Luận văn Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang

Thứ hai, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tăng cường chỉ đạo các Sở và ban, ngành trong tỉnh trong các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, đồng thời có cơ chế, chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó khâu đột phá là đầu tư phát triển giáo dục để nâng cao dân trí và đào tạo nghề cho nông dân; nâng c ấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là giao thông bộ.

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3338 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện môi trường. Phương hướng đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp của huyện trong thời gian tới diễn ra theo 3 cấp độ từ thấp đến cao như sau: Đa dạng hóa cơ cấu cây trồng: Sản xuất nông nghiệp của địa phương hiện nay chủ yếu ở quy mô nhỏ hộ gia đình và cây lúa đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất, đặc biệt là hiệu qủa sản xuất lúa đang có xu hướng giảm dần và thu nhập của các hộ trồng lúa thường thấp hơn nhiều so với hộ sản xuất lúa kết hợp với trồng rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, tốc độ đa dạng hóa các cây trồng của địa phương trong thời gian qua diễn ra còn chậm, đòi hỏi phải có những giải pháp tác động theo hướng cơ bản sau: - Nhóm cây rau đậu: Chọn tạo hoặc nhập nội các giống mới có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện sinh thái của từng tiểu vùng; ứng dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật, nhất là công nghệ cao vào sản xuất để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, đảm bảo được các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm; tổ chức tốt khâu tiêu thụ trong nước, từng bước tìm kiếm thị trường xuất khẩu đi đôi với đầu tư mở rộng và xây dựng mới các nhà máy chế biến rau quả. - Nhóm cây màu và cây công nghiệp hàng năm (chủ yếu là bắp và đậu nành): Khuyến khích nông dân thay đổi tập quán canh tác thông qua hỗ trợ giá giống và kỹ thuật để nông dân chuyển một phần diện tích gieo trồng lúa sang trồng màu và cây công nghiệp hàng năm ở những nơi có nguồn nước tưới hạn chế, hỗ trợ vốn tín dụng, đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp thu mua, chế biến các sản phẩm, chỉ nên mở rộng diện tích ở quy mô lớn khi có các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân. Đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp: Hướng chính là tạo sự thay đổi từ trồng trọt sang chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản thông qua phát triển mạnh các mô hình sản xuất cho hiệu quả kinh tế cao hơn như: VAC, RVAC, RC, RA… Tuy nhiên, để các mô hình này phát triển cần quy hoạch vùng chuyển đổi tập trung và đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục pháp lý để hộ chuyển mục đích sử dụng đất; hỗ trợ vốn tín dụng với thời gian và lãi suất vay phù hợp với từng mô hình sản xuất. Đa dạng hóa dịch vụ nông nghiệp: Hướng chính là đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về giống, tưới tiêu, cơ giới hóa, bảo vệ thực vật và thú y, sơ chế, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thông qua thực hiện chương trình phát triển giống cây con, chương trình phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chương trình phát triển ngành nghề và dịch vụ nông thôn. 3.2.3. Mở rộng quy mô đất sản xuất của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp, tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa Vấn đề nan giải và khó khăn nhất trong phát triển sản xuất nông nghiệp ở huyện Châu Thành hiện nay là làm thế nào để có các sản phẩm hàng hóa có chất lượng tốt cung cấp theo nhu cầu của thị trường và hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản có hiệu quả cao. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi giải quyết tốt cả hai khía cạnh là: Mở rộng quy mô đất sản xuất và tăng cường liên kết từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa giữa các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp và thủy sản trong huyện. Thứ nhất, mở rộng quy mô đất sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp. Hiện tại, hơn 98% giá trị sản xuất khu vực nông nghiệp được tạo ra bởi kinh tế hộ cá thể. Tuy nhiên, đại bộ phận các hộ có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Do đó, việc hỗ trợ để kinh tế hộ phát triển có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và được ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chế biến vừa và nhỏ, hộ kinh tế trang trại và hợp tác xã phát triển nhằm tạo động lực mới, thúc đẩy sự hình thành liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Các giải pháp cụ thể như sau: Phát triển kinh tế hộ cá thể: Mục tiêu chung là tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để hộ cá thể phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn và trình độ ngày càng cao, nhằm khắc phục tình trạng sản xuất phân tán, quy mô nhỏ lẻ. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cần hết sức chú ý đến đặc điểm của từng nhóm hộ để có chính sách tác động cho phù hợp, cụ thể: - Đối với các hộ có khả năng vốn, đất đai, lao động và kinh nghiệm sản xuất giỏi thì khuyến khích, hỗ trợ để họ tiếp tục mở rộng quy mô đất đai, phát triển sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, hình thành kinh tế trang trại; đồng thời khuyến khích các hộ trang trại lớn, làm ăn hiệu quả chuyển sang thành lập công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp để tăng tính pháp lý trong giao dịch phát triển sản xuất - kinh doanh. - Đối với các hộ nghèo, hộ khó khăn có đất nhưng thiếu kinh nghiệm sản xuất thì hướng dẫn họ cách làm ăn, trợ giúp vốn, giống để họ phát triển sản xuất thoát nghèo và vươn lên làm giàu. - Đối với những hộ ít đất thì giúp họ chuyển nhượng đất đai, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp để gia tăng thu nhập. - Thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường quyền sử dụng đất, trước mắt chính quyền địa phương sớm có các quy định để hộ có thể sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần, tham gia liên kết, liên doanh. - Bổ sung kịp thời các chính sách đền bù, tạo việc làm, ổn định đời sống của nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các công trình hạ tầng, khu công nghiệp và dịch vụ, chỉnh trang đô thị và hình thành các khu dân cư mới. Phát triển kinh tế tập thể: Trong điều kiện quy mô đất sản xuất của hộ nhỏ và trình độ sản xuất của hộ chưa cao, khả năng phát triển doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn chưa mạnh như ở huyện Châu Thành hiện nay thì phát triển kinh tế cá thể với nhiều hình thức liên kết và ở nhiều quy mô khác nhau là hướng đi phù hợp và tích cực nhất. Tuy nhiên, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển kinh tế tập thể cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như sau: - Đổi mới cách tuyên truyền, vận động giúp hộ nhận thức đúng đắn về lợi ích và vai trò của kinh tế tập thể trước yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa, đặc biệt là trước sức ép cạnh tranh về quy mô, số lượng, chất lượng và giá cả nông sản hàng hóa trên thị trường trong nước và xuất khẩu ngày một tăng. - Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý và nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ kinh tế tập thể đi đôi với các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để thu hút cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật về công tác tại hợp tác xã như một số huyện ở tỉnh An Giang đang làm. Các cán bộ về công tác tại hợp tác xã được hưởng nguyên lương và các chế độ theo quy định hiện hành, đồng thời còn được hưởng phụ cấp gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. - Tạo điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xây dựng trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất - kinh doanh của hợp tác xã . - Khuyến khích xã viên góp vốn bằng nhiều hình thức (bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất…) và tạo điều kiện cho hợp tác xã được vay vốn bình đẳng như các thành phần kinh tế khác; nghiên cứu để hợp tác xã có thể được vay vốn bằng tín chấp và bằng dự án có hiệu quả cũng như từ các chương trình, dự án quốc gia, tiến tới xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tập thể. Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp: Khuyến khích các doanh nghiệp nông nghiệp phát triển ở mọi quy mô, nhất là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp ở vùng sâu, vùng xa thông qua một số giải pháp như: Xóa bỏ triệt để mọi hình thức phân biệt đối xử, tôn vinh những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh giỏi; đơn giản hóa quy trình, thủ tục xét và cấp giấy phép hoạt động sản xuất - kinh doanh; Thực hiện trên thực tế chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như đối với doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể, trong đó, đặc biệt ưu đãi đối với doanh nghiệp đầu tư vào ngành nghề mà huyện có khối lượng hàng hóa lớn, các địa bàn khó khăn thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Thứ hai, tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, mối liên kết "Bốn nhà" (Nhà nước - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nhà nông) thông qua hợp đồng kinh tế đã bước đầu mang lại những lợi ích thiết thực, đặc biệt là gắn thị trường tiêu thụ nông sản với sản xuất nông nghiệp, gắn sản xuất với khoa học; thúc đẩy hình thành các hợp tác xã, đại diện cho nông dân ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp; thúc