nam cần thiết phải hoàn thiện quy trình cho vay hỗ trợ tài chính, vì đây chính là công cụ hữu hiệu góp phần củng cố niềm tin của tổ chức tham gia BHTG vào tổ chức BHTG, củng cố niềm tin đối với công chúng khi gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, ngăn chặn tình trạng rút tiền trước hạn do tâm lý hoảng loạn của người gửi tiền, có thể dẫn tới nguy cơ phá sản của ngân hàng, tổ chức trung gian tài chính. Thông qua nghiệp vụ hỗ trợ tài chính, các tổ chức nhận tiền gửi nhất là hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở sẽ nhận thức rõ hơn về những lợi ích của việc tham gia bảo hiểm tiền gửi, giúp họ nâng cao khả năng phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục sự cố bất thường, tạo cho họ sức cạnh tranh tốt hơn. Trong điều kiện Việt Nam, việc cho vay hỗ trợ tài chính là một trong những giải pháp tối ưu cho các tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt là đối với các NHTMCP nhỏ và QTDND cơ sở. Ở khu vực ĐBSCL hiện nay có 122 QTDND cơ sở hoạt động, trên 12 tỉnh thành phố, địa bàn tập trung chủ yếu là ở nông thôn, vai trò của các QTDND cơ sở đã góp phần tích cực cho những vùng nông thôn sâu, giải quyết được nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp, những hộ gia đình nông thôn, buôn bán nhỏ, sản xuất ở các làng nghề, không đủ điều kiện tiếp cận nhu cầu vay vốn tại các NHTM, thì hệ thống QTDND cơ sở tỏ ra hữu hiệu, làm giảm đáng kể các hình thức cho vay nặng lãi ở nông thôn, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển, mà đặc biệt là cư dân khu vực ĐBSCL với 80% dân số sống ở nông thôn. Từ thực tiễn hoạt động của hệ thống QTDND ở ĐBSCL cho thấy đây là các tổ chức có qui mô hoạt động hạn chế (vốn điều lệ trung bình vào khoảng 3 tỷ đồng/QTDND cơ sở) và khi gặp khó khăn về tính thanh khoản việc khắc phục là vô cùng vất vả. Vì vậy khả năng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản là rất cao so với các NHTM. Nếu công tác hỗ trợ tài chính được BHGT Việt Nam triển khai kịp thời tại khu vực này, thì sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị này có thêm một kênh cung cấp hỗ trợ sẽ giúp họ duy trì hoạt động, vượt qua khó khăn. Trong điều kiện hệ thống QTDND cơ sở có vốn tự có thấp, khả năng huy động vốn rất là hạn chế, nếu BHTG Việt Nam cung cấp sản phẩm hỗ trợ tài chính cho các quỹ khi có khó khăn về tính thanh khoản thì vị thế và hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG sẽ được cộng đồng thừa nhận và khẳng định được vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền. Mặt khác tạo nền tảng vững chắc cho việc phát triển tín dụng nông thôn, đưa kinh tế nông thôn lên từng bước. Từ những thực tế đó, việc BHTG Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện qui chế cho vay hỗ trợ tài chính rộng rãi cho cả nước và nhất là khu vực ĐBSCL, thì hệ thống QTDND cơ sở sẽ có một điểm tựa vững chắc trong vấn đề chi trả tiền gửi khi gặp khó khăn, tạo dựng niềm tin cho công chúng khi gửi tiền vào các tổ chức này. Kinh nghiệm cho thấy phương pháp hỗ trợ tài chính là phương pháp tối ưu nhất trong quá trình xử một tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán nhưng chưa đến mức phải phá sản. Khi xử lý một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, phương pháp xử lý được lựa chọn cần phải đảm bảo nguyên tắc chi phí tối thiểu trong xử lý đổ vỡ cũng như tối thiểu hoá sự bất ổn phát sinh do đổ vỡ. Do vậy, theo các chuyên gia bảo hiểm tiền gửi, thì trong chừng mực có thể cần ưu tiên phương pháp hỗ trợ tài chính để tránh việc gây ra những tác động xấu nghiêm trọng của đổ vỡ đối với các hoạt động tài chính liên quan. Nếu như, trong trường hợp áp dụng phương pháp chi trả bảo hiểm, TCTD bị đổ vỡ sẽ được giải quyết theo thủ tục phá sản, bị chấm dứt hoạt động do phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, đều này dễ làm tổn hại đến các TCTD khác đang hoạt động lành mạnh trong vùng, ít nhiều bị ảnh hưởng, nhiều trường hợp tâm lý hoảng loạn dẫn đến rút tiền hàng loạt của công chúng có thể xảy ra, khó lường trước. Trong khi đó nếu áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, những chủ nợ thông thường bao gồm cả người gửi tiền sẽ hy vọng được thanh toán dựa trên giá trị của tài sản có tính đến các hoạt động tài chính, chứ không phải là giá trị thanh lý. Như vậy, phương pháp này sẽ giúp tránh được các tổn thất về kinh tế phát sinh do sự giải thể hoàn toàn của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Ngoài ra, người gửi tiền cũng sẽ có lợi vì họ được tiếp tục bảo vệ tại TCTD tiếp nhận và tiếp tục được hưởng lãi. Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, tổ chức BHTG cũng giảm được chi phí hơn so với trường hợp phải chi trả bảo hiểm. Tại khu vực ĐBSCL vừa qua BHTG Việt Nam thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các QTDND ở tỉnh Kiên Giang chỉ là một biện pháp tình thế, trên thực tế cần thiết sự hỗ trợ tài chính ngay khi gặp khó khăn ban đầu có thể tránh những đổ vỡ không thể xảy ra (trường hợp QTDND Giồng Riềng là một minh chứng). TCTD BHTG Khu vực BHTG Việt Nam Thẩm định HS Ra Quyết định Người gửi tiền (tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm) Theo qui trình cho vay hỗ trợ tài chính hiện nay, nếu như TCTD bị mất khả năng thanh toán tạm thời và gửi hồ sơ đề nghị được vay hỗ trợ tài chính từ BHTG Việt Nam, thì sự cố rút tiền hàng loạt sẽ xãy ra, bởi vì sự ứng cứu thiếu kịp thời, do qui trình cho vay hỗ trợ của BHTG Việt Nam hiện nay. Điều này, thực sự cần thiết xây dựng một phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, theo đó hàng năm các TCTD trên địa bàn ký với BHTG Việt Nam một hạn mức dự phòng tương ứng với mức độ rủi ro tiền gửi mà TCTD thấy cần thiết. khi có hiện tượng rút tiền thì sự hỗ trợ kịp thời sẽ giúp TCTD đó xử lý được kịp thời (Hình 3.2) TCTD BHTG Khu vực BHTG Việt Nam Thẩm định HS Ra Quyết định Người gửi tiền (tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm) Hình 3.2 - Mô hình cho vay theo phương thức tín dụng dự phòng 3.3.2. Xây dựng quỹ hỗ trợ tiền gửi ngân hàng, từ nguồn vốn của NHTM nhằm hỗ trợ rủi ro tiền gửi Cần xây dựng quỹ hỗ trợ tiền gửi ngân hàng trong hệ thống NHTM Việt Nam nhằm hỗ trợ rủi ro tiền gửi là một việc làm hết sức cần thiết, quỹ hỗ trợ là một công cụ trung gian để cứu các ngân hàng nhất là các ngân hàng nhỏ và các QTDND cơ sở có nguy cơ mất khả năng chi trả khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, chỉ khi nào quỹ hoàn toàn bất lực thì cuối cùng nhà nước mới ra tay hỗ trợ. Đối với Quỹ hỗ trợ tiền gửi riêng của hệ thống QTDND cơ sở những rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các QTDND vẫn nằm trong hệ thống của họ và chính bản thân của toàn bộ hệ thống, các thành viên là những người có trách nhiệm xử lý trước hết các rủi ro này để tránh đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTG Việt Nam, tính đến 31/12/2008 là 3.000 tỷ đồng. Nhìn chung quỹ dự phòng của BHTG Việt Nam hiện nay còn rất bé, chưa đủ mạnh để thực hiện vai trò trách nhiệm đối với tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp các tổ chức này bị đổ vỡ. 3.3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ BHTG ở ĐBSCL Muốn đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tại ĐBSCL việc cần thiết BHTG khu vực cần thiết xác định khách hàng của mình là ai và họ đang cần gì? Hiện nay, khách hàng của BHTGVN gồm có khách hàng là người gửi tiền (cá nhân, tổ chức) và các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc. Đối với khách hàng là tổ chức tham gia BHTG được phân chia làm 2 nhóm: khách hàng lớn là các NHTM (gồm NHTM nhà nước, NHTM cổ phần) và khách hàng nhỏ là các Cty tài chính phi ngân hàng, QTDND. Việc phân chia khách hàng như trên sẽ giúp cho BHTGVN có nhiều lợi thế trong việc triển khai sản phẩm cho từng nhóm khách hàng (Bảng 3.1). Người gửi tiền Cá nhân Hộ gia đình Tổ hợp tác Doanh nghiệp tư nhân Công ty hợp danh Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi NHTMNN, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương). Công ty tài chính. Bảng 3.1. Khách hàng hiện tại của BHTGVN Áp lực từ khách hàng đối với BHTGVN khu vực ĐBSCL hiện nay là rất lớn, thể hiện ở 2 mặt. Thứ nhất, áp lực về việc tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; về phạm vi, mức bảo hiểm tiền gửi. Thứ hai, phải nâng cao chất lượng sản phẩm để góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Trước mắt cần thiết triển khai các sản phẩm dịch vụ sau: - Hỗ trợ tài chính đối với các TCTD gặp khó khăn trong vấn đề tiền gửi, tập trung đặc biệt vào nhóm khách hàng là các QTDND cơ sở - Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, mua lại nợ. 3.3.4. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tiền gửi Cần thiết thực hiện 2 biện pháp căn bản nhằm phòng ngưà rủi ro như sau: - Biện pháp 1: nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm nhằm phù hợp với tình hình lạm phát gia tăng, tránh trường hợp khách hàng rút tiền gửi tiết kiệm đầu tư cho kênh khác. - Biện pháp 2: triển khai đồng bộ các nghiệp vụ BHTG nhằm đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nhất là nghiệp vụ hỗ trợ tài chính cho các TCTD nhất là hệ thống QTDND đối tượng nhiều rủi ro nhất trong hoạt động ngân hàng. 3.3.5. Tái cơ cấu bộ máy quản lý của hệ thống BHTG ở ĐBSCL Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, có 40 người, quản lý cả 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương quản lý 122 QTDND cơ sở và 7 Ngân hàng TMCP, có 2 phòng nghiệp vụ và 01 Phòng giám sát từ xa. Việc nắm bắt tình hình hoạt động của các TCTD còn nhiều bất cập. Trong xu hướng hiện nay cần