Luận văn Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam thực trạng giải pháp

Tuy nhiên, trước xu thếquốc tếhoá và hội nhập kinh tế, các ngân hàng của chúng ta ngày càng chịu sựcạnh tranh mạnh mẽtừphía các ngân hàng nước ngoài và cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Tình hình đó buộc chúng ta phải có những định hướng, giải pháp cụthể, tri ệt đểvà hiệu quảhơn nữa, cải tiến các cơchế, chính sách quản lý các hoạt động cải cách NHTM Việt Nam, tăng cường sựphối hợp của các Bộngành hữu quan trong hoạt động cải cách.

pdf100 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2306 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam thực trạng giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính đối với hoạt động của hệ thống NHTM. + Nguồn vốn hoạt động của Công ty mua bán nợ là do NSNN cấp. Tuy nhiên, do NSNN còn hạn hẹp, một phần vốn hình thành từ vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế nên hoạt động của công ty cần phải dựa trên nguyên tắc bảo toàn vốn. Về môi trường pháp lý cho hoạt động của công ty mua bán nợ Để có thể sớm đưa Công ty mua bán nợ vào hoạt động, Chính phủ cần nhanh chóng chỉ đạo Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành một Pháp lệnh về Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các DNNN (sau một thời gian hoạt động sẽ ban hành thành Luật). Theo đó, Công ty mua bán nợ được trao một số quyền hạn đặc biệt như quyền mua, bán, quản lý tài sản, quyết định giá mua, giá bán, mua những tài sản chưa hoàn thiện về thủ tục để bán và hợp thức hoá quyền sở hữu đối với những tài sản đó. Tuy nhiên, việc trao quyền hạn cho công ty cũng phải có phạm vi, giới hạn nhất định. Những quyền hạn đặc biệt của công ty mua bán nợ vừa phải đảm bảo cho công ty xử lý nợ một cách hiệu quả, không để thất thoát vốn và tài sản, vừa duy trì được sự kiểm soát của cơ quan chức năng đối với toàn bộ hoạt động của công ty. Vì vậy, xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, phù hợp trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, đảm bảo hoạt động hiệu quả là công việc quan trọng và khó khăn nhất trong việc chuẩn bị cho sự ra đời của Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Về chức năng và phạm vi hoạt động của công ty Chức năng hoạt động: Xử lý nợ của các DNNN tại các NHTM là một công việc rất phức tạp, đòi hỏi phải nhanh, dứt điểm và có thời hạn. Vì vậy, với mô hình là tổ chức tài chính đặc biệt của Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, Chính phủ cần tập trung hoạt động của công ty vào chức năng chính là xử lý nợ quá hạn và tài sản tồn đọng của DNNN. Mặt khác, cũng cần xác định các hoạt động mang tính dịch vụ của công ty là định hướng phát triển lâu dài khi công ty đã hoàn thành nhiệm vụ xử lý nợ của mình. Trong thời gian trước mắt, các hoạt động chính của công ty cũng phải nhằm phục vụ cho chức năng chính là xử lý nợ, trong đó định giá là một khâu rất quan trọng trong hoạt động của công ty. Dựa trên cơ sở phân loại nợ và đánh giá rủi ro, công ty cần phải có biện pháp xử lý phù hợp đối với từng loại nợ như sau: + Đối với các khoản nợ có tài sản đảm bảo: Công ty phải mua khoản nợ và tài sản đảm bảo, tối đa hoá giá trị trước khi bán. + Đối với các khoản nợ không có tài sản đảm bảo: Công ty có thể tiến hành xử lý theo hai hướng: nhận uỷ thác của chủ nợ (NHTM); NHTM phải chấp nhận bán khoản nợ cho công ty với giá thấp hơn nhiều so với giá trị ban đầu của khoản nợ. Về phạm vi hoạt động: Hiện nay, một số NHTM đã hình thành công ty mua bán nợ của mình. Vì vậy, để việc xử lý nợ được đồng bộ trong phạm vi nền kinh tế thì Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN nên xử lý các khoản nợ khó đòi của NHTM cho DNNN vay mà các công ty mua bán nợ của các NHTM không có khả năng xử lý. Về nguồn vốn Xử lý nợ tồn đọng của các DNNN đòi hỏi phải có nguồn tài chính lớn và tập trung. Tuy nhiên, do điều kiện Ngân sách còn hạn hẹp, theo kinh nghiệm của Trung Quốc, thì Công ty mua bán nợ có thể phát hành trái phiếu thời hạn 5-10 năm, có bảo đảm của Chính phủ và dùng trái phiếu mua lại khoản nợ quá hạn mà NHTM cho các DNNN vay, đặc biệt là các khoản cho DNNN vay theo chỉ định của Chính phủ và các khoản cho vay không có tài sản đảm bảo. Việc áp dụng biện pháp này có ưu điểm là giảm rủi ro trong hoạt động của công ty mua bán nợ, không gây căng thẳng ngay cho NSNN và nhanh chóng lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NHTM. Về định hướng phát triển Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN hoạt động nhằm mục đích lành mạnh hóa tình hình tài chính, thúc đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại NHTM và DNNN. Vì vậy, thời gian hoạt động của Công ty với tư cách là một tổ chức tài chính đặc biệt của Nhà nước gắn liền với tiến trình cơ cấu lại hệ thống NHTM và DNNN. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN nên hoạt động với tư cách là một tổ chức tài chính đặc biệt của Nhà nước trong vòng 5 năm. Sau đó, công ty sẽ chuyển hướng hoạt động sang hình thức DNNN hoạt động kinh doanh hoặc công ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần chi phối và tiến hành một số hoạt động kinh doanh như: định giá tài sản và doanh nghiệp, dịch vụ đòi nợ, môi giới mua bán nợ… Xử lý nợ là một công việc khó khăn, phức tạp đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và việc xử lý nợ tập trung vào các NHTM quốc doanh và DNNN. Chính vì vậy, việc hoàn thiện mô hình công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các DNNN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tiến trình cải cách hệ thống NHTM Việt Nam. 1.3. Hình thành thị trường bất động sản để giải quyết các khoản nợ đọng có tài sản đảm bảo Việc nhận tài sản đảm bảo là bất động sản là nghiệp vụ kinh doanh rất phổ biến ở tất cả các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, khi khách hàng không có khả năng trả nợ và ngân hàng phải bán các tài sản đó để thu hồi nợ thì lại phải đối mặt với không ít khó khăn, chủ yếu là khó khăn về hồ sơ pháp lý của tài sản. Hầu hết các tài sản bảo đảm là giá trị QSDĐ hay tài sản có liên quan đến đất đều không có giấy chứng nhận quyền sử dụng hay quyền sở hữu. Mặt khác, Việt Nam chưa có một định chế hợp pháp để giải quyết các vấn đề liên quan đến các tài sản là bất động sản. Vì vậy, việc hình thành thị trường bất động sản là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa thiết thực đối với việc xử lý các khoản nợ khó đòi của