Luận văn Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Khi cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu vẫn tiếp tục điều tra thì cần tiếp tục vận động họ không áp dụng biện pháp tạm thời (với lý do hàng nhập khẩu chưa gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước). Trong trường hợp việc áp dụng thuế chống bán phá giá là khó tránh khỏi thì có thể chủ động đề xuất cam kết tăng giá xuất khẩu để nước nhập khẩu dừng điều tra và giải quyết tranh chấp theo biện pháp hoà giải. Đặc biệt, cần nâng cao năng lực đàm phán và giải quyết các tranh chấp phát sinh. Biện pháp này sẽ giúp giải quyết ổn thoả các xung đột thương mại, xoa dịu hoặc hạn chế được các thiệt hại trong trường hợp bị áp đặt hình thức đối kháng. Cuối cùng, khi cam kết tăng giá xuất khẩu cũng không được chấp nhận thì khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cần tiếp tục vận động để mức thuế chống bán phá giá càng thấp càng tốt (có thể vận động những nhà sản xuất ở nước nhập khẩu sử dụng hàng nhập khẩu như là nguyên liệu đầu vào và người tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu gây sức ép với cơ quan thẩm quyền áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá). Ngoài ra, để chủ động “ hầu kiện” hoặc “kháng cáo” trong những trường hợp cần thiết, cần phải chủ động chuẩn bị các chứng từ có liên quan để có cơ sở cho việc xác định biên độ phá giá (cho từng nhà xuất khẩu) và kim ngạch xuất khẩu của ta đã bằng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó hay không?

pdf107 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3998 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Kỳ đã cam kết sẽ điều chỉnh lại mức thuế nhập khẩu mặt hàng này trong năm nay. Thứ hai, bên cạnh việc kháng kiện Thái Lan còn sử dụng nhiều biện pháp phối hợp nhằm ngăn chặn và hạn chế hậu quả của việc áp thuế chống phá giá. Tháng 12/2002, khi xuất khẩu tôm của Thái Lan sang Hoa Kỳ bị đe doạ kiện bán phá giá (vào thời điểm đó tôm của Thái Lan chiếm tới 45% thị phần tôm nhập khẩu của Hoa Kỳ) nước này đã chủ động thuê một công ty luật của Hoa Kỳ (Willkie Gallager-WG) để sẵn sàng đối phó với vụ kiện. Công ty luật này, một mặt tranh thủ người tiêu dùng, các nhà nhập khẩu và phân phối Hoa Kỳ mở rộng chiến dịch tuyên truyền rằng nếu như việc áp thuế chống phá giá đối với tôm của Thái Lan được thi hành thì người chịu thiệt đầu tiên chính là người tiêu dùng, mặt khác dù có phát huy tối đa thì khả năng sản xuất của Hoa Kỳ chỉ có thể đáp ứng tối đa 10% nhu cầu trong nước. Cùng lúc đó, trong chuyến thăm Hoa Kỳ, Bộ trưởng Thương mại Thái Lan đã hội đàm với Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ trong đó có đề cập đến vụ việc và cho rằng việc tăng thuế nhập khẩu từ 0% lên 57% chính là làm cho người tiêu dùng thiệt hại. 85 Ngoài ra, Thái Lan cũng yêu cầu phía Hoa Kỳ phân biệt rõ tôm đóng hộp khác với tôm đông lạnh và tôm đóng hộp không thuộc diện bị khởi kiện bán phá giá. Ba là, Thái Lan sẵn sàng áp dụng các biện pháp trả đũa đối với đối tác thương mại có rào cản thương mại đối với xuất khẩu của nước mình. Chẳng hạn, Thái Lan cũng duy trì luật chống bán phá giá và đã từng kiện Hoa Kỳ về việc bán phá giá nước ngọt CocaCola vào nước này. Thêm vào đó, các chuyên gia của Thái Lan đã luôn quan tâm dự báo trước các rào cản có thể được áp dụng. Ví dụ, các mặt hàng thép, đồ điện tử, dệt may... của nước này sẽ tiếp tục phải đối phó với những vụ kiện bán phá giá ở Hoa Kỳ và cảnh báo rằng ngành dệt may của nước này phải theo dõi kỹ lưỡng động thái của các đối thủ Hoa Kỳ trong trung hạn bởi khi Hiệp định dệt may có hiệu lực (năm 2005) thì rất có thể Hoa Kỳ sẽ áp dụng các biện pháp tương tự như với thép. Bên cạnh việc đối phó với các rào cản, Chính phủ Thái Lan luôn trú trọng đến việc đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường xuất khẩu hàng hoá. Chẳng hạn, với mặt hàng tôm kể trên mặc dù phải chịu tổn thất nặng nề sau khi bị Hoa Kỳ áp đặt thuế chống bán phá giá, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm của Thái Lan vẫn tăng tới 29% trong năm 2005 vì hoạt động xuất khẩu của nước này sang các thị trường khác là Châu Âu và Châu Á cũng rất mạnh và nhu cầu tại các thị trường này lại đang tăng. Đặc biệt, cũng như Trung Quốc, Chính phủ Thái Lan rất trú trọng đến việc thiết lập các mối quan hệ thương mại thuận lợi với các thị trường xuất khẩu chính của nước này. Hiện Thái Lan đã kí Hiệp định về thương mại tự do song phương với Trung Quốc (2003), Australia (2005), Nhật Bản (3/2006) và một Hiệp định tương tự với Hoa Kỳ dự kiến sẽ được kí trong năm nay. Đối với EU, một đối tác thương mại cũng vô cùng quan trọng của Thái Lan, Chính phủ nước này sẽ đàm phán với các nhà lãnh đạo của các quốc gia trong khối về việc xây dựng các hiệp định đối tác kinh tế song phương nhằm tạo ra cửa ngõ cho hàng hoá Thái Lan, và giảm các cản trở cho hàng hoá nước này vào thị trường EU. Những người được hưởng lợi nhiều nhất từ các hiệp định này chính là các nhà xuất khẩu của Thái Lan vì lúc này họ sẽ ít phải đối phó với các rào cản cả thuế quan và phi thuế quan như trước nữa. Khả năng cạnh tranh của họ tại các thị trường này cũng được tăng lên. 86 3.2.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Từ việc phân tích các biện pháp đối phó với các rào cản trong TMQT của Trung Quốc và Thái Lan trên đây, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm thiết thực cho Việt Nam như sau: Nâng cao nhận thức và đặc biệt đề cao cảnh giác về các rào cản trong thƣơng mại tại các thị trƣờng xuất khẩu chủ yếu. Đây là bài học kinh nghiệm mà Trung Quốc và Thái Lan đã phải mất rất nhiều năm và tốn kém nhiều chi phí mới có được. Với Việt Nam điều này hiện đặc biệt quan trọng vì kinh nghiệm trong hội nhập TMQT của chúng ta còn nhiều hạn chế, hơn nữa ý thức về mức độ nghiêm trọng của các rào cản không chỉ ở các doanh nghiệp xuất khẩu mà cả các cơ quan hữu quan của nhà nước cũng chưa thật tốt. Với việc nâng cao nhận thức chúng ta không chỉ tìm cách đối phó với các rào cản hiện tại mà còn có thể dự liệu được các loại hình rào cản có thể sớm mắc phải để chủ động ứng phó. Cải tiến vai trò của các cơ quan nhà nƣớc liên quan để các cơ quan này thực sự là chỗ dựa cho các doanh nghiệp trong việc khắc phục các rào cản thƣơng mại. Các cơ quan như Bộ thương mại, các vụ thương mại nước ngoài, Phòng Thương mại và Công nghiệp... có vai trò quan trọng trong việc dẫn đường và hỗ trợ các doanh nghiệp đối phó với rào cản. Như ở Trung Quốc và Thái Lan họ đều có các cơ quan riêng chuyên trách về rào cản