thiết phải đặt văn phòng đại diện của BHTG tại các Chi nhánh của NHNN các tỉnh thành là một việc làm cần thiết. Qua đó, chi nhánh mới nắm bắt được những diễn biến trong từng tỉnh thành, thông qua việc kết hợp chia sẻ thông tin từ Phòng thanh tra và Phòng quản lý các TCTD sẽ đi sâu sát tình hình, nhằm đưa ra những biện pháp kịp thời cùng với Ngân hàng NN các tỉnh góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng trong khu vực. Tuy nhiên cần thiết thực hiện được mô các giải pháp cho Chi nhánh khu vực ĐBSCL cần thiết phải có các giải pháp ở tầm vĩ mô dưới đây: 3.3.6. Xây dựng mô hình BHTG Việt Nam trong điều kiện hội nhập 3.3.6.1. Mô hình giảm thiểu rủi ro tiền gửi BHTG Việt Nam đang thực hiện theo mô hình chi trả tiền gửi với quyền hạn mở rộng, sau 8 năm hoạt động mô hình này bộc lộ những hạn chế như sau: - Không kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, làm mâu thuẫn với tiêu chí của BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định trong hoạt động ngân hàng. - Tổ chức BHTG chỉ thực hiện chức năng của người “tẩn liệm” một khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. - Áp dụng mức phí đồng hạn không tạo ra sự cạnh tranh giữa các TCTD, thiếu công bằng đối với những đơn vị hoạt động lành mạnh từ đó làm giảm lòng tin của khách hàng đối với tổ chức BHTG (xem sơ đồ 3.1) Trong xu thế hội nhập sự cần thiết phải tuân thủ những thông lệ quốc tế về lĩnh vực tài chính – ngân hàng vì vậy phải cần thiết áp dụng mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro bởi những ưu điểm vượt trội của nó. Nếu như mô hình chi trả hoặc chi trả với quyền hạn mở rộng, vai trò của tổ chức BHTG hoàn toàn thụ động, thì mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro mang tính chủ động và phòng ngừa được thể hiện rất rõ, đồng thời mô hình này cũng phản ánh một cách đầy đủ nhất bản chất của bảo hiểm là luôn gắn liền với rủi ro. Vì thế một tổ chức BHTG được coi là hiệu quả phải có các quyền hạn và chức năng tương ứng cho phép tổ chức này hạn chế đến mức tối đa rủi ro của quốc gia, của từng ngành dịch vụ tài chính và người gửi tiền, tức là phải giảm đến mức thấp nhất những tổn thất xã hội trong quản trị rủi ro. Cụ thể, tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro có thể can thiệp vào mọi thời điểm, mọi giai đoạn trong “vòng đời” của tổ chức tham gia BHTG kể từ lúc được hình thành, cấp phép và đi vào hoạt động đến từng giai đoạn phát triển của tổ chức này đều có vai trò đo lường, kiểm soát và ngăn chặn rủi ro của tổ chức BHTG. Thậm chí, nếu tổ chức tham gia BHTG suy yếu đến mức buộc phải giải thể hoặc phá sản thì vai trò của BHTG lúc này không chỉ là thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả mà còn bằng các biện pháp xử lý khác giúp tổ chức tín dụng rút khỏi thị trường một cách có trật tự, tránh lây lan, ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của thị trường tài chính và nền kinh tế. Có thể thấy, mô hình giảm thiểu rủi ro cho phép tổ chức BHTG quản lý rủi ro một cách toàn diện nhất, đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh của tổ chức tham gia BHTG. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) với tiêu đề “Tổ chức BHTG xử lý ngân hàng đổ vỡ” năm 2006 nghiên cứu kinh nghiệm và số liệu của 1.700 ngân hàng tại 57 quốc gia cho thấy, ở những nước mà tổ chức BHTG có quyền can thiệp và chấm dứt BHTG thì các ngân hàng hoạt động ổn định hơn và nguy cơ mất khả năng thanh toán thấp hơn. Mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro hoạt động trên nguyên tắc tối ưu: chi phí thấp nhất, chia sẻ thiệt hại công bằng, thực hiện các mục tiêu chính sách công của BHTG (bao gồm: bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền; giám sát rủi ro, đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của các tổ chức tín dụng; chủ động tham gia tái cấu trúc hệ thống ngân hàng). Thực tế đã chứng minh, mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro là mô hình thực sự mang lại lợi ích cho người gửi tiền cũng như doanh nghiệp và nền kinh tế. (xem sơ đồ 3.2) Mô hình giảm thiểu rủi ro với các thẩm quyền cơ bản theo thông lệ quốc tế bao gồm:   - Quyền chấp thuận hoặc chấm dứt BHTG theo nguyên tắc nhất định;   - Độc lập về tài chính: Quyết định cơ chế tính phí hoặc xây dựng và đệ trình lên cơ quan giám sát hợp nhất quyết định; quyền tiếp cận nguồn tài chính bổ sung từ các cơ quan Chính phủ và trên thị trường tài chính.    - Quản lý quỹ: Tổ chức BHTG đầu tư quỹ tích lũy được vào thị trường tài chính thông qua các loại chứng khoán Chính phủ có thu nhập cố định.    - Quyền truy cập thông tin: Được thu thập thông tin định kỳ và đột xuất từ tổ chức tham gia BHTG hoặc từ các cơ quan giám sát khác kiểm tra lại tính chính xác của thông tin; - Chức năng giám sát rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính: Xác định tổ chức BHTG là bộ phận cấu thành của hệ thống giám sát hợp nhất quốc gia, trách nhiệm và phạm vi giám sát được luật định rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; - Xây dựng và thực hiện hệ thống cảnh báo sớm; thực hiện can thiệp sớm theo nguyên tắc chi phí tối thiểu - Quyền quyết định phương pháp xử lý: Được giao thẩm quyền linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp và triển khai hỗ trợ tài chính hoặc tiếp nhận xử lý; (xem Phụ lục 3.2) 3.3.6.2. Bảo vệ quyền lợi của người có tiền gửi nhỏ Ở Việt Nam, lượng khách hàng nhỏ thường chiếm 75% - 80% và số tiền họ gửi chỉ bằng 10% - 15% tổng lượng tiền gửi vào ngân hàng. Vì vậy, tập trung cho khách hàng nhỏ vừa đảm bảo mục đích bảo vệ quyền lợi của số đông khách hàng, nhưng số tiền được bảo hiểm không quá lớn khiến ngân hàng chủ quan. Khi nghiên cứu mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm, phải bảo đảm hai yếu tố: số tiền chi trả tối đa cũng phải đủ cao để ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt khi ngân hàng có sự cố; thứ hai phải đủ thấp để khuyến khích sự thận trọng của người gửi tiền, từ đó tăng cường giám sát và tạo áp lực để tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả. Từ những năm mới thành lập, mức chi trả tối đa là 30 triệu đồng cho một khách hàng có thể đáp ứng tiêu chí này. Khi nghị định 109 ra đời nên nâng mức chi trả lên 50 triệu đồng, mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm hiện nay không còn phù hợp, việc cần thiết phải nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm lên từ 100 triệu đồng cho một khách hàng trong giai đoạn hiện nay là phù hợp. 3.3.6.3. Giảm gánh nặng cho Chính phủ bằng sự đóng góp của các NHTM. Hoạt động của tổ chức BHTG thông qua quỹ nghiệp vụ từ việc đóng góp của các tổ chức tham gia BHTG, BHTG Việt Nam thay mặt Chính phủ thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền mà không cần phải sử dụng đến ngân sách Nhà nước. Tính đến 31/12/2007, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTG Việt Nam là 2.903 tỷ đồng được đầu tư dưới nhiều hình thức phù hợp, đồng thời nâng cao hiệu quả tích lũy quỹ nghiệp vụ. Đến nay, BHTG Việt Nam đã thu phí BHTG của 1.063 đơn vị với tổng số tiền hơn 480 tỷ đồng, tăng 36% so với cuối năm 2006 và bổ sung 100% vào quỹ nghiệp vụ BHTG. Việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm hiện nay trên cả nước cho 35 QTDND cơ sở ở 12 tỉnh, thành phố với số tiền là gần 18 tỷ đồng, việc chi trả tiền gửi này chưa sử dụng đến ngân sách của Nhà nước, đây là thế mạnh của tổ chức BHTG trong việc góp phần giảm bớt gánh nặng cho Chính phủ trong việc sử dụng bù đắp rủi ro cho các TCTD bị phá sản. 3.3.6.4. Tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh BHTG Trên thế giới, BHTG được xem là một ngành chuyên biệt và đặc thù của loại hình bảo hiểm tiền gửi là ở mỗi quốc gia chỉ có duy nhất một tổ chức được thực hiện hoạt động BHTG. Tương tự như thế, BHTGVN hoạt động trong môi trường không có đối thủ cạnh tranh và cũng không có bất cứ áp lực nào từ sự gia nhập ngành. Sản phẩm bảo hiểm tiền gửi là một sản phẩm đặc biệt, xét theo nghĩa hẹp thì không có sản phẩm thay thế. Tuy nhiên, nếu xét rộng hơn là bất cứ sản phẩm đầu tư nào ngoài sản phẩm tiền gửi đều là sản phẩm thay thế của BHTG. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực chất là một công cụ của Chính phủ bảo vệ sự an toàn tiền gửi, trong trường hợp có sự đổ vỡ thì Ngân hàng Trung ương có thể bơm tiền để cứu các ngân hàng thương mại. Là tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận trong xu thế mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho hệ thống NHTM Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nó tạo ra mức lãi suất thực âm là một thách thức đối với tổ chức BHTG đặc biệt là khu vực ĐBSCL nơi có tỷ lệ huy động gửi tiền thấp, dư nợ tín dụng cao, việc bảo vệ người gửi tiền chính là tạo ra một thế cạnh tranh, từ đó chúng ta đề xuất các giải pháp cho việc cạnh tranh của tổ chức BHTG theo hướng: - Nâng mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm lên 200 triệu đồng/khách hàng (thay vì 50 triệu như hiện nay). - Tăng cường quan hệ công chúng, thông qua việc quảng bá hình ảnh BHTG Việt Nam mà hiện nay công chúng còn chưa biết . 