ngân hàng. Chính phủ cần nhanh chóng xúc tiến việc thành lập một thị trường bất động sản hoạt động với quy mô lớn và được các cơ quan chức năng theo dõi, quản lý để đảm bảo chất lượng và hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư nói chung và các ngân hàng nói riêng. Nếu không có một thị trường bất động sản như vậy thì việc xử lý các khoản nợ tồn đọng của các ngân hàng sẽ rất khó thực hiện. Để làm được điều đó, trước hết Chính phủ phải nhanh chóng tiến hành các biện pháp sau: - Chỉ đạo việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho tất cả những người dân, doanh nghiệp đang sử dụng đất hoặc tài sản liên quan đến đất để giúp các NHTM hoàn thiện hồ sơ pháp lý cho các tài sản đảm bảo là bất động sản. - Hình thành một cơ quan tư vấn về định giá bất động sản vì trên thực tế việc định giá khởi điểm nhà ở, giá chuyển QSDĐ hoặc giá bán quá cao so với giá thị trường nên người mua không thể mua được, do đó ngân hàng không thể phát mại được. - Nhà nước cần tiến hành xem xét việc quy định về định giá giá trị QSDĐ khi thế chấp vay vốn của các NHTM theo giá Nhà nước hoặc chính quyền tỉnh, thành phố quy định. - Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp luật cho phép người nhận thế chấp được toàn quyền xử lý tài sản thế chấp theo thoả thuận ban đầu khi cho bên thế chấp vay vốn. 1.4. Tăng cường công tác quản lý, thanh tra giám sát của Nhà nước, phối hợp hoạt động của các Bộ, ngành hữu quan để giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng Công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, giám sát và sự phối hợp của các Bộ ngành hữu quan đóng vai trò rất quan trọng vào thắng lợi của công cuộc cải cách hệ thống NHTM Việt Nam, đặc biệt là đối với việc xử lý nợ tồn đọng. Do đó, trong thời gian tới đây, NHNN cần tăng cường và chấn chỉnh lại công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM để kịp thời có kế hoạch chỉ đạo phù hợp. Tuy nhiên, việc xử lý nợ của các ngân hàng sẽ không thể tiến hành suôn sẻ nếu không được sự trợ giúp của các Bộ, ngành hữu quan. Điều này đã được chứng minh qua thực tế cải cách 5 năm qua. Đồng thời điều này cũng khẳng định sự cần thiết phải có sự phối hợp hoạt động của mọi ngành liên quan và không thể coi việc cải cách nói chung và xử lý nợ nói riêng là trách nhiệm của riêng các NHTM. Cụ thể: Đối với công tác thanh tra, giám sát của NHNN - Ngân hàng Nhà nước cần phải nghiên cứu để đưa ra đề cương thanh tra phù hợp với hoạt động và nội dung cải cách tại từng khối ngân hàng (NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần). Thanh tra ngân hàng cần chọn điểm, diện thanh tra trong từng năm có trọng điểm, trọng tâm theo từng ngân hàng chuyên doanh cụ thể. Trước các đợt thanh tra đối với từng loại hình NHTM chuyên doanh, cần tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ thanh tra đối với từng lĩnh vực chuyên sâu theo đặc thù hoạt động và tốc độ cải cách tại các ngân hàng để các đoàn thanh tra của Trung ương và địa phương triển khai đúng, sát với yêu cầu chỉ đạo của Thanh tra NHNN, đảm bảo có được nhận định đúng đắn về tình hình cải cách tại mỗi ngân hàng. - Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các quy chế cụ thể để chuẩn hoá các văn bản, quy trình thủ tục thanh tra, kiểm tra đối với các NHTM để công tác nghiệp vụ thanh tra ngân hàng ngày càng được củng cố và nâng cao cả về chất và lượng, đảm bảo phản ánh đúng thực tiễn hoạt động và tiến hành cải cách tại các ngân hàng. - Ngân hàng Nhà nước có thể thành lập các Tiểu ban giám sát tại các NHTM để có thể thường xuyên theo dõi và chấn chỉnh hoạt động cải cách tại các ngân hàng này. Đối với công tác tăng cường sự phối hợp của các Bộ ngành hữu quan. Quyết định 149/2001/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 5/10/2001 được coi là một bước ngoặt lớn về chính sách xử lý nợ tồn đọng và là cơ sở pháp lý quan trọng để các NHTM đẩy nhanh quá trình xử lý nợ tồn đọng và thu hồi vốn. Tuy nhiên, quyết định này mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để các NHTM xử lý nợ tồn đọng một cách hiệu quả. Để tạo điều kiện cho các NHTM thì các cơ quan Bộ, ngang Bộ, và các cơ quan có liên quan cần sớm ban hành các văn bản chỉ đạo để hướng dẫn cụ thể nội dung Quyết định 149. Về phía NHNN - Rà soát các văn bản hiện hành có liên quan đến việc xử lý nợ tồn đọng và tham khảo thêm ý kiến của các NHTM để ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới cho phù hợp với quyết định 149. Hiện nay, Quyết định số 488/00/QĐ-NHNN5 ngày 27/1/00 của Thống đốc NHNN đã có nhiều điểm bất cập so với thực tiễn và Quyết định 149 như trên, gây khó khăn cho các NHTM trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro. Do đó, văn bản này cần được sửa đổi, bổ sung hoặc thay mới bằng văn bản khác cho phù hợp với tình hình mới. - Ngoài ra, Quy chế mua bán nợ ban hành kèm theo Quyết định 149 ngày 19/4/99 của Thống đốc NHNN chỉ điều chỉnh hoạt động mua bán nợ mà bên bán là TCTD. Do đó, sau khi mua nợ từ các TCTD, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM không biết căn cứ vào văn bản pháp lý nào để bán cho các tổ chức kinh tế hay cá nhân khác. Vì vậy, NHNN cần ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động mua bán nợ giữa công ty xử lý nợ với nhau và quan hệ mua bán nợ giữa công ty xử lý nợ và các tổ chức kinh tế, cá nhân hoặc ngược lại. Về phía Bộ tài chính Sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các cơ quan thuế địa phương thực hiện chế độ miễn giảm thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước khi các NHTM, công ty xử lý nợ của các NHTM bán các tài sản nợ vay. Việc Bộ Tài chính ban hành văn bản quyết định cụ thể các NHTM, công ty xử lý nợ của NHTM được miễn thuế giá trị gia tăng khi bán tài sản bảo đảm tiền vay là rất cần thiết để khuyến khích và tạo điều kiện cho các NHTM đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thu hồi nợ. Về phía Bộ tư pháp - Cần ban hành văn bản hướng dẫn các Phòng công chứng địa phương chứng thực hoạt động mua bán những tài sản mà ngân hàng được giao từ các vụ án. Nhiều hoạt động mua bán những tài sản đã không được một số cơ quan Công chứng Nhà nước công nhận vì cho rằng tài sản chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp. Do vậy, ngân hàng không thể làm được các thủ tục công chứng hoạt động mua bán tài sản bảo đảm nói trên để bán tài sản cho khách hàng thu hồi nợ. - Bộ Tư pháp cần hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan thi hành án bàn giao nhanh tài sản bảo đảm nợ vay đã được Toà án tuyên giao cho NHTM để xử lý thu hồi nợ. Về phía Tổng cục địa chính và Bộ xây dựng Hai cơ quan này phải coi những tài sản bảo đảm nợ vay chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp là hậu quả của lịch sử để lại để ban hành các văn bản hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng đối với đất và tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay khi các NHTM, công ty xử lý nợ của các NHTM bán tài sản bảo đảm nợ vay là bất động sản. 2. Giải pháp vi mô 2.1. Các NHTM cần tăng cường nỗ lực để đẩy nhanh hoạt động cải cách 2.1.1. Thực hiện quản lý rủi ro toàn diện, nâng cao chất lượng hoạt động phân tích kinh doanh, chất lượng tín dụng để giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn hiện tại, ngăn ngừa nợ mới phát sinh 2.1.1.1. Thực hiện quản lý rủi ro toàn diện Nợ khó đòi, nợ xấu là vấn đề nổi cộm trong hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp để xử lý các khoản nợ nhưng các biện pháp đó chỉ mang tính tạm thời, không lâu dài. Mặt khác, một vấn đề đặt ra là khi nợ tồn đọng đã và đang được giải quyết, nợ quá hạn mới lại phát sinh và có chiều hướng ngày một tăng. Vì vậy, các NHTM Việt Nam cần phải tiến hành quản lý rủi ro toàn diện để nâng cao năng lực điều hành, giảm thiểu rủi ro cho hệ thống NHTM trong và sau khi tái cơ cấu. Quản lý rủi ro toàn diện là biện pháp lâu dài và bền vững của quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam. Trước đây, các NHTM thường tiến hành quản lý rủi ro một cách tương đối độc lập, chẳng hạn rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá, rủi ro nhân sự… Ngày nay, thay vì quản lý rủi ro một cách riêng rẽ, các NHTM cần thực hiện quản lý rủi ro một cách hệ thống để có thể nhận thức được tất cả các rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải và từ đó có được những biện pháp phòng ngừa tối ưu. Ngoài ra, các ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro, ngăn ngừa nợ mới phát sinh: - Trước mắt, cần nhanh chóng hoàn thiện mô hình tổ chức Ban quản lý rủi ro tín dụng của từng NHTM theo nguyên tắc: ban quản lý rủi ro hoạt động độc lập với các ban khác, chịu sự điều hành trực tiếp của HĐQT và TGĐ. - Xây dựng và ban hành quy chế, điều lệ hoạt động của Ban quản lý rủi ro tín dụng, trong đó xác định rõ nhiệm vụ chức năng cũng như các mối quan hệ điều hành, báo cáo, trao đổi và phối hợp giữa các Ban quản lý rủi ro tín dụng với các cơ quan, phòng ban chức năng trong và ngoài hệ thống. - Xây dựng hệ thống các chuẩn mực, các quy trình phòng ngừa và xử lý rủi ro; trong đó, đặc biệt chú trọng các giải pháp dự báo và phòng ngừa. - Trong thời gian tới, các NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh cần xúc tiến thành lập Ban quản lý tài sản Nợ, tài sản Có. Ban quản lý tài sản Nợ, tài sản Có của các NHTM hoạt động với mục đích xây dựng những chiến lược và thực hiện các hành động để định dạng bảng cân đối tài sản của ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra: tối đa hoá hợp đồng ít nhất là ổn định mức thu nhập từ lãi hay chênh lệch giữa doanh thu lãi và chi phí lãi; tối đa hóa hoặc ít nhất là bảo vệ giá trị của ngân hàng ở một mức độ rủi ro hợp lý. Hoạt động quản lý tài sản Nợ, tài sản Có giúp ngân hàng chống những biến động của chu kỳ kinh doanh và sức ép mang tính thời vụ của những khoản tiền vay và tiền gửi của ngân hàng. Do đó, các ngân hàng phải xem xét danh mục tài sản Nợ, tài sản Có như một thể thống nhất, thường xuyên theo dõi, nắm bắt diễn biến của tài sản Nợ, tài sản Có để kịp thời có những điều chỉnh sao cho hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất và lợi nhuận ở mức cao nhất. 2.1.1.2. Nâng cao chất lượng hoạt động phân tích kinh doanh Lường trước được rủi ro và thường xuyên có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro là vấn đề có tính chất sống còn không chỉ đối với chính bản thân NHTM mà còn vì sự an toàn, ổn định của cả hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, phân tích hoạt động kinh doanh là một trong những biện pháp tốt nhất để phòng ngừa và hạn chế các rủi ro đó, từ đó đẩy nhanh quá trình cải cách ngân hàng. Để nâng cao chất lượng công tác phân tích hoạt động kinh doanh NHTM, các ngân hàng cần tiến hành các biện pháp sau: - Về mặt tổ chức, từng NHTM nên thành lập phòng chuyên trách thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng với đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Phòng chức năng này đặt dưới sự quản lý trực tiếp của HĐQT, có thể tiến hành phân tích thường xuyên hoặc phân tích định kỳ hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình nhằm tạo ra nguồn thông tin đã qua xử lý một cách nhanh, kịp thời và chính xác hơn, từ đó giúp cho các nhà quản lý và điều hành hoạt động ngân hàng có được những quyết định tài chính đúng đắn. - Tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống thông tin quản lý nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả của việc thu thập, xử lý thông tin; thực hiện nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, thống kê và các báo cáo khác theo quy định trong nội bộ từng NHTM. Mặt khác, từng NHTM cần rà soát lại các quy định, quy chế, tiêu chí thống kê, kế toán bất hợp lý đang cản trở việc ứng dụng công nghệ hiện đại trình Thống đốc NHNN xem xét, sửa đổi. - Cần ứng dụng tin học vào công tác phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng. Phân tích là hoạt động khá phức tạp, bao gồm hệ thống chỉ tiêu rất rộng, có những chỉ tiêu tính toán không đơn giản. Nhiều phương pháp phân tích đòi hỏi việc tính toán rất cụ thể. Số liệu phân tích phải được cập nhật thường xuyên và phải được lưu giữ một cách có hệ thống trong nhiều kỳ hạch toán. Bởi vậy, ứng dụng tin học vào công tác phân tích nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này là hết sức cần thiết. - Nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ quản lý ngân hàng về công tác phân tích và việc sử dụng các công cụ phân tích, đồng thời phải thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày về kỹ năng phân tích cho cán bộ quản lý trong hệ thống ngân hàng, tạo ra đội ngũ các nhà quản lý ngân hàng có năng lực phân tích, năng lực tổ chức công tác phân tích, công tác hoạch định và điều hành trực tiếp các hoạt động kinh doanh, phục vụ tốt cho việc ra quyết định quản lý của các nhà lãnh đạo. 2.1.1.3. Nâng cao chất lượng tín dụng Nâng cao chất