Luận văn Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Một số vấn đề về quan điểm như sở hữu và thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước và thị trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế quốc tế. chưa được làm rõ, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và thông suốt trong thực hiện, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể chế hóa thiếu dứt khoát, thiếu nhất quán, chậm trễ, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và công tác tổ chức thực hiện.

pdf28 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2361 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hôị chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2. Các thành phần kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhát quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. + Kinh tế nhà nước: Có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Kinh tế nhà nước gồm có doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Ngoài ra còn các tập đoàn kinh tế trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước tham gia các hoạt động kinh doanh, buôn bán lớn, buôn bán xuyên quốc gia. + Kinh tế tập thể: gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Đội ngũ xã viên trong hợp tác xã được nhà nước hỗ trợ, mở các lớp huấn luyện nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn để kịp thời nằm bắt khoa học, công nghệ, ứng dụng trong sản xuất thực tiễn, nâng cao hiệu quả lao động. + Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng. Nhà nước đang tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. + Kinh tế tư bản tư nhân: Phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên, kể cả đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra nhà nước khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần bán cổ phiếu cho người lao động liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. + Kinh tế tư bản nhà nước: Phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đang phát triển thuận lợi, mục tiêu hướng vào xuất khẩu. Tạo điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cho nguồn lao động dồi dào trong nước. Ngoài ra, nhà nước ta đang có những chính sách thích hợp, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữ các thành phần kinh tế với nhau giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn. 3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường a.Tự do, tự nguyện đề cao vai trò của người tiêu dùng và người sản xuất Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì,sản xuất nhu thế nào do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập quyết định. Nguồn lực của xã hội được luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ thực chất nguồn lực của xã hội. Nền kinh tế vận hành một cách khách quan. Nguồn lực xã hội được luân chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Tuy nhiên để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đầy đủ bao giờ cũng gắn với vai trò quản lý nhà nước nhằm hạn chế tính tự phát của nó. b.Kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng về sở hữu loại hình quy mô đã tạo điều kiện để giảI phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, kinh tế nhà nước giữ vai trò định hướng, đIều chỉnh nền kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác làm cho làm nền kinh tế năng động hơn. Kinh tế hợp tác sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh cho các thành phần kinh tế. Thực hiện đường lối phát triển kinh tế do Đại hôịi VII của Đảng cộng sản Việt Nam là phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta dang ra sức đảy mạnh sản xuất, xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. c. Thay vì việc can thiệp trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, nhà nước định hướng, tạo môi trường điều tiết nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những vấn đề của kinh tế do nhà nước quyết định, vì chưa có thị trường do nhà nước quyết định,vì chưa có thị trường đó nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, nguồn lực xã hội chủ yếu luân chuyển theo chiều dọc, qua nhiều tầng, lớp đã hạn chế sự chủ động, sáng tạo của người tiêu dùng và các chủ thể sản xuất kinh doanh. Vì tập trung vào giải quyết những vấn đề cụ thể do đó những vấn đề quản lý vĩ mô không được coi trọng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng dân chủ hóa, bản thân thị trường là một cơ chế đIều tiết kinh tế một cách khách quan, nằm trong cơ chế ấy nhà nước định hướng, dẫn dắt các lỗ lực phát triển, tạo sân chơi bằng phẳng cho cạnh tranh, điều tiết kinh tế bằng chính sách công cụ và thực lực kinh tế làm vai trò bà đỡ cho nền kinh tế phát triển. c. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được rộng mở, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hòa nhập thị trường thế giới. Nguồn lực xã hội không chỉ ở trong nước mà còn cả quốc tế. Trong đIều kiện của xu hướng quốc tế toàn cầu hóa, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương. Đối với nước kém và đang phát triển, mở cửa là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực xã hội cho phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phảI có chiến lược biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. d. Kinh tế thị trường gắn liền với những khuyết tật vốn có của nó. Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hóa, tự do hóa cá nhân, coi trọng động lực lợi ích do đó dễ cường điệu hóa lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung, những cân đối tổng thể của nền kinh tế,coi trọng lợi ích kinh tế, dễ bỏ qua những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tránh sẽ có kẻ thắng người thua, nhưng thị trường vô tư không bảo vệ những kẻ chiến bại. Cạnh tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường: bóp méo sự vận động của cung cầu, giá cả. Chuyển sang kinh tế thị trường gắn liền với những thử thách về đạo đức nhân cách, những yếu tố truyền thống văn hóa. 4. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự hiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. Kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hóa cũng dần được đổi thay: từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hóa giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn, đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất: Là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai hay dã man). Giai đoạn thứ hai: Là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba: Là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến kích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa nhỏ) tự phát sẽ "hằng ngày hằng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản" (nói theo cách nói của V.I.Lê - nin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất - kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học - công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học - kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; giai đoạn kinh tế thị trường tự do gắn liền với nền văn minh công nghiệp và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi điện tử - tin học... Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển kinh tế - xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả những thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội). "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn". Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác họa quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ - xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đặt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nội dung công bằng, văn minh. Nhà nước xã hội chủ nghĩa "của dân, do dân và vì dân" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng bảo đảm thực hiện sự định hướng đó. b. Các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhìn chung, tư tưởng về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường rất đa dạng. Tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước được vận dụng ở các nước cũng rất khác nhau và thay đổi qua các thời kỳ. Song, điều khẳng định là: sự can thiệp, sự quản lý của nhà nước đối với kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại (kể cả trong các nước TBCN). Người ta đã nói đến các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường (theo lịch sử phát triển). Những người theo phái trọng thương (thế kỷ 15 - 17) đã chủ trương nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, chủ yếu là các hoạt động ngoạit hương, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, vấn đề nhà nước can thiệp vào kinh tế được đặt ra trong điều kiện hoàn toàn mới. Lúc này nền kinh tế TBCN thế giới đang lầm vào khủng hoảng thừa, do đó đòi hỏi nhà nước tư sản phải có phương pháp mới can thiệp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất. Theo J.M. Kên, nhà nước phải duy trì mức cầu về đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn; từ đó, theo nguyên lý "số nhân" mà kích thích tiêu dùng xã hội, nâng cao cầu có hiệu quả. Nhà nước sử dụng tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế thị trường TBCN. Để đối phó với các khuyết tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại đã phối hợp giữa "bàn tay vô hình" của thị trường và "bàn tay hữu hình" của Chính phủ. Theo P.A. Xa-mu-en-xơn, chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường:  Thiết lập khung khổ pháp luật;  Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả;  Đảm bảo sự công bằng;  ổn định kinh tế vĩ mô. Dựa trên những tư tưởng và chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nêu trên, ngày nay người ta đã mô tả chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nói chung bằng mô hình: Khắc phục thất bại của thị trường Cải thiện công bằng xã hội Các chức năng tối thiểu Cung cấp dịch vụ thuần túy: - Quốc phòng - Khung pháp luật. - Quyền sở hữu tài sản.- Quản lý kinh tế vĩ mô. - Sức khỏe cộng đồng Bảo vệ người nghèo - Các chương trình giảm nghèo. - Cứu trợ xã hội Các Cung cấp các Kiểm soát độc Khắc phục thông chức năng trung gian yếu tố ngoại sinh: - Giáo dục phổ thông. - Bảo vệ môi trường. quyền: - Quy định quyền sử dụng. - Chính sách chống độc quyền. tin không hoàn hảo: - Bảo hiểm y tế, nhân thọ... - Công khai về tài chính. - Bảo vệ khách hàng Các chức năng tích cực Phối hợp hoạt động tư nhân: - Thúc đẩy sự phát triển của thị trường. - Tập hợp sáng kiến tập thể. Tái phân phối: - Tái phân phối thu nhập. c. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo tôi hiểu, thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh và nhóm nhân tố của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế "mở". Độ "mở" của nền kinh tế tùy thuộc vào: Thứ nhất: Bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới; Thứ hai: Năng lực tổ chức quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng "nội sinh hóa" có hiệu quả các yếu tố "ngoại sinh" (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tri thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta. Như vậy, sự hiện diện của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là "bộ phận cấu thành trọng yếu" (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực của thị trường; đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới chủ nghĩa xã hội. Sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Sai lầm chủ quan của nhà nước cũng tác hại không kém, thậm chí còn hơn, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Sự điều tiết của nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Một là: Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay, các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được chuyển quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình. Tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng...); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...); luật thương mại v.v... Hai là: Nhà nước tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tín dụng... Ba là: Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích. Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa "theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân". Có một số người cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hóa vĩ mô của nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế. Một là: Điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính Hai là: Điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa và thị trường - xét từ góc độ nhà nước - là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiêu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hóa của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý nhà nước nền xã hội chủ nghĩa định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém. Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng: "Nhà nước thực hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển: trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. 7. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. a. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất qua trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ kho học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các Tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không, đường sắt, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán... Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trường cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Phấn đấu trong những năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các Tổng công ty nhà nước. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm, khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết ấu hạ tầng. b. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý về thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; từng bước mở thị trường bất động sản cho ngươi Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn và phục vụ sản xuất kinh doanh... Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung, đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân; kiên quyết xóa bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân. c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như: AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO... Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hóa sản xuất trong nước. Tăng kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước. Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, bưu chính - viễn thông, tài chính - tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối... Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hóa việc cấp giấy phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới. Tăng cường hỗ trợ và quản lý sau cấp giấy phép, tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép triển khai thực hiện có hiệu quả. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện cổ phần hóa những doanh nghiệp có điều kiện. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư giánhà nước tiếp của nước ngoài ở nước ta. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh hợp pháp ở nước ngoài. Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ. Đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gắn chặt việc sử dụng vốn vay với trách nhiệm trả nợ. II. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Những thành tựu đạt được trong công cuộc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được vạch ra tại Đại hội VI của Đảng và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định. Sau nhiều năm kiên trì thực hiện đường lối do Đảng vạch ra, mặc dù có nhiều khó khăn thách thức nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. 1. Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3% công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%. - Nền kinh tế bắt đầu có tích lũy. Đầu tư cơ bản trong 5 năm là 18 tỷ USD, trong đó phần đầu tư của Nhà nước là 43%, đầu tư trực tiếp của nước ngoàI chiếm 27%. - Lạm phát được kiềm chế (tuy có những yếu tố chua vững chắc) năm 1990 là 107,5%; năm 1991 xuống 67,5%; năm 1992: 17,7%; năm 1993: 5,2%; năm 1994: 14,4%; năm 1995 là 12,7% 2. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế, hình thành những Tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. 3. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. 4. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Lòng tin của nhân dân đối với tiền đồ của đất nước, với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ dược nâng lên. Mỗi năm tạo thêm hơn 1,2 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống 10%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi tăng lên 68,3 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm lo sức khỏe cộng đồng, phòng, chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ. Phong trào thể dục rèn luyện sức khỏe phát triển; thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên. Đánh giá tổng quát, phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong chiến lược kinh tế - xã hội đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa xã hội không ngừng tiến bộ, thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Nguyên nhân dẫn đến những thành quả trên: Để đạt được những thành tựu trên là do những nguyên nhân: Một là: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trươg, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai là: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp, tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình. Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải vận động được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia. Ba là: Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống của các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra. Bốn là: Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. 2. Những mặt còn hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng kém phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế - xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là: 1. Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng còn thấp hơn mức bình quân của thập kỷ 90. 2. Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo Luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh. 3. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế, môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh. Những yếu kém của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vậy. Ta hãy xét đến nguyên nhân dẫn tới sự yếu kém ấy. * Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những mặt yếu kém, bất cập nói trên có phần do điều kiện khách quan, nhưng chủ yếu là do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, nổi lên là: Công tác tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước chưa nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thật chủ động tranh thủ thời cơ. Vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước ở các cấp chưa được phân định ràch mạch và phát huy đầy đủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được thực hiện tốt, trách nhiệm tập thể chưa được xác định rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề cao, kỷ luật không nghiêm. Một số vấn đề về quan điểm như sở hữu và thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước và thị trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế quốc tế... chưa được làm rõ, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và thông suốt trong thực hiện, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể chế hóa thiếu dứt khoát, thiếu nhất quán, chậm trễ, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và công tác tổ chức thực hiện. Công tác cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết cả về xây dựng và hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức. Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập. Việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận không theo kịp yêu cầu. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực và hiệu quả. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức thoái hóa biến chất, thiếu năng lực. Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân. Kết luận Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp... nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng. Con người không thể có cơ thể khỏe mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khỏe. Con người không có trí tuệ minh mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển con người cho thế kỷ XXI. Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đôi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy. Nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội. Từ thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước ta, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội và thị trường là điều có thể dung hợp. Để có được kinh tế thị trường theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kiên định, sáng tạo và cách mạng. Sau đó, có một hệ thống chính trị phù hợp mà hạt nhân của nó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do vậy, với vai trò là công dân của đất nước chúng ta phải góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực, kinh tế thế giới và khẳng định cao hơn nữa vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Tài liêu tham khảo - Văn kiện Đại hội Đảng IX. - Tạp chí Cộng sản số 4/1996. - Tạp chí Cộng sản số 7/1996. - Tạp chí Cộng sản số 10/1998. - Tạp chí Nghiên cứu và lý luận số 9/2000. - Sách Quản lý nhà nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Cơ sở lý luận về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.pdf