3.3.6.5. Xử lý trong trường hợp đổ vỡ ngân hàng Từ khi ra đời đến nay BHTG Việt Nam xử lý một TCTD bị đổ vỡ bằng hình thức chi trả tiền gửi được bảo hiểm và sau đó tiến hành thanh lý. Đây là một biện pháp trong giai đoạn đầu mới thành lập thì BHTG Việt Nam áp dụng có hiệu quả, nhưng trong giai đoạn sắp tới, trong tiến trình hội nhập BHTG Việt Nam nên nghiên cứu cơ chế sáp nhập ngân hàng và thành lập ngân hàng bắt cầu (Bridge Bank), qua đó BHTG Việt Nam sẽ đứng ra quản lý TCTD bị đổ vỡ, cơ cấu lại và thành lập Bridge Bank, sau đó tìm kiếm đối tác có tiềm lực tài chính mạnh để bán lại. Qua đó quyền lợi của người gửi tiền sẽ được bảo vệ một cách tuyệt đối và những cuộc mua bán ngân hàng không làm tổn hại đến các TCTD đang hoạt động lành mạnh và nhất là tâm lý ổn định của người gửi tiền, từ đó tránh được nguy cơ rút tiền gửi hàng loạt. Trong lịch sử các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra như ở Mỹ vào những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ trước, ở Châu Á năm 1997 và mới đây ở Mỹ vào tháng 09/2008, hầu hết đều bắt nguồn từ sự đổ vỡ của một ngân hàng. Với vai trò là một cơ quan giám sát trong mạng an toàn tài chính quốc gia, cùng với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, tổ chức BHTG phải có vai trò can thiệp khi xảy ra khủng hoảng tài chính. Để thực hiện được vai trò này, ngoài việc phải có địa vị pháp lý rõ ràng, tổ chức BHTG phải có một nguồn tài chính đủ mạnh thì mới có thể xử lý được. Nguồn tài chính này có thể hình thành do phát hành trái phiếu, vay từ Ngân hàng Nhà nước (hạn mức tín dụng đặc biệt) hoặc vay từ nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ, vì trong thực tế, ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới không thể có một tổ chức BHTG nào có đủ tiềm lực tài chính để có thể xử lý khi xảy ra đổ vỡ một số ngân hàng thương mại lớn chứ chưa nói gì đến khủng hoảng tài chính Hiện nay, nguồn vốn hoạt động của BHTGVN ngoài 1.000 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước cấp ban đầu còn có khoảng 1.700 tỷ đồng từ thu phí BHTG của các tổ chức tham gia BHTG và từ hoạt động đầu tư. Mức vốn này hoàn toàn chưa tương xứng với vai trò của BHTGVN cũng như mức độ rủi ro của hệ thống tài chính - ngân hàng nước ta. Theo thông lệ quốc tế và của những nước có trình độ phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ giữa mức vốn của tổ chức BHTG/Tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm (còn gọi là tỷ lệ vốn mục tiêu) ở vào mức 1,5 - 5%, trong khi đó, ở Việt Nam, tỷ lệ này mới ở mức 0,97 - 1%, thấp hơn nhiều so với thông lệ quốc tế. Vì vậy, để BHTGVN thực hiện được vai trò của mình và hạn chế việc phải điều chỉnh luật, thay vì quy định mức vốn điều lệ cố định do ngân sách cấp như hiện nay Đối với BHTG Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thực hiện tốt vai trò tiếp nhận, xử lý những tổ chức tài chính đổ vỡ cụ thể là những QTDND cơ sở, đặc biệt là tại tỉnh Kiên Giang thuộc khu vực ĐBSCL ngay từ khi ra đời tổ chức BHTG đã tiến hành xử lý 7 QTDND tại tỉnh Kiên Giang, tổng số tiền chi trả là 8.703.989.000 đồng cho người gửi tiền. 3.4. Các giải pháp hỗ trợ 3.4.1. Của Chính phủ Tổ chức BHTG mặc dù là một cơ chế độc lập với hệ thống Ngân hàng Nhà nước, đây là một định chế tài chính của Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận góp phần bảo đảm và duy trì an toàn trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy rất cần thiết việc ban hành những văn bản pháp luật qui định rõ ràng tổ chức BHTG là một kênh giám sát trong mạng an toàn tài chính quốc gia giúp Chính phủ kiểm soát rủi ro đối với hoạt động của hệ thống tài chính- ngân hàng. Được biết BHTG Việt Nam đang xúc tiến dự thảo Luật BHTG nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của BHTG Việt Nam đúng với tầm vóc của mình. Chính vì vậy, hiện nay theo sự chỉ đạo của Chính phủ BHTG Việt Nam đang cùng với các Bộ, ngành xúc tiến đẩy mạnh việc xây dựng Luật BHTG  để trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp cuối năm 2008 và dự kiến thông qua vào năm 2009. Luật BHTG ra đời sẽ là một hành lang pháp lý tốt giúp cho tổ chức BHTG thực hiện tốt vai trò của mình, khi đó quyền lợi của người gửi tiền  sẽ được bảo vệ tốt hơn, hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG sẽ an toàn, hiệu quả hơn. Vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết can thiệp vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô là hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng của nước Mỹ của năm 2008 này lan sang các nước Châu Âu và nguy cơ lan rộng toàn cầu là điều khó tránh khỏi, nhưng qua đó chúng ta nhận thấy rằng lý thuyết kinh tế học đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và hiệu quả. Hãy nhìn lại thị trường tài chính tín dụng hiện nay trên thế giới mà đại diện là thị trường Mỹ và Châu Âu, chúng ta sẽ cho thấy rằng hiện nay Chính phủ Mỹ và các nước lớn ở Châu Âu đưa ra những quy tắc quản lý thị trường chặt chẽ hơn, nhằm khôi phục lòng tin của công chúng, nhằm tránh sự sụp đổ của ngành tài chính ngân hàng. Ngày 20-21/9/2008, Chỉ sau một đêm, Chính phủ Hoa Kỳ đã công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD cho thị trường tài chính ngân hàng. 3.4.2. Của ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đa số các ngân hàng trung ương trên thế giới