lượng tín dụng là một giải pháp quan trọng đối với công tác xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Chất lượng tín dụng được nâng cao cũng đồng nghĩa với việc vốn của ngân hàng được đảm bảo an toàn, các hợp đồng tín dụng được thực hiện hiệu quả và ít rủi ro, góp phần giảm và ngăn ngừa các khoản nợ xấu trong tương lai. Trong thời gian tới, các NHTM nên tập trung vào củng cố và hoàn thiện các mặt sau của công tác tín dụng: - Cần thường xuyên tăng cường chất lượng công tác tín dụng: + Mọi khoản cho vay mới phải thực hiện theo đúng chế độ và đúng các điều kiện luật pháp quy định. Riêng các đối tượng vốn chỉ định của Chính phủ, vừa phải thực hiện chính sách ưu đãi, vừa phải đảm bảo điều kiện cho vay, đặc biệt, hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo thu hồi vốn, lãi đúng hạn. + Thực hiện phân loại nợ theo văn bản hiện hành của NHNN trong đó đặc biệt chú ý phân tích nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích hợp. Thực hiện nghiêm túc việc chấn chỉnh tín dụng sau kiểm tra. + Rà soát lại hồ sơ, phân loại dư nợ theo các nguyên nhân để có biện pháp xử lý. + Tính toán được đặc điểm chu chuyển vốn và nhu cầu của bên vay và cùng nhau định kỳ hạn nợ cho phù hợp với kết quả nguồn thu. - Nhanh chóng tiến hành phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng, có kế hoạch cụ thể để đào tạo lại, trang bị thêm kiến thức pháp lý về nghiệp vụ tín dụng, ưu tiên bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ, có tâm huyết sang làm công tác tín dụng. Bằng nhiều hình thức, các NHTM tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng để cập nhật những văn bản, thông tin mới nhất, trước hết là cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay. - Củng cố mô hình mạng lưới tiếp cận khách hàng, công tác tiếp thị. Chú ý xem xét các vấn đề như tư cách pháp lý, nội dung, phương thức hoạt động, quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức kinh tế. - Nâng cao chất lượng công tác tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn và nợ có vấn đề với phương châm an toàn để phát triển. Thực hiện nghiêm ngặt công tác kiểm tra hoạt động tín dụng, đặc biệt tập trung kiểm tra các dự án ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, trên cơ sở đó có biện pháp xử lý thích hợp. Tiến hành phân loại các khoản vay có vấn đề để có biện pháp xử lý thu hồi. Đối với khoản cho vay mới, nhất thiết phải đảm bảo hiệu quả cho vay, phải tuân thủ đầy đủ quy định của ngành, của pháp luật. - Nâng cao tỷ trọng đầu tư cho các DNNN kinh doanh có hiệu quả, có vốn điều lệ lớn, có khả năng thu hồi vốn nhanh, đặc biệt là các doanh nghiệp truyền thống. 2.1.2. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại các NHTM Do đặc điểm hoạt động ngân hàng, hơn bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào khác, các NHTM cần phải kiện toàn hệ thống kiểm soát, KTNB của mình. Đây là một công cụ quản lý cơ bản để HĐQT và BGĐ điều hành hoạt động kinh doanh. Để hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại các NHTM hiện nay, cần phải có một hệ thống các giải pháp từ phía chính bản thân các ngân hàng. Thứ nhất, HĐQT và BGĐ các NHTM cần quan tâm và có trách nhiệm cao trong việc xây dựng môi trường kiểm soát tốt thông qua một số biện pháp cụ thể như sau: - Khuyến khích các chuẩn mực cao về đạo đức, tính tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát nội bộ của cán bộ; không khen thưởng và đề bạt những cán bộ lãnh đạo đã nhất thời kinh doanh thu được nhiều thuận lợi nhưng không đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc kiểm tra nội bộ, hoặc không kịp thời sửa chữa những sai phạm mà bộ phận KTNB đã chỉ ra. - Có thái độ ủng hộ bằng lời nói, thái độ, đặc biệt là những tiêu chí về tiền lương và đề bạt đối với những cán bộ công tác tại bộ phận KTNB. - Tổ chức cơ cấu hoạt động của ngân hàng một cách khoa học, trong đó sự phân công phân nhiệm cho các đơn vị, bộ phận, cán bộ được quy định rõ ràng. Thứ hai, BGĐ cần phân tích từng lĩnh vực kinh doanh để nhận biết và đánh giá rủi ro một cách đầy đủ, đặc biệt khi ngân hàng hoạt động ở lĩnh vực mới, kinh doanh một loại sản phẩm mới, hoặc môi trường kinh doanh có sự thay đổi. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn với một quy trình nghiệp vụ đầy đủ, hiệu quả. Thứ ba, các NHTM phải xây dựng và củng cố bộ phận KTNB để nó hoạt động có chất lượng cao và hiệu quả. Muốn vậy, BGĐ các NHTM phải tiến hành một loạt các giải pháp để kiện toàn hoạt động của KTNB: (1). Về mô hình tổ chức của bộ phận kiểm toán nội bộ Đối với các ngân hàng từ 2 cấp trở lên, hoạt động quy mô lớn, địa bàn hoạt động tộng rãi trên khắp cả nước thì bộ phận kiểm toán phải được tổ chức làm 2 cấp: - Cấp trụ sở chính: phải có Ban KTNB. Trưởng ban KTNB là người chịu trách nhiệm trước TGĐ về việc điều hành hoạt động của bộ phận KTNB. Ban KTNB phải có các bộ phận kiểm toán chuyên ngành như : kiểm toán tín dụng; kiểm toán kinh doanh ngoại hối… Ban kiểm toán có các nhiệm vụ sau: + Điều hành chung hệ thống KTNB, chỉ đạo về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, xây dựng các kế hoạch chiến lược về KTNB cho cả hệ thống và kế hoạch chi tiết cho hoạt động kiểm toán của ban KTNB. + Thực hiện các cuộc kiểm toán theo kế hoạch đã đề ra tại trụ sở chính và tổ chức cũng như trực tiếp tham gia các cuộc kiểm toán tại các chi nhánh. - Cấp chi nhánh (hoặc cấp tỉnh, thành phố): phải có Phòng KTNB với nhiệm vụ: + Xây dựng kế hoạch chiến lược về kiểm toán trong chi nhánh mình và kế hoạch chi tiết để đảm bảo tất cả các hoạt động nghiệp vụ, các đơn vị trực thuộc sau một thời gian tối thiểu phải được kiểm toán. + Thực hiện kiểm toán theo kế hoạch đề ra. Đồng thời, tham gia các cuộc kiểm toán do ban kiểm toán tại trụ sở chính, tổ chức để kiểm toán chéo chi nhánh bạn. (2). Về bố trí nhân sự và đào tạo cán bộ cho bộ phận kiểm toán nội bộ Ban giám đốc cần bố trí nhân sự và cơ sở vật chất cho bộ phận KTNB tương xứng với hình thức và quy mô công việc về mặt chất cũng như mặt lượng. Ngoài ra, cần phải đảm bảo kiểm toán viên nội bộ luôn có một trình độ nghiệp vụ phù hợp với bước phát triển mới nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh được kiểm toán. Như vậy, họ mới có thể thực hiện được công tác KTNB một cách đúng đắn và hiệu quả. Ngoài ra, các NHTM cần phải hình thành một mô hình đào tạo thường xuyên và kiểm tra chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ. Công tác đào tạo kiểm