đẩy các hộ kinh tế trang trại phát triển theo hướng chuyên môn hóa, tạo ra các vùng sản xuất nguyên liệu ổn định về chất lượng, đảm bảo về quy mô số lượng theo yêu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ; điều hòa một phần lợi nhuận từ khâu chế biến, tiêu thụ của doanh nghiệp sang cho khâu sản xuất của nông dân, tạo thêm vốn đầu tư cho hộ mở rộng sản xuất theo hướng thâm canh chuyên môn hóa; và tạo thương hiệu nông sản trên thị trường trong nước và xuất khẩu mà lâu nay người nông dân chưa làm được. Nhưng nhìn chung, tỷ lệ nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp đồng giữa người sản xuất và doanh nghiệp ở huyện Châu Thành còn rất thấp và mới thực hiện được một số sản phẩm, đặc biệt là tình trạng phá vỡ hợp đồng đã ký kết diễn ra khá phổ biến, đòi hỏi phải có giải pháp tác động dưới đây: Đối với Nhà nước: Giữ vai trò trung tâm điều hoà các mối quan hệ giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản thông qua một số nội dung cụ thể: - Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và lập dự án đầu tư các vùng sản xuất nguyên liệu kèm theo chính sách khuyến khích để thu hút các doanh nghiệp tham gia vào tiêu thụ nông sản hàng hóa và tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tín dụng tiến hành cho vay vốn theo các quy định, trong đó một số công việc cụ thể trước mắt cần được tập trung thực hiện gồm: Rà soát, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội để làm cơ sở cho huyện xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn; xác định các cây, con chủ lực có lợi thế phát triển, xây dựng danh mục các chương trình, các dự án trọng điểm cần được ưu tiên đầu tư trong giai đoạn từ nay đến năm 2010; điều chỉnh quy hoạch và thiết kế hệ thống các công trình hạ tầng, nhất là các công trình thủy lợi và giao thông cho phù hợp với yêu cầu sản xuất mới. - Hoàn thiện các chế tài trong việc thực hiện hợp đồng giữa nhà nông với các nhà trong đó quy định rõ quyền lợi vật chất của các bên tham gia hợp đồng; nhân rộng các mô hình liên kết hiệu quả và giúp nông dân nâng cao trình độ hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện hợp đồng. - Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng thương hiệu, tổ chức hệ thống thu mua và tiêu thụ nông sản, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, gây biến động giá cả và làm thiệt hại đến lợi ích của cả người sản xuất, chế biến và tiêu dùng. - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc quảng bá hàng hóa, trước hết là phát triển hệ thống thông tin thị trường, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về quản lý chất lượng nông sản hàng hóa theo yêu cầu của thị trường. - Củng cố và tăng cường năng lực hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại từ tỉnh xuống địa phương. Chú trọng mở rộng thị trường xuất khẩu đi đôi với khai thác có hiệu quả thị trường nội địa. - Nghiên cứu và ban hành cơ chế giúp các hiệp hội, tổ chức chính trị xã hội có thể làm trung gian tham gia vào quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản của hộ. - Tăng cường vai trò của các cấp chính quyền trong việc điều chỉnh, xử lý kịp thời những bất cập, tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. - Hỗ trợ đầu tư nâng cấp các chợ hiện có và phát triển thêm các chợ buôn bán nông sản hàng hóa, nhất là các chợ đầu mối kết hợp với xây dựng các kho chứa đạt tiêu chuẩn để nông dân và thương lái có thể gửi hàng hóa nông sản. Tổ chức các phòng trưng bày, giao dịch tiêu thụ nông sản ở các đô thị lớn. - Phát triển các cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở các địa phương để thu hút nguồn nguyên liệu, hình thành các vùng sản xuất tập trung. Thúc đẩy các thị tứ, thị trấn và các cụm dịch vụ ở nông thôn phát triển nhằm góp phần nâng cao khả năng giao dịch, tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đối với Nhà doanh nghiệp: Bao gồm cả doanh nghiệp công nghiệp chế biến, dịch vụ, ngân hàng và các quỹ tín dụng. Các doanh nghiệp này giữ vai trò hạt nhân trong mối liên kết giữa các nhà. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, cần tập trung vào một số nội dung sau: - Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý và chính sách để thúc đẩy các doanh nghiệp đa dạng hóa các hình thức ký kết hợp đồng theo hướng gia tăng trách nhiệm cộng đồng và gắn kết lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với nông dân, như hình thức ứng trước vốn, giống, vật tư, phân bón, hỗ trợ kỹ thuật và mua lại nông sản theo giá cả thống nhất ghi trong hợp đồng hoặc bán vật tư trả chậm và mua lại nông sản theo giá thỏa thuận; hoặc các hình thức liên kết cao hơn như nông dân góp vốn bằng đất hoặc cho doanh nghiệp thuê đất rồi sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp. - Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại, các quỹ hỗ trợ phát triển, các tổ chức tín dụng theo hướng thực hiện liên kết tay ba giữa Doanh nghiệp - Tổ chức tín dụng - Nông dân trong việc cho nông dân vay vốn sản xuất để giảm bớt các thủ tục vay vốn còn đang bất cập. Đối với Nhà khoa học: Bao gồm các tổ chức và các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Theo đó, Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách để thúc đẩy các nhà khoa học quan tâm hỗ trợ nhà nông về huấn luyện tay nghề, đào tạo, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua các hình thức ký kết hợp đồng trực tiếp với hộ nông dân hoặc ký kết hợp đồng tay ba với doanh nghiệp và hộ nông dân. Đối với Nhà nông: Bao gồm kinh tế hộ, kinh tế trang trại và kinh tế tập thể. Nhà nước thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức của nhà nông về vai trò và trách nhiệm của họ trong việc thực thi hợp đồng kinh tế, đồng thời tăng cường củng cố và phát triển mạnh kinh tế tập thể để các tổ chức này đại diện cho hộ xã viên đứng ra ký kết hợp đồng, vừa tạo thuận lợi cho việc hình thành các vùng sản xuất tập trung, vừa giảm đầu mối ký kết hợp đồng cho các doanh nghiệp và tăng vai trò tự quản trong việc thực hiện hợp đồng; phát triển kinh tế trang trại làm hạt nhân hỗ trợ cho hộ vệ tinh trong việc thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản. 3.2.4. Tạo vốn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Tăng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế để đảm bảo vốn cho phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vốn sản xuất của hộ nông dân để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở huyện là một yêu cầu cấp thiết, nhất là trong điều kiện khả năng khai thác tiềm năng tự nhiên để mở rộng quy mô sản xuất và lợi thế về nguồn lao động với giá rẻ của địa phương đang giảm dần. Trong những năm qua, vốn đầu tư cho nông nghiệp của địa phương chủ yếu được huy động từ ngân sách nhà nước, vốn của hộ gia đình nông dân và vốn tín dụng. Trong những năm tới, ngoài việc tiếp tục tăng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, kể cả ngân sách Trung ương, tỉnh và địa phương, cần đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, nhất là từ khu vực dân doanh bằng giải pháp chủ yếu sau: - Mở rộng nguồn vốn đầu tư tín dụng từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn thông qua việc tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, đưa hệ thống tín dụng khu vực nông thôn hoạt động theo cơ chế thị trường, không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, tiến hành cho vay theo dự án đầu tư, từng bước giảm dần tín dụng ưu đãi, tăng tín dụng với lãi suất linh hoạt theo diễn biến của thị trường. - Có cơ chế để các tổ chức chính trị - xã hội làm trung gian tín dụng, vì các tổ chức này không chỉ tổ chức cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, mà còn giúp các hộ vay vốn về kinh nghiệm và kiến thức sản xuất kinh doanh. - Thúc đẩy mở rộng hình thức liên kết tay ba giữa “Doanh nghiệp - Tổ chức tín dụng - Nông dân” trong việc cho nông dân vay vốn sản xuất nhằm giảm bớt các thủ tục vay vốn còn đang bất cập. - Tổ chức tốt mạng lưới cho vay ngay tại khu vực dân cư, chú trọng những nơi kinh tế phát triển, nhất là ở thị trấn, các khu trung tâm xã để bảo đảm việc cho vay, thanh toán và hướng dẫn sử dụng vốn thuận lợi và hiệu quả. - Tạo lập môi trường để thúc đẩy các tổ chức tín dụng chủ động tiếp cận khách hàng, đổi mới phong cách phục vụ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của nông dân, nhất là vào các thời điểm bắt đầu vụ sản xuất và thu hoạch cao điểm. - Tạo điều kiện đa dạng hóa các hình thức cho vay, trong đó chú trọng mở rộng các hình thức cho vay không phải thế chấp, tăng vốn vay trung hạn và dài hạn với lãi suất thấp và thời gian phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp của từng loại cây trồng, vật nuôi. - Thực hiện chính sách cho vay theo nhóm đối tượng ngành nghề, trong đó ưu tiên cho các nhóm ngành nghề mà huyện có chủ trương khuyến khích phát triển, nhất là các cây trồng, vật nuôi nằm trong các vùng dự án phát triển nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu. - Tạo khung khổ pháp lý, chính sách để các tổ chức tài chính - tín dụng mở rộng tài trợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại trong nông nghiệp, nông thôn dưới hình thức cho thuê tài chính nhằm giảm bớt khó khăn về tài sản thế chấp, khuyến khích người vay đầu tư máy móc và công nghệ tiên tiến, đồng thời hạn chế rủi ro đối với người cho vay. - Khuyến khích nông dân tiêu dùng tiết kiệm, tăng tích lũy vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp thông qua thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án hỗ trợ nông dân nâng cao thu nhập, nhất là đối với các hộ nghèo. - Khuyến khích các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản cho nông dân theo phương thức ứng vốn trước, thu hồi sản phẩm sau; từng bước mở rộng hình thức liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp với nông dân thông qua các hình thức góp vốn bằng đất hoặc cho doanh nghiệp thuê đất và hợp đồng sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp. - Thực hiện có hiệu quả phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong việc đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn để tăng khả năng huy động vốn trong dân. - Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. - Các ngành và các xã, thị trấn sớm tiến hành lập các dự án đầu tư xây dựng các tiểu vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi, nhất là các tiểu vùng sản xuất nguyên liệu chế biến. - Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục quản lý đầu tư, nhất là thủ tục cấp và giao đất; giảm tiền thuê đất và miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cao hơn so với các lĩnh vực khác. - Tăng cường liên kết, liên doanh giữa các huyện trong tỉnh và với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đầu tư phát triển nông nghiệp. Tăng cường xúc tiến các chương trình hợp tác và tranh thủ các nguồn đầu tư, kể cả nguồn vốn tài trợ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thông qua một số giải pháp cơ bản sau đây: - Sớm xây dựng danh mục các chương trình, dự án kêu gọi đầu tư có tính khả thi cao kèm theo hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư cụ thể. Các lĩnh vực ưu tiên kêu gọi đầu tư, bao gồm: Phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi, sản xuất và cung ứng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và công nghiệp chế biến. - Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư, vì các huyện trong tỉnh An Giang có tiềm năng và lợi thế gần như giống nhau, nếu như từng huyện nỗ lực vận động, xúc tiến đầu tư thì hiệu quả mang lại sẽ không cao, mà cần phải có sự liên kết, hợp tác xây dựng, quảng bá sâu rộng hình ảnh chung về môi trường đầu tư của toàn tỉnh và từng lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư. - Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, tạo sự thống nhất, đồng bộ từ Trung ương, tỉnh và xuống địa phương. - Chú trọng công tác cán bộ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư và nhu cầu sử dụng lực lượng lao động có tay nghề của các doanh nghiệp. Đổi mới cơ cấu vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới cơ cấu vốn đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp từ nguồn ngân sách nhà nước, tăng dần tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp từ hệ thống tín dụng và các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư bằng các giải pháp cụ thể sau: - Đối với ngân sách nhà nước: Rà soát, loại bỏ các công trình dự kiến đầu tư kém hiệu quả, tập trung đầu tư cho các công trình mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao và các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế ít tham gia đầu tư như: Đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến, kho chứa, các chợ trung tâm buôn bán nông sản và cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn (thủy lợi, giao thông, điện) đối với các vùng chuyển đổi cơ cấu sản xuất, vùng sản xuất tập trung, vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Đầu tư hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, khuyến nông, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, mua sắm máy móc phục vụ cơ giới hoá để nâng cao năng suất lao động và chất lượng nông sản, trong đó ưu tiên cho lĩnh vực chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất và cung ứng giống, công nghệ thu hoạch, sau thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản. - Đối với hộ gia đình và kinh tế tập thể: Vốn đầu tư từ khu vực hộ gia đình và kinh tế tập thể trong thời gian qua chủ yếu tập trung cho chi phí sản xuất hàng năm. Hướng tới, khuyến khích hộ gia đình và các hợp tác xã tăng đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp và sơ chế nông sản hàng hóa; tham gia đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác các công trình cung cấp điện, giao thông, thủy lợi ở quy mô vừa và nhỏ phù hợp với năng lực tổ chức và trình độ quản lý; hỗ trợ hộ gia đình và hợp tác xã xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh có tính khả thi cao, phù hợp với khả năng vốn và trình độ quản lý vốn; nâng cao trình độ quản lý sản xuất - kinh doanh và nghiệp vụ quản lý vốn cho cán bộ hợp tác xã và chủ hộ; tăng cường hoạt động tín dụng trong hợp tác xã để huy động vốn