thương mại của các đối tác thương mại. ở nước ta hiện điều này chưa thực hiện được. Các Hiệp hội ngành nghề cần phải phát huy vai trò tốt hơn nữa. Bởi vì chính các Hiệp hội ngành nghề phải là cơ quan đầu tiên nắm bắt được các yêu cầu của các thị trường xuất khẩu đối với các sản phẩm của ngành mình. Từ đó phổ biến cho các doanh nghiệp trong ngành để áp dụng các biện pháp ứng phó. Khi gặp phải một hàng rào nào đó, như bị kiện bán phá giá chẳng hạn, Hiệp hội ngành phải là tổ chức liên kết các doanh nghiệp cùng chung sức và thực hiện các biện pháp đối phó. Tăng cƣờng việc thu thập các thông tin một cách minh bạch, chi tiết về các biện pháp, các chính sách thƣơng mại của các đối tác và phổ biến tuyên truyền cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nƣớc. 87 Thông tin về các thị trường xuất khẩu là rất quan trọng vì đây chính là cơ sở của các biện pháp rào cản. Khi các doanh nghiệp đã nắm bắt được các thông tin này họ sẽ có được các biện pháp khắc phục cho hàng hoá của mình ngay từ trong quá trình chuẩn bị xuất khẩu. Chủ động và sẵn sàng kháng kiện nhằm vƣợt qua các rào cản. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đối phó với các rào cản vì chỉ thông qua việc chủ động ứng phó, chuẩn bị kỹ càng về hồ sơ tài liệu và cùng chung sức các doanh nghiệp mới có thể giảm thiểu được các thiệt hại hoặc giành phần thắng khi khiếu kiện. Nâng cao khả năng đàm phán thƣơng lƣợng của các cơ quan thƣơng mại nhà nƣớc. Trong tất cả các vụ việc tranh chấp thương mại, đặc biệt là khi có các vụ kiện bán phá giá hay trợ cấp việc giải quyết bằng con đường thương lượng vẫn là biện pháp tối ưu giảm thiểu được thiệt hại nhất. Điều này đã được cả Trung Quốc và Thái Lan vận dụng hiệu quả. Tuy nhiên, đối với nước ta, hiện khả năng của các quan chức trong các cuộc đàm phán còn nhiều hạn chế và cần được cải thiện rõ rệt. Cuối cùng, bên cạnh việc tạo các điều kiện thuận lợi và khuyến cáo các doanh nghiệp cải thiện chất lƣợng hàng hoá nhằm đáp ứng đƣợc các yêu cầu của các thị trƣờng xuất khẩu cần đẩy nhanh việc đàm phán và kí kết các Hiệp định hợp tác song phƣơng. Đây được coi như là biện pháp triệt để và tối ưu nhất để khắc phục các rào cản không chỉ thuế quan mà cả phi thuế quan trong TMQT. 3.3 Các biện pháp nhằm vƣợt các rào cản trong thƣơng mại quốc tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam Như chúng ta đã phân tích trong các phần trước, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó quan trọng nhất là để bảo hộ sản xuất nội địa, các quốc gia đã, đang và sẽ tiếp tục sử dụng các rào cản thương mại. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại tự do ngày nay việc áp dụng các rào cản sẽ dựa trên cơ sở “lách” luật và các qui định về rào 88 cản. Có thể chỉ ra ở đây, trong hầu hết các Hiệp định của WTO đều có những điều khoản mà qua đó các có thể sử dụng làm rào cản thương mại. Tại Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật cho phép các thành viên được áp dụng các biện pháp được coi là phù hợp và cần thiết nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật, bảo vệ môi trường. Hay như Hiệp định về hàng dệt may cũng cho phép các nước được sử dụng biện pháp tự vệ khi một sản phẩm đang được nhập khẩu vào nước mình với số lượng tăng đến mức “gây thiệt hại nghiêm trọng hay có nguy cơ thực tế gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước sản xuất các sản phẩm đó hoặc thậm chí cạnh tranh tương tự”. Thêm vào đó sức ép về cắt giảm thuế quan ngày càng lớn, trong khi thuế quan giờ đây lại là hình thức rào cản quan trọng nhất. Tất cả những điều này sẽ khiến các quốc gia sẽ tiếp tục tạo lập các rào cản mới để đạt được mục đích bảo hộ của mình. Xu thế các rào cản trong TMQT tới đây sẽ là: - Thuế quan bình quân sẽ giảm theo các lộ trình cam kết nhưng các loại thuế bảo hộ, thuế đối kháng, các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp sẽ tăng lên. - Hạn ngạch thuế quan sẽ được áp dụng nhiều hơn, trong đó mức thuế ngoài hạn ngạch sẽ tăng rất cao và theo xu hướng luỹ tiến. - Xu hướng của các Khu vực mậu dịch tự do và các Hiệp định thương mại tự do song phương sẽ làm xuất hiện những rào cản mới cho các nước không phải là thành viên, đặc biệt trên hai lĩnh vực là thuế quan và tiếp cận thị trường. - Chất lượng cuộc sống được nâng cao cũng khiến các yêu cầu về bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường sinh thái bị đòi hỏi cao hơn và trên qui mô rộng hơn. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng ngày càng tinh vi hơn như qui trình sản xuất “xanh”, sạch; dán nhãn mác sinh thái... - Cuối cùng và vẫn là đặc biệt nóng bỏng trong thương mại quốc tế hiện nay là các vấn đề chính trị liên quan đến kinh tế như cấm vận, trừng phạt... Trước những xu hướng của các rào cản như vậy, yêu cầu tối quan trọng được đặt ra là cần nâng cao nhận thức và sự quan tâm hơn nữa của tất cả các cơ quan hữu quan từ Chính phủ, Bộ Thương mại, Các Tham tán thương mại, các Hiệp hội ngành 89 nghề và nhất là các doanh nghiệp về các rào cản trong thương mại có thể gặp phải. Từ đó, phối kết hợp các cơ quan này cho một nhiệm vụ chung là đối phó với các rào cản. Trên cơ sở đó các giải pháp cụ thể nhằm đối phó và vượt qua các rào cản trong thương mại quốc tế được đề xuất như sau: 3.3.1 Các giải pháp chung của Nhà nước Tăng cƣờng nhận thức và vai trò của các cơ quan thƣơng mại của Chính phủ, công tác phổ biến thông tin về chính sách thƣơng mại của các thị trƣờng xuất khẩu. Một thực tế rất đáng buồn đã xảy ra là trong các vụ kiện bán phá giá cá Basa vào Hoa Kỳ và bán phá giá giày mũ da vào EU vừa qua không chỉ có các doanh nghiệp bị bỡ ngỡ mà cả các cơ quan Nhà nước về thương mại như Bộ Thương mại, các Vụ thị trường nước ngoài hay Phòng Thương mại và Công nghiệp cũng đều lúng túng trong việc đàm phán và tham gia hầu kiện. Điều này cho thấy vấn đề nhận thức và năng lực thực sự của các cơ quan này trong việc đối phó với các rào cản trong TMQT. Chính vì vậy việc nâng cao sự quan tâm của các cơ quan này đến vấn đề này là rất cần thiết. Có thể nói rằng chúng ta cần phải cảm ơn các vụ kiện bán phá giá cá Basa của Hoa Kỳ và vụ kiện bán phá giá giày da của EU vì nó như hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta vẫn còn đang “bay bổng” với các thành tựu tăng trưởng xuất khẩu [16]. Trong tình hình thế giới có nhiều biến động về kinh tế và chính trị, các nước nhập khẩu luôn có sự thay đổi về pháp luật và chính sách thương mại để đối phó với sự biến động của thị trường nếu các doanh nghiệp không có hoặc không biết về những thay đổi đó thì những chính sách này sẽ trở thành rào cản thương mại, còn nếu biết trước và biết cụ thể thì có thể dễ dàng đối phó để vượt qua. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là các cơ quan nhà nước cần phải liên tục cập nhật các thông tin về các thay đổi trong chính sách thương mại của các thị trường xuất khẩu. Các thông tin này phải được tập hợp một cách có hệ thống, minh bạch và chi tiết. Trên cơ sở đó tham vấn cho Chính phủ về chính sách thương mại của các nước, đồng thời tiến hành phổ biến cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có được những đối sách hợp lý. Trong trường hợp phải đối phó với các rào cản mà điển hình là các vụ kiện bán phá giá hay các biện pháp đối kháng các cơ quan này phải biết phối hợp các 90 ban ngành bao gồm cả Chính phủ, Bộ Thương mại, các Hiệp hội ngành và các doanh nghiệp để cùng chung sức vượt qua rào cản. Một nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hàng hoá của nước ta liên tục bị mắc vào các rào cản thương mại trong thời gia qua đó là sự tăng trưởng vượt bậc trong hoạt động xuất khẩu. Ví dụ, kết luận điều tra sơ bộ của Uỷ ban Châu Âu cho thấy, lượng hàng nhập khẩu các sản phẩm giày da từ Việt Nam vào thị trường này trong giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên tới 99%. Điều này đã khiến cho hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị rơi vào “tầm ngắm” của các nước nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, nhằm đề phòng sự tăng trưởng quá “nóng” này cần theo dõi chặt chẽ tình hình tăng trưởng xuất khẩu tại các khu vực thị trường để có biện pháp điều hành và điều chỉnh giá bán thích hợp, hạn chế khả năng bị áp dụng các biện pháp tự vệ và chống bán phá giá. Một giải pháp hữu hiệu đã được nhiều nước áp dụng là lập nên các cơ quan chuyên trách theo dõi và nghiên cứu hàng rào thương mại của các thị trường nước ngoài. ở nước ta, theo thông tin mới nhất từ Bộ Thương mại, một Hội đồng quản lý cạnh tranh chuyên trách về việc đối phó với các vụ kiện quốc tế và kiện lại các nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ sớm được thành lập trong năm nay. Đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO Đây là một trong những giải pháp bản lề trong việc đối phó với các rào cản trong TMQT. Việc gia nhập WTO sẽ giúp hàng hoá nhập khẩu của chúng ta không bị phân biệt đối xử về thuế quan, về thâm nhập thị trường như hiện nay. Ví dụ như đối với mặt hàng dệt may, khi đã gia nhập WTO sẽ không còn bị ràng buộc bởi các Hiệp định tự nguyện hạn chế xuất khẩu với Hoa Kỳ, Canada nữa. Hơn nữa, khi là thành viên của tổ chức này chúng ta sẽ được bảo vệ theo Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO chứ không phải bằng các biện pháp song phương mà chúng ta phải chịu nhiều thua thiệt như hiện nay. Cho đến nay tiến trình gia nhập WTO của nước ta gần như đã thành công. Theo thông tin từ Bộ Thương mại chúng ta hiện đã kết thúc quá trình đàm phán song phương và chỉ còn một rào cản cuối cùng là phiên đàm phán đa phương tại WTO. Nếu không có gì thay đổi chúng ta sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO vào quí IV năm nay. Tuy nhiên, bài học về lần gia nhập “trượt” năm 2005 vẫn còn đó. Để 91 đảm bảo chắc chắn, chúng ta cần phải tiếp tục cải thiện vấn đề trợ cấp phi nông nghiệp thông qua ưu đãi đầu tư mà phiên đàm phán đa phương yêu cầu. Tiếp tục mở cửa nền kinh tế thị trƣờng, thúc đẩy tự do hoá thƣơng mại Ngay cả khi chúng ta đã là thành viên chính thức của WTO, việc hiện không được EU và Hoa Kỳ cho hưởng qui chế nền kinh tế thị trường vẫn sẽ là một rào cản lớn trong xuất khẩu. Chúng ta sẽ đặc biệt bị thua thiệt trong các vụ tranh chấp thương mại mà các vụ kiện bán phá giá vừa qua là bài học đắt giá. Trong bối cảnh đó, theo đánh giá của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nhà kinh tế hàng đầu ở Việt Nam, trên thực tế trong năm 2005 vừa qua tự do hoá thương mại của nước ta đã bị thụt lùi vài bước [30]. Nếu cứ như vậy thì bao giờ chúng ta sẽ có được cơ chế nền kinh tế thị trường thực sự. Ngay cả trong trường hợp chúng ta đã trở thành thành viên của WTO, xu thế kí kết các hiệp định tự do thương mại song phương hiện nay sẽ lại là nguyên nhân tạo nên những hàng rào thương mại mà hàng xuất khẩu của ta tiếp tục phải vượt qua. Như đã phân tích ở phần các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan, hiện Trung Quốc và các quốc gia trong cùng khối ASEAN đang gấp rút tiến trình đàm phán kí kết các hiệp định tự do song phương với nhau và với các thị trường xuất khẩu chính khác của nước ta là Hoa Kỳ và EU. Các nước này lại đều có cơ cấu mặt hàng xuất khẩu giống nước ta. Khi điều này xảy ra, hàng hoá xuất khẩu của nước ta vào các thị trường xuất khẩu chủ yếu này sẽ gặp hàng rào thuế quan cao hơn, khả năng thâm nhập thị trường khó khăn hơn và kết quả là khả năng cạnh tranh yếu hơn. Chính vì vậy, trong điều kiện hiện chưa thể kí kết các hiệp định thương mại tự do song phương chúng ta cũng cần bắt tay ngay vào việc đàm phán hợp tác song phương và các qui chế thị trường chung để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trường này. Từng bƣớc chuyển dần các khoản trợ cấp không đúng các quy định và thông lệ quốc tế sang các loại trợ cấp đƣợc miễn trừ “thuế đối kháng” Trợ cấp hiện thực ra là tình trạng phổ biến thực sự của nước ta. Trợ cấp phi nông nghiệp thông qua ưu đãi đầu tư của chúng ta hiện là trở ngại cuối cùng trong phiên đàm phán gia nhập WTO. Chẳng hạn, trong vụ kiện bán phá giá giày da của ta vào thị trường EU vừa qua Liên minh Châu Âu cũng đã chỉ ra các khoản trợ cấp dành 92 cho các doanh nghiệp giày da thông qua ưu đãi cho vay vốn đầu tư của Chính phủ và các chương trình ưu đãi địa phương như cho thuê mặt bằng mà chúng ta không thể “chối cãi”. Trong khi đó, tại các thị trường xuất khẩu của ta nhu cầu bảo hộ sẽ khiến họ tiếp tục phải tìm các biện đối phó với hàng hoá của các doanh nghiệp nước ta. Vì vậy, nếu không có các biện pháp khắc phục kịp thời chúng ta sẽ phải tiếp tục đối mặt với nhiều rào cản về thuế đối kháng. Chủ động và sẵn sàng đối phó với các rào cản về “chống bán phá giá” Chống bán phá giá hiện đang là rào cản đáng lo ngại và cũng gây ra nhiều khó khăn nhất đối với hàng hoá xuất khẩu của nước ta. Trong khi đó, hiện các doanh nghiệp của Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các Hiệp hội doanh nghiệp lại chưa phát huy được đầy đủ vai trò của mình trong việc giải quyết các vụ kiện có liên quan đến các tranh chấp bán phá giá, vì vậy vai trò của các tổ chức và các cơ quan Nhà nước trở thành hết