toán viên nội bộ phải được tiến hành trên các lĩnh vực: kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng, kiến thức về pháp luật, kiến thức về kinh tế, kiến thức chuyên môn về lĩnh vực kiểm toán, kiến thức về tin học, ngoại ngữ; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng kiểm toán (3) Về vấn đề đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên Tính độc lập trong KTNB có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả kiểm toán. Điều này có nghĩa là KTNB phải được thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự chủ và độc lập, không chịu bất cứ một sự chỉ đạo nào trong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá kết quả kiểm toán. Để đảm bảo tính độc lập, các kiểm toán viên cần phải làm việc thường xuyên tại các chi nhánh, hưởng lương tại chi nhánh nhưng vẫn chịu sự quản lý và điều hành của Ban KTNB toàn hệ thống ngân hàng, do Ban TGĐ quyết định về tiền lương hay đề bạt, thuyên chuyển công tác mà không chịu sự can thiệp về tiền lương, đề bạt của giám đốc chi nhánh. Kiểm toán viên nội bộ không kiểm toán tại những bộ phận, đơn vị có người thân của mình công tác. Bên cạnh đó, cũng cần đảm bảo sự phân tách chức năng, tức là không được giao nhân viên KTNB thực hiện những nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm toán như tham gia trực tiếp vào quy trình hoạt động nghiệp vụ. Kiểm toán nội bộ phải có vị trí phù hợp trong nội bộ ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của mình một cách khách quan. (4) Về việc xác định vị thế của kiểm toán nội bộ trong ngân hàng Các NHTM cần phải thay đổi nhận thức về vị thế của KTNB trong ngân hàng của mình. Bộ phận KTNB phải trực thuộc trực tiếp Ban TGĐ ngân hàng, chịu sự chỉ đạo của Ban TGĐ chứ không phải từ bất cứ một cấp nào khác. Trong những trường hợp phát hiện sai phạm nghiêm trọng hoặc phát hiện sai phạm của các thành viên trong Ban TGĐ, Ban kiểm toán có quyền báo cáo cho HĐQT. Mặt khác, bộ phận KTNB tại các chi nhánh có quyền báo cáo trực tiếp cho Ban kiểm toán không cần sự chấp thuận của giám đốc chi nhánh; có quyền được nhận thông tin về những nghị quyết của BGĐ đối với hoạt động kinh doanh; được quyền tiếp cận không hạn chế các hồ sơ, thông tin tại các bộ phận kiểm toán. Ngoài ra, các quy chế về tổ chức hoạt động trước khi công bố phải được gửi cho bộ phận KTNB để xin ý kiến. (5) Xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm toán cần định hướng theo rủi ro Xây dựng kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán định hướng theo rủi ro là một biện pháp cần thiết để hoàn thiện cơ chế kiểm soát, KTNB tại các NHTM. Tức là, hoạt động kiểm toán của KTNB phải bao trùm lên mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có lưu ý đến quy mô và mức độ rủi ro của các hoạt động kinh doanh. Trước hết, KTNB cần xây dựng kế hoạch kiểm toán dài hạn và ngắn hạn theo mức độ rủi ro. Đối với kế hoạch dài hạn, cần đảm bảo mọi quy trình hoạt động và kinh doanh cũng như các bộ phận đóng ngoài trụ sở chính phải được kiểm toán sau một thời gian thích hợp. Đối với hoạt động có nhiều rủi ro, những lĩnh vực trọng yếu thì phải được kiểm toán hàng năm, còn lại thì phải được kiểm toán ít nhất 3 năm 1 lần. Kế hoạch kiểm toán phải được BGĐ phê duyệt và phải được ghi chép đầy đủ bằng văn bản. Những điều chỉnh cơ bản trong kế hoạch kiểm toán phải được sự phê duyệt của BGĐ. Ngoài ra, KTNB phải thường xuyên rà soát lại và không ngừng hoàn thiện công tác lập kế hoạch, phương pháp kiểm toán và chất lượng kiểm toán cũng như đảm bảo sao cho bất cứ lúc nào cũng có thể tiến hành kiểm toán đặc biệt ngoài kế hoạch (nếu cần thiết) khi các sai phạm đã trở nên rõ ràng hoặc khi có yêu cầu về thông tin nhất định. (6) Phải thay đổi phương pháp kiểm toán Các NHTM cần phải lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp tuỳ theo mục đích, yêu cầu của cuộc kiểm toán. Phương pháp kiểm toán chung nên theo hướng chuyển dịch trọng tâm kiểm toán từ kiểm toán từng trường hợp riêng lẻ sang kiểm toán hệ thống và kiểm toán chức năng như : kiểm toán tổ chức quy trình hoạt động, kiểm toán việc quản lý và điều tiết rủi ro cũng như tính hiệu lực và hiệu quả của cơ chế KTNB cài đặt trong các quy trình hoạt động và kinh doanh của ngân hàng. Đặc biệt, các ngân hàng cần phải chú trọng xây dựng các bảng mẫu câu hỏi để sử dụng trong kiểm toán, giúp kiểm toán viên nhanh chóng xác định những điểm yếu của lĩnh vực kiểm toán. 2.1.3. Đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ kinh doanh để thu vốn nhằm tăng tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế Mặc dù đã được Nhà nước tái cấp vốn nhưng hiện nay các NHTM Việt Nam vẫn chưa có đủ số vốn cần thiết để hoạt động an toàn. Do đó, các NHTM cần nhanh chóng đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng thu nhập, từ đó tăng nguồn vốn tự có. Các ngân hàng có thể tiến hành đa dạng hoá nghiệp vụ thông qua các biện pháp sau: - Đổi mới cơ bản về mặt tổ chức và bộ máy hoạt động theo mô hình của NHTM hiện đại, phù hợp với tính chất kinh doanh tinh, gọn để thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường, đủ điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. Các ngân hàng phải cấu trúc theo một hệ thống phân phối dịch vụ bán lẻ, vừa đảm bảo khả năng cung ứng dịch vụ một cách tiện lợi cho từng đối tượng, vừa đảm bảo khả năng quản lý một cách thông suốt. - Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các nghiệp vụ hiện có, đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ, phục vụ mục tiêu tự động hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng, từ đó tạo ra sức cạnh tranh cao trong nền kinh tế thị trường, tạo đà cho các ngân hàng đẩy nhanh các hoạt động cải cách đặc biệt trong việc tăng vốn. - Cần phải triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mới phù hợp với điều kiện, khả năng của từng ngân hàng và nhu cầu của nền kinh tế. - Thực hiện các biện pháp thu hút khách hàng để mở rộng và phát triển nghiệp vụ ngân hàng như: đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo; triển khai ứng dụng marketing để phát triển nghiệp vụ ngân hàng; đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình và nhanh chóng; thực hiện đúng khẩu hiệu “khách hàng là thượng đế” của ngân hàng. - Các NHTM cần tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm tạo được một đội ngũ cán bộ giỏi cả chuyên môn lẫn ngoại ngữ, đặc biệt là tin học để có thể tư vấn và thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng về nghiệp vụ ngân hàng. 2.2. Tăng cường và thực hiện hiệu quả các hình thức tái cấp vốn để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn cho hệ thống NHTM Việt Nam Thời gian qua, Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực để bổ sung vốn cho các NHTM. Tuy nhiên, do NSNN còn hạn hẹp nên hiệu quả tái cấp vốn chưa cao, số vốn điều lệ tại các NHTM vẫn chưa đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế. Vì vậy, với mục tiêu thiết lập các ngân hàng hoạt động an toàn, cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh, việc tái cấp vốn phải được thực hiện bằng những biện pháp cụ thể và đặc trưng cho từng khu vực NHTM. 2.2.1. Đối với các NHTM quốc doanh: Chính phủ và các NHTM quốc doanh cần phải thực hiện các giải pháp sau: Một là, bán các khoản nợ khó đòi cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN sẽ được thành lập và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Giải pháp này giúp tái cung cấp lại khoản vốn đã bị “ngừng hoạt động” hoặc bị “chôn vùi” vào bất động sản, mặt khác cải thiện tình hình tài sản Có nhằm làm trong sạch bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng. Hai là, Nhà nước nên dồn vốn cấp cho các NHTM quốc doanh để các ngân hàng này tăng dần năng lực tài chính, ổn định hoạt động. Số vốn này chỉ có thể có được khi Chính phủ không cấp vốn tản mạn cho các DNNN mà dồn cho các ngân hàng, sau đó ngân hàng cho vay lại đối với các DNNN với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất huy động vốn cùng loại tại thời điểm đó. Số vốn cho vay theo lãi suất này đúng bằng với kế hoạch cấp vốn của Bộ Tài chính và các Bộ liên quan cho các DNNN. Giải pháp này cùng lúc đạt được nhiều mục đích: các NHTM có thể tăng vốn chủ sở hữu, đồng thời có điều kiện huy động vốn trong và ngoài nước. Còn đối với doanh nghiệp, đành rằng Chính phủ cần thiết phải hỗ trợ về vốn, song nếu so sánh vốn Nhà nước thực tế cấp cho DNNN với việc chuyển vốn cho các ngân hàng để cho vay buộc các doanh nghiệp phải có trách nhiệm cao trong việc sử dụng vốn, kết quả kinh doanh sẽ cao hơn, từng bước xoá bỏ bao cấp về vốn, giảm rủi ro cho Nhà nước do ngân hàng cho vay theo khối lượng công việc thay cho việc cấp phát vốn của Nhà nước không gắn với khối lượng công việc cụ thể. Mặt khác, trong khi NSNN còn hạn hẹp, nếu vẫn tiếp tục phân tán vốn cho cả DNNN và NHTM quốc doanh thì cả hai đều phải mất vài chục năm nữa mới có đủ tiềm lực tài chính để cạnh tranh trên thị trường. Ba là, Chính phủ tiến hành cổ phần hoá một tỷ lệ nhất định tại NHTM quốc doanh để bán cho các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước nhằm thu hút vốn; tìm mọi biện pháp để khuyến khích (có thể qua lãi suất hoặc cổ tức…) để huy động vốn nhàn rỗi của các tổ chức và cá nhân cho vay để tăng vốn điều lệ của ngân hàng dưới hình thức mua trái phiếu. Bốn là, Chính phủ cần phải tiến hành giảm các khoản thuế dịch vụ, thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm thiểu phí thu sử dụng vốn NSNN (0%-2%) để tạo điều kiện cho các NHTM quốc doanh bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận tích luỹ hàng năm, trích lập quỹ dự phòng rủi ro và tái đầu tư tài sản cố định. 2.2.2. Đối với các NHTM cổ phần Chính phủ và các NHTM cổ phần phải thực hiện các giải pháp sau: Một là, bán các khoản nợ khó đòi cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN sẽ được thành lập và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Hai là, bán cổ phần cho Chính phủ, NHTM quốc doanh hoặc tổ chức nước ngoài để tăng khả năng hoạt động kinh doanh. Ba là, tiếp tục tăng vốn điều lệ bằng cách bán cổ phần cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Bốn là, Chính phủ thông qua các NHTM quốc doanh bơm vốn tạm thời và bổ nhiệm ban lãnh đạo mới để cơ cấu lại các NHTM cổ phần yếu kém, sau đó bán lại cho các NHTM quốc doanh, kể cả cho các ngân hàng nước ngoài. Năm là, Chính phủ cần tiếp tục tiến hành giải thể hoặc sáp nhập các NHTM cổ phần yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển. 2.3. Thực hiện giải pháp mua lại đối với các NHTM cổ phần yếu kém Thời gian qua, Chính phủ đã tiến hành sắp xếp các NHTM cổ phần chủ yếu thông qua hình thức sáp nhập và chuyển đổi hình thức hoạt động (từ NHTM cổ phần thành thị sang NHTM cổ phần nông thôn). Tuy nhiên, việc tiến hành sáp nhập và chuyển đổi các ngân hàng chưa đạt hiệu quả chưa cao do các bên còn mất thời gian tìm hiểu đối tác sáp nhập. Hơn nữa, chưa hẳn hai ngân hàng sáp nhập sẽ tạo ra một ngân hàng mạnh hơn. Vì vậy, bên cạnh việc sáp nhập các ngân hàng, Chính phủ cũng cần xem xét việc thực hiện giải pháp mua lại đối với các NHTM yếu kém nói trên. Bên mua lại sẽ là các NHTM hoạt động mạnh, muốn nâng cao vốn điều lệ và hội đủ các điều kiện tự nguyện mua lại; còn bên bán là các ngân hàng cổ phần không đủ điều kiện để sáp nhập, hợp nhất, nghĩa là bản thân ngân hàng này hoạt động rất khó khăn, mất cân đối vốn thanh toán, có nguy cơ bị rút giấy phép hoạt động. Hình thức mua lại không đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu tìm hiểu giữa các ngân hàng nên có thể rút ngắn thời gian tái cơ cấu các NHTM cổ phần, sớm giảm bớt được số lượng các ngân hàng cổ phần, hoàn tất sớm việc chấn chỉnh, sắp xếp các NHTM cổ phần. 2.4. Tạo nguồn bù đắp nợ quá hạn, tăng khả năng thanh toán cho các NHTM quốc doanh Khi các doanh nghiệp và người đi vay không thể trả được nợ, Nhà nước đã chủ trương cho phép các ngân hàng dược khoanh nợ, giãn nợ, miễn lãi… và được phép trích lập rủi ro ghi vào chi phí ngân hàng. Chủ trương này là đúng, nhưng cái khó là nguồn bù đắp các loại nợ tổn thất này lại không được giải quyết. Nếu trích rủi ro, ghi vào chi phí thì không có ngân hàng nào có đủ nguồn để chi, dẫn đến lỗ trong kinh doanh và không thể tạo vốn. Vì vậy, Nhà nước cần tiến hành các biện pháp cần thiết để tạo nguồn bù đắp nợ quá hạn và tăng khả năng thanh toán cho các ngân hàng. Có như thế mới giải quyết được triệt để các khoản nợ. Để làm được điều này, cần tiến hành các biện pháp cơ bản sau: - Mở rộng tín dụng cho các NHTM quốc doanh thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất ưu đãi hoặc Chính phủ vay của NHTM quốc doanh theo hình thức tín dụng thông thường. Cách làm này có 3 lợi thế: giải toả được vốn huy động của các NHTM quốc doanh đang bị bế tắc; tạo cơ hội cho NHTM quốc doanh giảm lỗ, hoặc tăng thu nhập; giảm khó khăn tài chính trong lúc này. - Tiến hành tăng tín