có hai chức năng chính: điều hành chính sách tiền tệ và đảm bảo sự ổn định và an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và một phần nào đó là hệ thống tài chính quốc gia nói chung. Chức năng thứ hai được thực thi qua hệ thống giám sát tính cẩn trọng (prudential supervision) của các NHTM song song với việc thực thi nghĩa vụ “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort – LOLR) cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản. LOLR có vai trò rất quan trọng trong việc giúp ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc thay đổi lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Nếu ngân hàng trung ương không cam kết thực hiện nghĩa vụ LOLR hoặc các NHTM không tin tưởng vào lời cam kết này thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có khả năng lệch khỏi lãi suất mục tiêu mà chính sách tiền tệ muốn hướng tới. Tuy nhiên, mục đích chính của LOLR là công cụ của ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại quốc gia. Hệ thống các ngân hàng của Việt Nam hiện nay tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm các NHTM nhà nước, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, các tổ chức phi ngân hàng, hệ thống QTDND, đặc điểm của hệ thống này là có sự chênh lệch rất lớn về qui mô hoạt động, trình độ và công nghệ quản lý, sự khác biệt về thị phần là một trong những yếu tố quan trọng là một trong nguyên nhân làm cho các ngân hàng nhỏ gặp nhiều nguy cơ trong hoạt động ngân hàng là rất cao dẫn đến sự đổ vỡ, do vốn điều lệ thấp trình độ quản trị yếu, nợ xấu cao, đặc biệt là đối với các QTDND cơ sở sẽ dễ dàng bị phá sản khi có những biến động xảy ra. Kinh nghiệm về xử lý khủng hoảng tài chính ngân hàng tại Mỹ vừa qua, vai trò của NHTW là hết sức quan trọng. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ (Federal Reserve System – FED), ngoài việc thể hiện mình là người cho vay cuối cùng ” (lender of last resort – LOLR) cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản như đã phân tích ở phần trên, chính FED đã trao quyền lực cho Cty BHTG liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation – FDIC), trong việc xử lý các ngân hàng tại Mỹ hồi những tháng đầu năm 2008, qua đó vai trò của BHTG Hoa Kỳ đã tăng lên một cách rõ nét và hết sức cần thiết trong hệ thống tài chính của Hoa Kỳ. Chính Cty BHTG liên bang đã quản lý các ngân hàng và sau đó tìm cách bán lại cho một định chế tài chính khác nhằm khắc phục tình trạng hỗn loạn trong dân chúng một khi ngân hàng đổ vỡ. Đối với BHTG Việt Nam, trong thời gian tới việc cần thiết là phải được trao cho quyền được tham gia trong việc cơ cấu lại ngân hàng nhằm thể hiện được chức năng nhiệm vụ của một định chế tài chính của chính phủ và là một bộ phận cấu thành mạng an toàn tài chính quốc gia. Điều này cần thiết phải được thể thế bằng Luật BHTG sẽ ra đời trong thời gian tới. Sơ đồ mạng lưới an toàn tài chính quốc gia Nguồn: BHTG Việt Nam 3.4.3. Môi trường pháp lý Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đến nay đã được 9 năm, trong 9 năm qua BHTG Việt Nam đã làm tốt việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của hệ thống tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế nhất là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế đòi hỏi hệ thống tài chính - ngân hàng nói chung, BHTG Việt Nam nói riêng phải có những đổi mới để đối phó với nguy cơ rủi ro cao của hệ thống tài chính, đồng thời cũng để phù hợp với thông lệ quốc tế, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đó là tạo khung pháp lý mới cho hoạt động của BHTG Việt Nam. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới khi tổ chức BHTG được thành lập và đi vào hoạt động thì đã có Luật điều chỉnh ngay, trong khi đó văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này ở Việt Nam mới ở mức Nghị định. Vì thiếu một khung pháp lý vững chắc điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này nên đã phần nào làm hạn chế  BHTG Việt Nam thực hiện các chức năng, nhiệm vụ vốn có của một tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế.  Trước tình hình đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước làm đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và BHTGVN khẩn trương xúc tiến việc xây dựng Luật BHTG. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật cho hoạt động BHTG. Tuy nhiên hiện nay, cơ sở hạ tầng pháp lý vẫn còn thiếu và yếu, chưa tương xứng với nhiệm vụ của BHTGVN. Pháp luật về BHTG đang ở mức nghị định của Chính phủ, chưa có luật về BHTG tương xứng với các bộ luật khác điều chỉnh về các lĩnh vực liên quan, do đó đã hạn chế việc thực hiện chức năng nhiệm vụ vốn có của BHTGVN; Quyền hạn và nghĩa vụ luật định của BHTGVN còn bị hạn chế so với mục tiêu, kỳ vọng của tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế. chính vì vậy việc xây dựng Luật BHTG là một yêu cầu bức thiết nhằm tạo môi trường pháp lý để BHTG hoạt động tốt hơn trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, một vấn đề hết sức quan trọng mà hiện nay BHTG Việt Nam thuộc Chính phủ nhưng không phải là cơ quan ngang bộ cũng không trực thuộc bộ nào. Nhằm bảo đảm tính độc lập với NHNN nên giao cho Bộ tài chính quản lý BHTG Việt Nam là hợp lý nhất, bên cạnh đó cần có sự phối hợp với NHNNN Việt Nam nhằm đưa tổ chức BHTG Việt Nam hoạt động hiệu quả là một kênh gám sát rủi ro giúp NHNN Việt Nam kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực Thành lập Trung tâm đào tạo nguồn nhân lực cho BHTG Việt Nam, từng bước trở thành một trung tâm đào tạo mang tính chuyên nghiệp. Hiện nay các NHTM Nhà nước và nhiều ngân hàng TMCP lớn ở Việt Nam như ACB, Sacombank, Eximbank, DongAbank, đã có những trung tâm đào tạo chuyên nghiệp, chức năng của các trung tâm này đào tạo và đào tạo lại nguồn lực cho ngành ngân hàng. Ngày nay đối với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào muốn thành công thì phải hội đủ 3 yếu tố: tiềm lực tài chính, công nghệ và con người. Trong đó yếu tố con người mang tính quyết định. BHTG Việt Nam là một định chế tài chính Nhà nước, giám sát hệ thống ngân hàng trong cả nước, việc thành lập một trung tâm đào tạo tương xứng với vai trò vị trí của mình là một yêu cầu cấp thiết, vì đây là một yếu tố quan trọng, suy cho cùng yếu tố con người trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng quyết định sự thành bại. Qua 9 năm thành lập, xây dựng và phát triển đến nay tiềm lực của BHTG Việt Nam còn nhỏ bé (bao gồm 1 Hội sở chính và 6 chi nhánh khu vực), trình độ công nghệ chưa được hiện đại hóa, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa được chuyên môn hóa cao nhất là đối với các chi nhánh khu vực. Hiện nay BHTG Việt Nam đào tạo nhân viên tập trung tất cả về Hội sở chính tại Hà Nội, việc đưa cán bộ đi tham dự các lớp tại Hội sở từ các chi nhánh là rất tốn kém, nên chăng BHTG Việt Nam đào tạo cán bộ phân cấp theo khu vực, có thể lấy chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đặt một trung tâm đào tạo cho cán bộ phía Nam, làm như vậy sẽ giảm đi rất nhiều chi phí. Liên kết với các Trường, các tổ chức quốc tế đào tạo nguồn nhân lực cho BHTG Việt Nam. Ngoài ra cần thiết khuyến khích, động viên cán bộ có kế hoạch tự đào tạo mình nhằm hoàn thiện kiến thức để phù hợp với xu thế phát triển của ngành ngân hàng. KẾT LUẬN Với những thành tựu qua 8 năm hoạt động, BHTG Việt Nam đã đạt những kết quả đáng kể, tuy còn nhiều vấn đề mà BHTG Việt Nam cần phải làm để xứng đáng với vai trò chức năng và nhiệm vụ mà Chính phủ giao phó. Trong những năm qua, điều mà BHTG Việt Nam làm được đó chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần ổn định chính trị, tạo ra sự an tâm của công chúng khi gửi tiền vào các TCTD, góp phần duy trì sự ổn định trong hoạt động ngân hàng. Với thành tích chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các QTNDN cơ sở trên cả nước và đặc biệt là tại tỉnh Kiên Giang thuộc khu vực ĐBSCL, BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL đã làm cho công chúng vững tâm hơn vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, cũng chính nơi đây, công chúng đã nhận thức rằng BHTG Việt Nam thực sự là người bảo vệ họ, còn đối với nền kinh tế BHTG Việt Nam thực sự là một “tấm lá chắn” góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Danh mục tài liệu tham khảo Bộ Tài chính (2001), Thông tư 27/2001/TT-BTC ngày 27/4/2001 hướng dẫn chế độ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2004), Báo cáo kết quả dự Hội nghị lần thứ 2 của Tiểu Ban Châu Á Hiệp Hội BHTG quốc tế tại Nhật Bản. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2006), Báo cáo sơ kết thí điểm hỗ trợ tài chính giai đoạn một (8/2005 - 8/2006). Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2005), Chiến lược phát triển giai đoạn 2006 - 2015. BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL (2008), Báo cáo số 130/BC-BHTG703, ngày 24/06/2008 Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm 2008 và kế hoạch công tác 6 tháng cuối năm 2008. Bích Liên (2008) Luật Bảo hiểm tiền gửi ra đời sẽ giúp DIV thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Báo Người đại biểu Nhân dân Chính phủ (1999), Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi. Chính phủ (1999), Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ tổ chức, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Chính phủ (2005), Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 23/8/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, ngày 24/06/2008. Vượt qua khủng hoảng và tiếp tục đẩy mạnh cải cách, Bài thảo luận chính sách số 2 Chính phủ (2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Dương Thu Phượng Theo TC Thị trường TC Tiền tệ số 10 ngày 15/5/2007. Đánh giá, dự báo và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng, Nguyễn Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Thu Hà, Chu Thị Hồng Minh, Bùi Thế Vũ, Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Thu Trang – Ngân hàng NNVN, ngày 27/12/2008. Nguyễn Quốc Nam (2007), Nghiên cứu sản phẩm mới và chiêu thị của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Luận án thạc sỹ kinh tế. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Bảo hiểm tiền gửi - Nguyên lý, thực tiễn và định hướng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Giám sát là chốt chặn an toàn Báo Lao Động số 191, ngày 20/08/2008  PGSTS. Trần Huy Hoàng (2003) Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam nhân sự kiện rút tiền hàng lọat ở Ngân hàng ACB. Quyết định số199/QĐ-BHTG11, ngày 20/07/2005, “Ban hành qui định tạm thời cho vay hỗ trợ đối với QTDND cơ sở”. Quyết định số 106/2002/QĐ-HĐQT ngày 24 tháng 06 năm 2002 của Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam, “Ban hành qui chế bảo lãnh đối với các tổ chức tham gia BHTG. ThS. Phạm Hữu Phương (2008) Vai trò của BHTG đối với sự phát triển của hệ thống TC Ngân hàng trên địa bàn các tỉnh phía Nam Trần Minh Tuấn (2007), “Đẩy mạnh hơn nữa vai trò của BHTGVN đối với nền kinh tế”. TS. Bùi Khắc Sơn (2006), “Mạng an toàn tài chính quốc gia và hoạt động của BHTG Việt Nam”. Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn Website Tổng cục thống kê: www.gso.org.vn Sơ đồ 3.1: MÔ HÌNH CHI TRẢ VỚI QUYỀN HẠN MỞ RỘNG Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, TP Ủy Ban Nhân dân Tỉnh, Thành phố TCTD mất khả năng chi trả BHTG Việt Nam CN Khu vực BHTG Việt Nam BHTG Việt Nam phê duyệt phương án chi trả Các bước thực hiện: TCTD bị mất khả năng chi trả gửi đề nghị Chi nhánh BHTGVN chi trả. Chi nhánh khu vực trình phương án chi trả đến BHTG Việt Nam. BHTGVN phê duyệt phương án chi trả thông báo cho Chi nhánh. Chi nhánh khu vực kiểm tra TCTD, xác nhận số dư tiền gửi được bảo hiểm, kết hợp với NHNN trên địa bàn, báo cáo với UBND tỉnh, TP nơi đặt trụ sở TCTD, tiến hành chi trả. Báo cáo cho BHTG Việt Nam về kết quả chi trả Sơ đồ 3.2: MÔ HÌNH GIẢM THIỂU RŨI RO CN Khu vực BHTG Việt Nam  TCTD mất khả năng chi trả tạm thời Œ   BHTG Việt Nam Quyết định các PA Ž Ž Ž CHI TRẢ TIỀN GỬI BH HỔ TỢ TÀI CHÍNH MUA LẠI TCTD Các bước thực hiện: Các Chi nhánh khu vực chủ động trong việc nhận biết tình trạng của TCTD (do thực hiện tốt vai trò giám sát rũi ro). Các Chi nhánh khu vực đề nghị BHTG Việt Nam xem xét BHTG Việt Nam sau khi xem xét tuỳ theo mức độ của TCTD đưa ra nhiều phương án. Chỉ đạo các Chi nhánh khu vực thực hiện một trong những phương án đã được duyệt. Chi nhánh thực hiện phương án được phê duyệt Phụ lục 2.1: ĐỊA BÀN QUẢN LÝ CỦA CHI NHÁNH ĐBSCL (Tính đến 31/12/2008) STT ĐƠN VỊ Số lượng QTDND cơ sở Số lượng NHTMCP 1 TP. Cần Thơ 3 1 2 Cà Mau 2 3 Bạc Liêu 5 4 Sóc Trăng 14 1 5 Hậu Giang 1 1 6 Kiên Giang 24 1 7 An Giang 22 1 8 Đồng Tháp 17 1 9 Vĩnh Long 2 10 Trà Vinh 15 11 Tiền Giang 14 12 Bến Tre 3 Tổng cộng 122 6 Nguồn: BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL Phụ lục 3.1 : SỐ LƯỢNG CÁC ĐƠN VỊ ĐƯỢC KIỂM TRA TẠI CHI NHÁNH KHU VỰC ĐBSCL (Từ 01/01/2008 đến 31/12/2008) STT ĐƠN VỊ Số lượng QTDND cơ sở Số lượng NHTMCP Số lượng đơn vị được kiểm tra Tỷ lệ đạt 1 TP. Cần Thơ 3 1 4 2 Cà Mau 2 2 3 Bạc Liêu 5 5 4 Sóc Trăng 14 1 5 5 Hậu Giang 1 1 1 6 Kiên Giang 24 1 6 7 An Giang 22 1 5 8 Đồng Tháp 17 1 4 9 Vĩnh Long 2 2 10 Trà Vinh 15 5 11 Tiền Giang 14 5 12 Bến Tre 3 3 Tổng cộng 122 6 47 36,7% Nguồn: BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL Phụ lục 3.2: Mục tiêu chính sách công của các mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi TT Mục tiêu chính sách công Mô hình giảm thiểu rủi ro Mô hình chi trả quyền mở rộng Mô hình chi trả 1 Bảo vệ người gửi tiền nhỏ thông qua việc cung cấp cơ chế bồi thường x x x 2 Khuyến khích người gửi tiền ít hiểu biết về tài chính giám sát ngân hàng và thực hiện các nguyên tắc thị trường x x x 3 Giảm gánh nặng cho Chính phủ và yêu cầu các ngân hàng tốt đóng góp chi phí trong quá trình xử lý ngân hàng x x x 4 Thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực tài chính x x x 5 Tạo ra một cơ chế chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng x x 6 Tránh khủng hoảng tài chính x x 7 Thúc đẩy ổn định tài chính x 8 Khuyến khích tiết kiệm và thúc đẩy tăng trưởng tài chính kinh tế x 9 Góp phần vào hệ thống thanh toán có trật tự x 10 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế x 11 Giảm thiểu tác động của suy thoái kinh tế x Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 11/2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông cửu long.doc