sức quan trọng. Việt Nam đã từng phải đối phó với một số các vụ kiện về bán phá giá thị trường Hoa kỳ, Canada, Ba Lan, EU… với các mặt hàng thuỷ sản, bật lửa ga, đế giầy không thấm nước, giày da, xe đạp… Chúng ta cũng đã nhận thấy rằng nguy cơ về việc các nước nhập khẩu sử dụng cái gọi là “bán phá giá” như là một rào cản thương mại để bảo hộ sản xuất trong nước sẽ ngày càng gia tăng, vì thế chúng ta phải chủ động và sẵn sàng đối phó với các rào cản này. Trước hết, để giải quyết có hiệu quả các tranh chấp liên quan tới bán phá giá, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo để các doanh nghiệp hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc về Hiệp định chống bán phá giá của WTO, qua đó doanh nghiệp chủ động có các biện pháp phòng ngừa trước. Khi đã xuất hiện các vụ tranh chấp cần chủ động vận động bằng nhiều con đường để các doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu không nộp đơn. Một khi đã có sự vận động nhưng phía đối tác vẫn nộp đơn thì cơ quan có thẩm quyền cần xem xét tính hợp lệ của đơn dựa trên 3 tiêu chí chủ yếu là đơn có đại diện cho ngành không, các nhà sản xuất ủng hộ đơn có lớn hơn các nhà sản xuất phản đối đơn không và sản phẩm của ngành có phải là sản phẩm tương tự với mặt hàng nhập khẩu đang bị coi là bán phá giá không. Ngoài ra, cần xem xét biên độ phá giá có cao hơn 2% giá xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu có cao hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó hay không? 93 Khi cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu vẫn tiếp tục điều tra thì cần tiếp tục vận động họ không áp dụng biện pháp tạm thời (với lý do hàng nhập khẩu chưa gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước). Trong trường hợp việc áp dụng thuế chống bán phá giá là khó tránh khỏi thì có thể chủ động đề xuất cam kết tăng giá xuất khẩu để nước nhập khẩu dừng điều tra và giải quyết tranh chấp theo biện pháp hoà giải. Đặc biệt, cần nâng cao năng lực đàm phán và giải quyết các tranh chấp phát sinh. Biện pháp này sẽ giúp giải quyết ổn thoả các xung đột thương mại, xoa dịu hoặc hạn chế được các thiệt hại trong trường hợp bị áp đặt hình thức đối kháng. Cuối cùng, khi cam kết tăng giá xuất khẩu cũng không được chấp nhận thì khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cần tiếp tục vận động để mức thuế chống bán phá giá càng thấp càng tốt (có thể vận động những nhà sản xuất ở nước nhập khẩu sử dụng hàng nhập khẩu như là nguyên liệu đầu vào và người tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu gây sức ép với cơ quan thẩm quyền áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá). Ngoài ra, để chủ động “ hầu kiện” hoặc “kháng cáo” trong những trường hợp cần thiết, cần phải chủ động chuẩn bị các chứng từ có liên quan để có cơ sở cho việc xác định biên độ phá giá (cho từng nhà xuất khẩu) và kim ngạch xuất khẩu của ta đã bằng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó hay không? Thực hiện các trƣơng trình về nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu nhằm vƣợt qua các rào cản về tiêu chuẩn và vệ sinh an toàn thực phẩm Như đã trình bày, các thị trường xuất khẩu chính của chúng ta là Mỹ và EU là những thị trường có hàng rào về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm rất cao. Hơn thế nữa, nhằm bảo hộ cho thị trường nội địa các nước này luôn viện cớ để bảo vệ người tiêu dùng để đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật quá cao, không cần thiết và hết sức phi lý. Những qui định đó đã thực sự trở thành rào cản TMQT nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước nhiều hơn là mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng. Ngoài ra các qui định mới về kinh doanh hoá chất của EU hoặc đạo luật chống khủng bố sinh học của Hoa Kỳ cũng chính là các qui định về qui trình kiểm tra quá mức cần thiết, làm tăng chi phí của doanh nghiệp khi phải thực hiện việc thông báo sớm, đăng ký sản phẩm để được cấp phép và thực hiện yêu cầu kiểm tra của các cơ quan quản lý. Hiện nay, các qui dịnh về an toàn thực phẩm trong TMQT đang có xu hướng được nâng cao quá mức đã thực sự trở thành rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng 94 hạn, các qui định về dư lượng kháng sinh quá mức cần thiết và không có cơ sở khoa học của EU, Hoa Kỳ, Canada (Qui định về tỷ lệ Cloramphenicol Nitrofusal bằng 0) và yêu cầu về giới hạn phát hiện của thiết bị kiểm tra 0,3/tỷ là không cần thiết và vô lý. Mặc dù các qui định như trên là hết sức vô lý nhưng để đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này vẫn buộc các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp để vượt qua các rào cản có tính chất kỹ thuật trên. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải đầu tư để đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, chế biến, chủ động ứng dụng các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, HACCP…Tuy nhiên các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam lại phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khả năng đầu tư đổi mới kỹ thuật là hết sức khó khăn. Vì vậy, để giải quyết được vấn đề này cần phải có hỗ trợ của nhà nước một cách có chọn lọc, có trọng điểm. Đối với các tiêu chuẩn ngành hàng bên cạnh việc giúp đỡ các doanh nghiệp có được các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HACCP… Ngoài ra, việc lựa chọn các bộ tiêu chuẩn phù hợp cũng hết sức quan trọng vì bộ tiêu chuẩn được áp dụng phải có ảnh hưởng lớn đến khu vực thị trường tại đó. Việc áp dụng các bộ tiêu chuẩn của nước ngoài là hoàn toàn miễn phí. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, đối với thị trường Châu Á nên chọn bộ tiêu chuẩn của Nhật Bản, ở Bắc Mỹ chọn tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và ở Châu Âu thì nên chọn bộ tiêu chuẩn chung từ Châu Âu. Ví dụ, với mặt hàng điện tử, bộ tiêu chuẩn của Nhật Bản là JIS C 3202, của Mỹ là NEMA MW-1000, của EU là IEC. Đối với mặt hàng thuỷ sản việc áp dụng các qui trình sản xuất sạch và loại trừ các hoá chất bị ngăn cấm (như Flouroquinolones) chính là giải pháp quan trọng nhất để vượt qua rào cản của các thị trường EU và Hoa Kỳ. Trong năm 2006, Bộ Thuỷ sản sẽ tiến hành chương trình áp dụng Qui trình sản xuất sạch (GAP) trong nuôi trồng thuỷ sản trên phạm vi cả nước, đồng thời chỉ thị các Cơ quan kiểm soát an toàn an toàn và vệ sinh thú y thủy sản các địa phương tiến hành kiểm tra chất lượng 100% các lô hàng thuỷ hải sản xuất khẩu. Giải pháp này sẽ ngăn chặn được tình trạng các lô hàng xuất khẩu bị trả về khi không vượt qua công tác kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu tại các thị trường xuất khẩu. Cũng liên quan đến việc kiểm tra chất lượng, nhất là nồng độ các hoá chất bị cấm của hàng xuất khẩu, việc trợ giúp các doanh nghiệp là hết sức cần thiết vì với qui mô của các doanh nghiệp của ta hiện rất khó để có thể xây dựng được các phòng thí 95 nghiệm riêng nên Chính phủ và các Bộ ngành cần trợ giúp họ cả về tài chính và kỹ thuật để xây dựng. Trong trường hợp các doanh nghiệp không thể xây dựng được phòng thí nghiệm của riêng mình cần có các biện pháp hỗ trợ họ trong việc kiểm tra các mẫu vật phẩm. Điều này là hoàn toàn có thể với các trung tâm khoa học nhà nước. Đồng thời, các cơ quan quản lý về chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, các cơ quan kiểm dịch về động vật và dược phẩm cần mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế và cơ quan quản lý hàng hoá nhập khẩu của các nước để sớm có được các thoả thuận về sự công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn và sự uỷ quyền cho nhau trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm, dược phẩm để giảm chi phí cho doanh nghiệp khi phải đối mặt với các loại rào cản này. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhãn mác sinh thái để đối phó và vƣợt qua các rào cản về môi trƣờng. Hiện nay, do sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt các yếu tố về môi trường đã và đang có nguy cơ bị lợi dụng để làm các rào cản kỹ thuật trong TMQT. Nhiều thị trường xuất khẩu lớn của Việt nam, trong đó có EU đã yêu cầu có nhãn sinh thái đối với hàng nhập khẩu. Trên thế giới hiện nay đang có 30 chương trình nhãn sinh thái khác nhau đang gây phiền toái và đã thực sự trở thành rào cản kỹ thuật trong thương mại. Chẳng hạn nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ, nhãn hiệu lâm nghiệp bền vững, nhãn hiệu ngư nghiệp bền vững… Vì vậy tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đã có sự quan tâm đáng kể đối với ý tưởng về một hình thức sinh thái mang tính chất quốc tế. Việt Nam hiện đã là thành viên của phân ban kỹ thuật ISO/TC 207/SC3 thuộc Ban kỹ thuật ISO/TC 207 về quản lý môi trường của ISO, là cơ quan xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này. Vì vậy, có thể định hướng việc xây dựng các tiêu chuẩn về nhãn môi trường theo các tiêu chuẩn như ISO 14020 (Nhãn môi trường và sự công bố các nguyên tắc chung); ISO/DIS 14021 (Nhãn môi trường và sự công bố nhãn môi trường kiểu II). Đồng thời nên thực hiện các giải pháp môi trường tự công bố. Đây là sự tự công bố về mặt môi trường mang tính chất thông tin của doanh nghiệp (ví dụ khả năng tái chế, tính không huỷ hoại môi trường sinh thái), đôi khi được công bố dưới một chương trình hiệu chuẩn. Đây là các giải pháp về môi trường do các nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối, bán lẻ hoặc bất cứ ai khác đều được lợi mà không cần sự chứng nhận của cơ quan chứng nhận bên thứ ba độc lập. 96 Hiện nay bộ nhãn tiêu chuẩn về lao động SA 8000 đang được nhiều nước yêu cầu đối với hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, việc đáp ứng đầy đủ các qui định trong tiêu chuẩn SA 8000 là rất khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một vấn đề rất khó khăn và phức tạp, vì vậy Nhà nước cần tiến hành các chương trình phổ biến kiến thức, triển khai thực hiện và đăng ký để được cấp chứng chỉ SA 8000 cho các doanh nghiệp, mặt khác Nhà nước cũng cần tư vấn về pháp luật và điều kiện vật chất để các doanh nghiệp vượt qua rào cản này một cách tốt nhất. Ngoài ra, hiện nay trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là hàng nông sản, thực phẩm chế biến, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ hải sản và một số sản phẩm chế biến khác từ đồ gỗ, đồ nhựa, xe đạp và phụ tùng… có tới 90% các mặt hàng vẫn còn phải thâm nhập các thị trường qua trung gian hoặc xuất khẩu ở dạng sản phẩm thô. Đây là một cách thức để vượt qua rào cản trong TMQT. Mặc dù vậy, nếu vẫn cứ diễn ra theo xu hướng này thì việc xuất khẩu của nước ta sẽ ngày càng phụ thuộc vào thương hiệu của nước ngoài, hiệu quả xuất khẩu thấp trong khi chúng ta lại không khẳng định được thương hiệu của hàng Việt Nam. Để khắc phục thực trạng này, Nhà nước tuy không làm thay doanh nghiệp nhưng cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về vấn đề thương hiệu hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng, đăng kí và phát triển thương hiệu trên thị trường xuất khẩu nước ngoài. 3.3.2 Giải pháp cho các Hiệp hội ngành nghề Hiệp hội các doanh nghiệp hay nghiệp đoàn là tổ chức có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp trong việc đối phó với các rào cản trong thương mại quốc tế. Cho tới nay nước ta có khoảng 30 Hiệp hội ngành hàng trong đó có cả các ngành hàng xuất nhập khẩu. Hầu hết các Hiệp hội đều đã tập hợp được các nhà sản xuất, xuất khẩu lớn của cả nước. Chẳng hạn Hiệp hội Dệt may có trên 450 hội viên, Hiệp hội Cafe-Cacao có trên 110 hội viên, Hiệp hội đồ gỗ có gần 200 hội viên. Các Hiệp hội đã biết quan tâm đến công tác xúc tiến thượng mại, thực hiện khá tốt công tác đối ngoại của ngành với các tổ chức quốc tế, và đã tham gia tranh tụng quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích và nâng cao vị thế của ngành trong các vụ tranh chấp thương mại như Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc đấu tranh với Hoa Kỳ trong các vụ bán phá giá cá tra, cá basa và tôm đông lạnh. 97 Tuy nhiên, các Hiệp hội của Việt Nam chưa thực sự có sức cạnh tranh và sự liên kết chặt chẽ nên chưa thực sự là chỗ dựa cho các doanh nghiệp trong việc đối phó với các rào cản thương mại quốc tế. Để có thể giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh được hơn nữa hoạt động xuất khẩu mà không bị vấp phải các rào cản thương mại các Hiệp hội phải: Nâng cao năng lực thu thập và xử lý thông tin Các hiệp hội phải thành lập và củng cố bộ phận thông tin của mình để thu thập và xử lý thông tin có tính chất chuyên ngành về các thị trường xuất khẩu chủ yếu. Một điều đơn giản là muốn cho doanh nghiệp của ngành hành vượt qua được các rào cản TMQT thì phải biết được rào cản đó là gì, như thế nào và biện pháp khắc phục hay đối phó với nó ra sao? Tuy vậy, phần lớn các hiệp hội của chúng ta chưa tiếp cận được các thông tin chuyên sâu phục vụ cho xuất khẩu nói chung và đối phó với các rào cản thương mại nói riêng. Trong các vụ kiện bán phá giá của cá basa và sau đó là giày da vừa qua, không chỉ các doanh nghiệp ngỡ ngàng mà cả các Hiệp hội ngành cũng vậy. Rồi trong quá trình hầu