dụng mới từ NHNN thông qua các hình thức như: + Giảm lãi suất tái cấp vốn + Ngân hàng Nhà nước mua lại hối phiếu Chính phủ từ các NHTM quốc doanh trong những trường hợp cần thiết để mở rộng cung ứng tiền cho nền kinh tế. + NHTM có thể sử dụng nguồn tái cấp vốn để mua nợ, xoá nợ cho một số con nợ đặc biệt do Chính phủ bảo lãnh và được hoàn vốn dần từ khoản NHNN phải nộp NSNN theo quy định của Luật Ngân sách. + Cho phép NHNN sử dụng nguồn tái cấp vốn để tăng vốn tự có cho các NHTM quốc doanh và một số ngân hàng được lựa chọn theo tiêu chuẩn an toàn, hiệu quả phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. - Áp dụng các biện pháp kiểm soát tín dụng và hướng dẫn tín dụng của NHNN đối với các NHTM quốc doanh trong việc cho vay các đối tượng có nợ quá hạn lớn và kinh doanh kém hiệu quả. 3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan 3.1. Đối với việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng 1. Về việc xử lý bên vay không trả nợ Đề nghị Nhà nước nghiên cứu sớm thay đổi thủ tục tố tụng kinh tế, dân sự, thủ tục thi hành án trong việc xử lý nợ ngân hàng so với hiện nay. Nên xử lý nợ ngân hàng theo hướng sau: - Đối với tài sản đảm bảo nợ hợp pháp, khi đến hạn trả mà bên vay không có khả năng trả nợ bằng ngân khoản, ngân hàng có đơn đến Toà án, căn cứ vào hồ sơ Toà án ra ngay quyết định cho ngân hàng xử lý tài sản, không cần thiết phải tiến hành các bước điều tra, hoà giải, xét xử như hiện nay. Quyết định của Toà án có hiệu lực ngay, được một bộ máy tổ chức thi hành ngay khi có quyết định của Toà, không cần qua các thủ tục thi hành án kéo dài như hiện nay. - Đối với nợ vay, tài sản đảm bảo liên quan đến vụ án hình sự, đề nghị Toà án giao ngay cho ngân hàng để chủ động xử lý tài sản để thu hồi nợ. 2. Về việc xử lý nợ đối với Doanh nghiệp Nhà nước Việc xử lý nợ của DNNN vô cùng khó khăn vì tài sản của DNNN không được bán để trả nợ, phải đảm bảo để doanh nghiệp tồn tại, đảm bảo cuộc sống của người lao động. Trong khi đó, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, cũng là người lao động cũng cần tồn tại. Nếu DNNN không trả nợ thì ngân hàng sẽ đổ vỡ. Vì vậy, DNNN khi không trả được nợ thì cũng phải bán tài sản, bán doanh nghiệp để trả nợ ngân hàng. 3. Về việc thu thuế giá trị gia tăng đối với việc bán tài sản thu nợ Đề nghị cơ quan thuế không thu thuế giá trị gia tăng khi các ngân hàng bán tài sản để thu hồi nợ vì việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay không phải hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Nếu có thu, đề nghị chỉ thu trong trường hợp ngân hàng đã mua lại tài sản của con nợ, đã sang tên sở hữu cho ngân hàng, sau đó khi bán lại với giá cao hơn giá mua thì có thể thu thuế trên phần giá trị gia tăng giữa giá bán và giá mua. 4. Về việc thành lập thêm các Công ty bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp ngoài các Trung tâm bán đấu giá hiện nay Dịch vụ đấu giá tài sản là hoạt động kinh doanh phù hợp với Luật doanh nghiệp. Tại TP. Hồ Chí Minh, số tài sản cần bán đấu giá là rất lớn, do chỉ có một trung tâm dịch vụ bán đấu giá độc quyền thực hiện dịch vụ này nên khi các ngân hàng cần bán đấu giá tài sản đều phải qua Trung tâm này, vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn chi phí, vừa dễ bị chiếm dụng tiền bán tài sản… Trước tình hình trên, đề nghị Nhà nước cho thành lập thêm các Công ty bán đấu giá tài sản khác, có như thế khi ngân hàng cần bán tài sản qua Trung tâm đấu giá (ngoài trường hợp ngân hàng được quyền tự bán), các ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn nơi nào thuận lợi nhất về thời gian, chi phí… 3.2. Đối với việc đa dạng hoá nghiệp vụ để tăng vốn điều lệ 3.2.1. Kiến nghị với Nhà nước và Chính phủ Thứ nhất, Nhà nước cần sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh và phát triển nghiệp vụ của các NHTM như: - Sớm sửa đổi pháp lệnh kế toán thống kê, bổ sung những quy định mới về lập chứng từ kế toán ghi sổ phù hợp với những dịch vụ tài chính - ngân hàng thực hiện bằng công nghệ quản lý, thanh toán qua hệ thống vi tính - điện toán theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chứng từ của ngân hàng điện tử, chữ ký điện tử. - Cần quy định rõ bằng pháp luật đối với các chứng từ, hoá đơn thanh toán dịch vụ ngân hàng do NHNN quản lý và ban hành mẫu biểu thống nhất, không dùng hoá đơn mua bán hàng hóa thông thường do Bộ Tài chính ban hành như các doanh nghiệp khác. Đồng thời, ban hành chế độ khấu hao nhanh các trang thiết bị thuộc hệ thống ngân hàng. - Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quy định chế độ mã khoá được đăng ký và sử dụng cho các thành phần tham gia hoạt động thương mại điện tử. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Cụ thể: - Cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác (trong đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu). Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư, đề nghị Chính phủ cho phép các NHTM vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác. - Tăng vốn điều lệ và cấp vốn cho NHTM đầu tư công nghệ hiện đại. - Cho phép NHNN phối hợp với Bộ tài chính thành lập “Quỹ hiện đại hóa ngân hàng” để tập trung nguồn tài chính đầu tư cho việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Vốn thành lập quỹ có thể lấy một phần từ NSNN, một phần từ phát hành trái phiếu trung dài hạn có khả năng chuyển đổi và cấp trở lại. Thứ ba, cần có chính sách đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ. - Trước mắt, sớm có Nghị định về thanh toán qua ngân hàng thay thế Nghị định số 91/ CP ngày 25/11/1993 về thanh toán không dùng tiền mặt đã quá lạc hậu. Đồng thời, Chính phủ cần cho phép NHNN thay đổi mệnh giá đồng tiền phát hành, phát hành thêm tiền kim khí để có thể sử dụng được qua các máy tự động. - Cần quan tâm phát triển bưu chính viễn thông và Internet để khuyến khích phát triển thương mại điện tử và các dịch vụ ngân hàng qua mạng. 3.2.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Thứ nhất, NHNN cần bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách thúc đẩy việc phát triển các nghiệp vụ ngân hàng. - Trên cơ sở các bộ luật của Nhà nước, cần nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn (dưới luật) về hoạt động ngân hàng để các NHTM thực hiện. - Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế thanh toán để đáp ứng yêu cầu đổi mới các cơ chế nghiệp vụ khác; ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử (thẻ tín dụng, thẻ điện tử…) nhằm giúp các NHTM nhanh chóng triển khai các dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả. NHNN cần thành lập Hiệp hội thẻ Việt Nam trực thuộc NHNN như một tổ chức quản lý, một trung tâm thanh toán giữa các ngân hàng. Thứ hai, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ và cơ chế quản lý các Trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN. - NHNN cần tập trung đầu tiên, mạnh mẽ vào công tác thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao chất lượng các phương tiện và công cụ thanh toán. Ngoài ra, NHNN cũng cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các NHTM tự đầu tư, hợp tác, liên kết và vay vốn để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. - NHNN cần thiết lập các Trung tâm thanh toán bù trừ theo khu vực và quốc gia tiến tới thực hiện thanh toán bù trừ tự động. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở, đa dạng các công cụ, chứng chỉ có giá giao dịch tại thị trường mở như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, … tạo cho thị trường này hoạt động sôi nổi hơn, trở thành hậu thuẫn vững chắc cho việc đảm bảo thanh khoản và là cơ sở để phát triển nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu thương phiếu và đầu tư của các NHTM. 3.3. Đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại các NHTM - Đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ hiện hành của các ngân hàng theo hướng vừa đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động kiểm tra, KTNB vừa có hiệu quả và phù hợp với thực tiễn. - Đề nghị Chính phủ sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về phương pháp KTNB đối với các hoạt động nghiệp vụ cho các NHTM, đặc biệt là KTNB đối với hoạt động tín dụng. - Ngoài những tiêu chuẩn chung của viên chức NHTM quốc doanh theo quy định của Thống đốc NHNN, đề nghị các ngân hàng bổ sung các tiêu chuẩn sau đối với các kiểm toán viên: + Có hiểu biết pháp luật + Có bằng tốt nghiệp Đại học về Kinh tế hoặc Kế toán-Tài chính hoặc ngân hàng hoặc về chuyên ngành kiểm tra kiểm toán viên. + Có thời gian làm công tác tín dụng ít nhất 3 năm; thông thạo nghiệp vụ tín dụng, nắm vững các văn bản chế độ quy định của Nhà nước, của ngành về nghiệp vụ tín dụng; hiểu biết về kế toán - tài chính. 3.4. Đối với việc xúc tiến thành lập Công ty mua bán tài sản tồn đọng của các tổ chức tín dụng - Chính phủ cần sớm ban hành một văn bản pháp luật riêng để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của Công ty. Đồng thời, khẩn trương phối hợp với NHNN, Bộ tài chính để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời Công ty mua bán tài sản tồn đọng của TCTD trong thời gian tới như vốn hoạt động của công ty, cơ cấu tổ chức… trên cơ sở khắc phục những phương án thiếu tính khả thi của Đề án cũ ./. KẾT LUẬN Sau gần 5 năm thực hiện chủ trương cải cách hệ thống các NHTM của Đảng và Nhà nước, hoạt động của các NHTM Việt Nam đã có nhiều nét mới đáng khích lệ trong việc thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng và tăng cướng năng lực cạnh tranh. Đặc biệt, tỷ lệ an toàn vốn tại các NHTM quốc doanh và các NHTM cổ phần đã được cải thiện khá nhiều thông qua sự trợ giúp của Chính phủ và nỗ lực của chính các ngân hàng. Tuy nhiên, trước xu thế quốc tế hoá và hội nhập kinh tế, các ngân hàng của chúng ta ngày càng chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các ngân hàng nước ngoài và cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Tình hình đó buộc chúng ta phải có những định hướng, giải pháp cụ thể, triệt để và hiệu quả hơn nữa, cải tiến các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động cải cách NHTM Việt Nam, tăng cường sự phối hợp của các Bộ ngành hữu quan trong hoạt động cải cách. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá trực trạng cải cách NHTM Việt Nam trong thời gian qua đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể, góp phần đẩy mạnh hoạt động cải cách trong thời những năm tới đặc biệt là trong tình hình như hiện nay khi mà tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn rất cao. Sau khi nghiên cứu, phân tích, đề tài rút ra một số kết luận sau: 1. Khu vực NHTM quốc doanh: Tái cấp vốn và xử lý nợ là hai nội dung chính của hoạt động cải cách các NHTM quốc doanh. Trong thời gian qua, với sự trợ giúp đặc biệt của Chính phủ, hoạt động cải cách các NHTM quốc doanh đã thu được những kết quả đáng mừng, phần nào tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng thông qua nguồn vốn tái cấp và trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, cho đến nay, các NHTM quốc doanh Việt Nam vẫn chưa đạt được mức an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế là 8%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ quá hạn hiện vẫn còn rất cao, gần 10%. Nguyên nhân chủ yếu là do khung pháp lý điều chỉnh việc xử lý nợ của các ngân hàng còn nhiều bất cập, mô hình quản lý rủi ro của cách NHTM quốc doanh còn nhiều hạn chế. 2. Khu vực NHTM cổ phần: Trong thời gian qua, các NHTM cổ phần được tái cơ cấu toàn diện thông qua việc sắp xếp lại và giảm thiểu số lượng các ngân hàng hoạt động không hiệu quả nhằm tăng vốn tự có, từ đó nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng. Hiện nay, số lượng các ngân hàng yếu kém đã giảm đáng kể, từ chỗ có 51 ngân hàng cổ phần trong cả nước (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn), đến nay chỉ còn 36 ngân hàng (21 NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn) với 33/36 ngân hàng hội đủ vốn điều lệ theo quy định. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ các ngân hàng này cũng chưa có đủ vốn điều lệ và tình hình nợ quá hạn vẫn còn nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do các ngân hàng chưa cố gắng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh để tăng vốn tự có, quá trông chờ vào sự trợ cấp vốn của Chính phủ trong khi vốn Ngân sách thì có hạn, thậm chí không đủ để cấp cho các NHTM quốc doanh. Những vấn đề cần bàn luận chắc hẳn còn nhiều, những nội dung nêu trong đề tài tuy chưa nói hết được vấn đề nhưng cũng góp một phần nghiên cứu để đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động cải cách một cách có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM Việt Nam trước xu thế hội nhập mạnh mẽ trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng vào những năm đầu thế kỷ 21.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP.pdf
Luận văn liên quan