kiện, các Hiệp hội này cũng không trợ giúp được gì nhiều cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, hiện nay chúng ta còn chưa được công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường mà chỉ được công nhận là một nước đang phát triển ở trình độ thấp ,các Hiệp hội cần chủ động thu thập thông tin về tình hình thị trường và giá cả ở nước thứ ba, có trình độ tương đương với chúng ta để chủ động trong việc hầu kiện với các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp sao cho có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời cần thu thập đầy đủ thông tin đòi được hưởng chế độ GSP đối với các nước đang phát triển ở trình độ thấp. Sẵn sàng khởi kiện và kháng kiện Ở hầu hết các nước, việc khởi kiện và kháng kiện đều do các Hiệp hội chủ động phát động chứ không phải do các cơ quan quản lý Nhà nước. Vấn đề khởi kiện và kháng kiện trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế không phải là vấn đề để phán sử ai thắng ai thua mà là đòi hỏi quyền bình đẳng theo nguyên tắc không phân biệt đối sử. Lâu nay, các Hiệp hội của chúng ta mới chỉ tập trung vào việc đi hầu kiện mà chưa chủ động trong việc đi khởi kiện và kháng kiện. Vì vậy, trong thời gian tới 98 các Hiệp hội tuỳ theo điều kiện của mình mà cần thiết thì sẵn sàng đi khởi kiện và kháng kiện. Phát huy hơn nữa vai trò điều hoà qui mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả và chất lƣợng sản phẩm để hạn chế các nguy cơ gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá Để tránh cho các doanh nghiệp gặp phải những rắc rối do các vụ kiện chống bán phá giá, Hiệp hội cần phải chủ động tính toán và thảo luận với các doanh nghiệp cùng ngành hàng để đề phòng bằng biện pháp điều tiết sản lượng xuất khẩu sao cho không vượt mức giới hạn trong trường hợp bị nghi ngờ bán phá giá. Khi khối lượng đã bằng hoặc vượt quá mức đó thì cần điều tiết giá xuất khẩu để biên độ không vượt quá 2% theo luật định. Trường hợp tiêu chuẩn thứ nhất đã không được đáp ứng thì cần chuẩn bị các tư liệu và minh chứng để biện hộ cho việc chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của bên khởi kiện. Nếu hai tiêu chuẩn trên vẫn chưa đủ lý lẽ để bảo vệ thì Hiệp hội phải chủ động hầu kiện hoặc kháng kiện để cho việc áp dụng thuế chống bán phá giá thấp nhất có thể. Nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng Thông qua việc tăng cường nguồn nhân lực có trình độ cao về pháp luật quốc tế và kinh doanh quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho Hiệp hội cho tương xứng với sự phát triển sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của ngành hàng, tạo điều kiện thuận lợi để các Hiệp hội tham gia vào các tổ chức hoặc Hiệp hội ngành hàng quốc tế. Đồng thời hỗ trợ cho các Hiệp hội trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại. Năng lực của Hiệp hội có được tăng cường và củng cố vững mạnh thì Hiệp hội mới có thể phát huy tốt vai trò định hướng và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chủ động đôí phó với các rào cản trong thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. 3.3.3 Các giải pháp đối với doanh nghiệp Các doanh nghiệp chính người phải đối chọi với các rào cản, gánh chịu những hậu quả của nó và cũng chính là người phải vượt qua các rào cản trong thương mại để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Chính vì vậy, hơn ai hết, các doanh nghiệp phải tìm mọi phương cách khắc phục vấn đề này. Các giải pháp vượt rào cản đối với doanh nghiệp có thể là: 99 Tăng cƣờng việc nghiên cứu nắm bắt các chính sách quản lý nhập khẩu của các thị trƣờng xuất khẩu, cảnh giác với các rào cản thƣơng mại của các thị trƣờng này Hơn ai hết các doanh nghiệp xuất khẩu chính là những người chịu thiệt thòi nhất trong việc phải đối phó với các rào cản tại các thị trường nhập khẩu chính vì vậy các doanh nghiệp phải liên tục tìm hiểu và tường tận về các yêu cầu của các thị trường xuất khẩu để đáp ứng được các yêu cầu này. Đặc biệt đối với các thị trường EU và Hoa Kỳ hiện chúng ta đang gặp rất nhiều khó khăn với các biện pháp tự vệ và chống bán phá giá, việc có đầy đủ các thông tin về thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu mặt hàng và đặc biệt là giá cả, không có gắng “bán cho được” bằng mọi giá thì sẽ tránh được các vụ kiện gây nhiều thiệt hại này. Phối hợp, liên kết để chung sức cùng đối phó với các rào cản Thông thường khi các rào cản được áp dụng thì đối tượng của nó không chỉ là một hay một vài số ít các doanh nghiệp mà đối với hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường đó. Nếu như các doanh nghiệp cùng chung sức để đối phó với các rào cản thì sẽ có lợi hơn hẳn so với việc từng doanh nghiệp đấu tranh lẻ tẻ. Nhất là khi, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta thường là các công ty vừa và nhỏ. Bản thân chính các doanh nghiệp này cũng cạnh tranh gay gắt, hạ giá thành để giành giật thị trường của nhau. Đối với tình huống này, giải pháp được tiến hành là thành lập và tham gia các Nghiệp đoàn, các Hiệp hội của các nhà xuất khẩu. Từ đó tạo thành liên minh thống nhất có chung đối sách với rào cản thì sẽ nhận được phán quyết có lợi hơn. Bài học cho giải pháp này chính là việc các doanh nghiệp xuất khẩu tôm đông lạnh của Thái Lan liên kết góp tiền thuê luật sư Hoa Kỳ kháng kiện thành công bán phá giá tôm ở trên đây. Cũng nằm trong nhóm giải pháp này, việc hình thành nên các doanh nghiệp xuất khẩu có qui mô lớn, nhờ đó có được lợi suất về qui mô, có khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường tốt hơn. Hơn nữa, với tiềm lực lớn có thể đầu tư phát triển công nghệ tạo được các hàng hoá có khả năng đáp ứng yêu cầu cao của nhiều thị trường khác nhau. Một giải pháp khác cũng có thể được lưu tâm đến đó là liên doanh với các đối tác nước ngoài trong việc sản xuất hoặc xuất khẩu sản phẩm. Điều này sẽ giúp cho hàng xuất khẩu của chúng ta thâm nhập các thị trường dễ dàng hơn. Đồng thời, thực 100 tiễn cho thấy trước các vụ tranh chấp về thương mại có liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp... nếu có yếu tố nước ngoài cùng đứng về phía Việt Nam thì các phán quyết cuối cùng bao giờ cũng có lợi hơn cho Việt Nam. Đầu tƣ đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá khi xuất khẩu Mặc dù trong những năm gần đây năng lực xuất khẩu của nước ta liên tục phát triển nhưng thực tế rất nhiều sản phẩm hàng hoá và doanh nghiệp của ta có năng lực cạnh tranh ở mức thấp, ngay cả khi so sánh với các nước láng giềng là Thái Lan và Trung Quốc. Chính vì vậy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có thâm nhập các thị trường thì cũng mới chủ yếu đạt được ở cấp độ thấp và trung bình. Nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là phải nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, tăng các chi phí nghiên cứu phát triển từ đó tạo ra các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao không những vượt qua được các hàng rào tiêu chuẩn ngày càng cao mà còn chiếm lĩnh được các thị trường nước ngoài. Tăng cƣờng triển khai áp dụng các qui trình sản xuất tiên tiến, các hệ thống quản lý chất lƣợng theo tiêu chuẩn quốc tế Như chúng ta đã nói tới trong phần sự báo xu hướng phát triển của các rào cản trong thương mại quốc tế, do mức sống của xã hội ngày càng cao yêu cầu về các sản phẩm được sản xuất theo các qui trình quản lý chất lượng càng gay gắt, hơn nữa mức độ bảo hộ cũng khiến cho các rào cản về tiêu chuẩn ngày càng cao như các rào cản “xanh”, “sạch”. Trong khi đó, hiện nay tuy hàng hoá xuất khẩu của nước ta đều đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), nhưng trên thị trường thế giới tiêu chuẩn này của chúng ta không được thừa nhận. Cùng lúc đó, việc hầu như chưa kí được các hiệp định về công nhận lẫn nhau với các quốc gia khác khiến hàng hoá Việt Nam phải tuân thủ các qui định về tiêu chuẩn và kiểm tra của nước nhập khẩu nên chỉ bằng cách sản xuất các sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quốc tế này mới giúp hàng hoá của chúng ta vượt các rào cản thành công. Hệ thống các qui định về kỹ thuật và môi trường có liên quan đến hàng hoá xuất khẩu thường là phức tạp nhưng lại rất cụ thể, chi tiết vầ cũng không phải quá khó khăn để thựchiện. 101 Để mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, HACCP, SA 8000... Trong trường hợp hiện nay, với nhiều doanh nghiệp do những hạn chế về tài chính, trình độ công nghệ không thể áp dụng ngay các tiêu chuẩn quốc tế cho hàng hoá của mình các doanh nghiệp có thể lựa chọn các bộ tiêu chuẩn có sẵn của các quốc gia và khu vực phù hợp. Bài học từ hai nhà xuất khẩu là Casumina và Ngô Han gần đây là ví dụ tiêu biểu. Với Casumina, hiện sản phẩm xăm xe máy của công ty này đã chiếm tới 45% thị trường trong nước và được xuất khẩu sang 25 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đó là kết quả của việc Casumina áp dụng tiêu chuẩn JIS 6366-6676 (của Nhật Bản) cho sản phẩm của mình từ năm 2000. Để làm được điều này công ty đã xây dựng một hệ thống phòng thí nghiệm đủ sức kiểm tra các chỉ tiêu kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Hàng năm công ty cũng dành khoảng 10%-20% vốn đầu tư thiết bị cho các thiết bị thử nghiệm, xây dựng một đội ngũ thiết kế sản phẩm phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, Casumina cũng đặc biệt chú trọng đến sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường. Với Ngô Han, một đơn vị chuyên sản xuất dây dẫn điện từ, tiêu chuẩn cho hàng xuất khẩu của công ty được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn phổ biến trên thế giới như JIS C 3202 và JIS 3204 của Nhật, IEC 60317 của Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế và NEMA MW-1000 của Hoa Kỳ. Tăng cƣờng các hoạt động nghiên cứu thị trƣờng, xúc tiến thƣơng mại và mở rộng các kênh phân phối bán hàng tại thị trƣờng nƣớc ngoài Nghiên cứu thị trường và thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại không chỉ giúp doanh nghiệp trong việc khuếch trương thâm nhập thị trường mà còn có thể chủ động đối phó với các rào cản tại thị trường nhập khẩu. Trên thực tế, các doanh nghiệp hầu như không coi trọng vấn đề này. Đây chính là nguyên nhân vì sao các doanh nghiệp của ta hoàn toàn ngỡ ngàng và thụ động trong các vụ kiện bán phá giá vừa qua. Với hoàn cảnh các doanh nghiệp của ta chỉ là những doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng khảo sát thị trường thực tế, có thể kết hợp sử dụng các phương 102 pháp như thu thập thông tin qua Internet, cộng tác viên ở nước ngoài hoặc thuê khoán chuyên gia tư vấn... Sử dụng các kênh phân phối tại thị trường nước ngoài cũng là một giải pháp rất hay trong việc đối phó với các rào cản vì các nhà phân phối sẽ hiểu rõ điều kiện thị trường nơi mình hoạt động và có những giải pháp hữu hiệu cho doanh nghiệp xuất khẩu. Cuối cùng là việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp Đây cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng cho doanh nghiệp khi thâm nhập và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Người quản trị doanh nghiệp phải là người tinh tường, có kiến thức, có kỹ năng, kinh nghiệm và hiểu biết về thị trường xuất khẩu. Có như vậy mới có được các đối sách đúng đắn trong kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp. Một điều cũng hết sức quan trọng nữa mà các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung chưa có và thậm chí là không hề quan tâm đó là các nhân viên pháp lý cho doanh nghiệp. Trong khi trên thế giới các công ty đều phải có các luật sư của riêng mình. Các luật sư này sẽ giúp doanh nghiệp tìm hiểu luật pháp và các qui định của các thị trường xuất khẩu, và trong điều kiện phải đối chọi với các rào cản họ sẽ đưa ra được các giải pháp tối ưu để hạn chế thiệt hại. Trong vụ kiện bán phá giá cá Basa vào thị trường Hoa Kỳ vừa qua, do thiếu một cán bộ am hiểu pháp lý, các doanh nghiệp của ta đã rất lúng túng và thụ động trong việc tham gia hầu kiện, thậm chí có doanh nghiệp Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá toàn quốc vì không chứng minh được các lời khai của mình. Nếu như doanh nghiệp có một luật sư lo về pháp lý thì sẽ không bao giờ bị rơi vào tình trạng như thế này. 103 KẾT LUẬN Cùng với quá trình toàn cầu hoá, thương mại quốc tế ngày nay đang phát triển theo xu thế tự do hoá. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO với mục tiêu về nền thương mại tự do toàn cầu cũng thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình tự do hoá này. WTO đã có rất nhiều những cố gắng liên tục nhằm tạo ra các qui định để loại bỏ các hành động, các biện pháp thương mại không công bằng hoặc bóp méo thương mại. Tuy nhiên, việc các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc tham gia vào thương mại quốc tế đều có mục tiêu tối thượng là giành được nhiều lợi ích hơn nữa cho quốc gia, cho dân tộc mình. Đó có thể là lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội hay lợi ích chính trị. Chính vì vậy, chừng nào họ chưa tạo được ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh trong thương mại quốc tế họ sẽ chưa mở cửa tự do thị trường của nước mình và biện pháp hữu hiệu nhất để làm được việc này vẫn là tạo lên các hàng rào thương mại. Đặc biệt các rào cản này được lập nên sẽ ngày càng tinh vi, phức tạp và khó dự báo. Nước ta với quá trình hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế toàn cầu đã tạo được sự tăng trưởng mạnh mẽ trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá với mức bình quân hàng năm lên tới 15%-20% trong những năm gần đây. Tuy nhiên, không nằm ngoài bối cảnh chung của thương mại thế giới chúng ta cũng đã vấp phải rất nhiều những rào cản trong thương mại như chúng ta đã thấy ở các thị trường xuất khẩu chính của nước ta. Không còn giải pháp nào khác là chúng ta phải “chung sống” với các rào cản. Việc nghiên cứu các rào cản sẽ tạo tiền đề cho việc nắm vững và tiến hành các giải pháp nhằm đối phó và vượt qua các rào cản trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất rộng và cần có sự cập nhật một cách kịp thời nên trong khuôn khổ của luận văn đã tập trung vào giải quyết các nhóm vấn đề chủ yếu như sau: Thứ nhất, đưa ra các khái niệm về rào cản thương mại, đồng thời phân loại và chỉ rõ sự hình thành, mục tiêu áp dụng của các rào cản trong TMQT. Thứ hai, đã phân tích các qui định của WTO thông qua các Hiệp định của tổ chức này về các hình thức rào cản trong thương mại. Từ đó, chỉ ra được những biện pháp quản lý nhập khẩu nào được áp dụng và những biện pháp nào bị ngăn cấm. 104 Thứ ba, đã tổng quát và nghiên cứu các rào cản thương mại ở những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là các rào cản có liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của nước ta vào các thị trường này. Bốn là, đã đánh giá được ảnh hưởng của các rào cản thương mại ở các thị trường xuất khẩu chủ lực đến hoạt động xuất khẩu của nước ta. Và cuối cùng, thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm đối phó với các rào cản trong TMQT của hai quốc gia có nhiều đặc điểm giống nước ta là Trung Quốc và Thái Lan, đã rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp đối phó với các rào cản trong TMQT nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. 105 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thương mại (2006), Báo cáo thành tựu thƣơng mại năm 2005 và phƣơng hƣớng hoạt động năm 2006, Hà nội. 2. Bộ Thương mại (2002), Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thƣơng mại quốc tế và những giải pháp để vƣợt rào cản..., Đề tài nghiên cứu cấp Bộ. 3. Bộ Thương mại (2003), Cơ sở dữ liệu về các biện pháp phi thuế quan của các nƣớc thành viên ASEAN, Trang thông tin điện tử của Bộ. 4. Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại (2004), Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trƣờng EU..., Đề tài nghiên cứu cấp bộ. 5. Nguyễn Hữu Khải (2005), Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thƣơng mại quốc tế. Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Thu Hương (2004), Thị trƣờng hàng điện tử và triển vọng phát triển của Việt Nam đến năm 2010, Đề tại nghiên cứu cấp bộ, Bộ Thương mại. 7. Nguyễn Mại (2005), Một số ý kiến về thƣơng mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Báo cáo tại Hội thảo: “Thương mại Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Thương mại, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Nam (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nƣớc ta, Bộ Thương mại, Hà Nội. 9. Đinh Văn Thành (2005), Rào cản trong thƣơng mại quốc tế. Nxb Thống kê. Hà Nội. 10. Nguyễn Văn Thụ (2004), Đánh giá thành tựu và hạn chế của thƣơng mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế – thƣơng mại quốc tế, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Bộ Thương mại. 11. Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ (2005), Xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ – Những điều cần biết, Phần I, Công ty in Khoa học-Kỹ thuật, Hà Nội. 106 12. Uỷ ban quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế (2005), Tác động của các Hiệp định WTO đối với các nƣớc đang phát triển, Hà Nội. 13. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Quốc tế học (2005), Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, Nxb Thế giới. Hà Nội. 14. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Quốc tế Konrad-Adenauer-Stiftung (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam, Nxb Thế giới. 15. Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội (2003), Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. 16. Thời báo Kinh tế, nhiều kỳ. 17. Thời báo kinh tế Sài Gòn, nhiều kỳ. 18. Báo Diễn đàn doanh nghiệp, nhiều kỳ. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh 19. Neven Damien J. (2000), Evaluating the effects of non-tariff barriers; The economic analysis. University of Lausanne and CEPR, Switzeland. 20. OECD (2005), Looking beyond tariffs: The role of Non-tariff barriers in world trade. ISBN Number: 9264014624. 21. OECD, Working party of Trade Comittee (2003), “Analysis of non-tariff measures: The case of Export Restriction”, OECD Trade Policy Working Paper, No. 4. 22. OECD, Working party of Trade Comittee (2005), “Analysis of non-tariff measures: Customs fees and charges on imports”, OECD Trade Policy Working Paper, No. 14 23. OECD, Working party of Trade Comittee (2005), “Analysis of non-tariff of concerns to developing countries”, OECD Trade Policy Working Paper, No., 16. 24. OECD, Working party of Trade Comittee (2004), “Analysis of non-tariff measures: the case of prohibition and quotas”, OECD Trade Policy Working Paper, No. 6. 107 25. OECD, Working party of Trade Comittee (2002), “Analysis of non-tariff measures: The case of Non-Automatic Import Licensing”, OECD Trade Policy Working Paper, No. 28. 26. Sartafi Gilberto (1998), “European Industrial Policy as a non-tariff barrier”, European Integration online Paper, Vo 2, No2. 27. Summer Daniel A. (2005), Tariff and Non-tariff barriers to trade. University of California, USA. 28. Yanikkaya Halil, Celal Bayar University (Turkey) (2003), “Tariff and non- tariff barriers benefit developing countries”, Journal of Development Economics, (No. 72/2003). 29. WTO (2006), UNDERSTANDING THE WTO: THE AGREEMENTS, Non-taiff berriers, Các trang web tham khảo: 30. Báo điện tử 31. Báo điện tử 32. Báo điện tử 33. Bộ Thương mại 34. Tổng cục Hải quan 35. Uỷ ban quốc gia về Hội nhập kinh tế quốc tế 36. Sở Thương mại thành phố Hồ Chí Minh 37. Tổ chức Thương mại thế giới 38. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế 39. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3067_5798.pdf
Luận văn liên quan