nhàn rỗi của xã viên cho đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp; khuyến khích các hộ có quy mô sản xuất lớn, có đủ năng lực về vốn thành lập doanh nghiệp, các hộ còn lại hùn vốn vào hợp tác xã để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lực lượng lao động phổ thông đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp Ưu tiên đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao kiến thức nông nghiệp và kỹ năng lao động cho nông dân, nhằm đáp ứng mục tiêu của huyện đến năm 2010 có 30% lao động qua đào tạo, trong đó có 20% lực lượng lao động được đào tạo nghề [33, tr.5]. Đi đôi với tăng cường đầu tư cho giáo dục để nâng cao trình độ văn hóa, tạo tiền đề cho nông dân học tập nâng cao kiến thức nông nghiệp và kỹ năng lao động, công tác đào tạo trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp sau: - Đa dạng hóa ngành nghề và hình thức đào tạo phù hợp với trình độ của đối tượng đào tạo và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hội nhập trên cơ sở: (1) Tăng cường mở các lớp tập huấn, các lớp khuyến nông, khuyến ngư và các hình thức đào tạo khác để đào tạo tay nghề cho nông dân, nhất là về kỹ năng chế biến và bảo quản sản phẩm, cơ giới hóa nông nghiệp, thú y, bảo vệ thực vật, kiến thức quản lý sản xuất - kinh doanh nông nghiệp; (2) Xây dựng kế hoạch đào tạo đồng bộ từ công nhân kỹ thuật bán lành nghề, đến công nhân kỹ thuật lành nghề và công nhân có kỹ năng sản xuất nông nghiệp cao, nhằm đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các trang trại và các doanh nghiệp; (3) Chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, trước hết là cán bộ hợp tác xã, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. - Địa phương cần xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp, trong đó xác định số lượng lao động, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ cần đào tạo; đào tạo theo hướng gắn lý thuyết với thực tiễn; tăng vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp đào tạo đồng bộ từ cấp huyện đến cụm xã từ ngân sách nhà nước, trong đó chú trọng xây dựng các trung tâm dạy nghề; có chính sách hỗ trợ theo đối tượng ngành nghề và chú trọng đối với các ngành hàng chủ lực, vùng sâu, vùng xa và hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc; có chính sách khuyến khích và đãi ngộ thỏa đáng để thu hút đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ và kinh nghiệm tham gia vào công tác đào tạo nghề cho nông dân trong huyện. - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cho phát triển đào tạo và dạy nghề cho nông dân, trong đó ưu tiên cho lĩnh vực đào tạo kỹ năng sản xuất nông, ngư nghiệp, chế biến và kinh doanh nông nghiệp. - Triển khai có hiệu quả chương trình hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho nông dân và con em của họ có nhu cầu tham gia vào các lớp học nghề. 3.2.6. Đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp, mở rộng ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp Thứ nhất, tăng cường cơ giới hóa nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và giảm bớt nhu cầu lao động lúc thời vụ căng thẳng, nhất là đối với các vùng sản xuất lúa tập trung. Cần tiếp tục đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, trong đó chú trọng vào các khâu sử dụng nhiều lao động sống và có tỷ lệ cơ giới hóa còn thấp như gieo sạ, thu hoạch, phơi sấy bằng các giải pháp cơ bản sau: - Hỗ trợ tín dụng cho các hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác, chủ trang trại mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ nhu cầu cơ giới hóa của hộ, đồng thời làm dịch vụ cho các hộ khác trong vùng. - Khuyến khích các cơ sở kinh doanh máy móc nông nghiệp mở rộng các hình thức bán trả góp hoặc cho thuê thông qua chính sách tín dụng và thuế. - Chú trọng đầu tư cải tạo mặt bằng đồng ruộng, mở rộng quy mô đất sản xuất hình thành các vùng sản xuất tập trung đi đôi với phát triển hệ thống giao thông vận chuyển để tạo thuận lợi cho việc đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng. Thứ hai, mở rộng ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp ở huyện Châu Thành hiện nay, nếu như vốn được xem là yếu tố quan trọng nhất để các thành phần kinh tế thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tạo thêm việc làm, gia tăng thu nhập, thì yếu tố khoa học và công nghệ được xem là động lực thúc đẩy việc tăng năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài nguyên, thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh theo hướng CNH, HĐH, nâng cao trình độ kiến thức cho nông dân và giảm bớt những rủi ro trong sản xuất do thiếu hiểu biết gây ra. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, để khoa học và công nghệ phát huy hiệu quả cần tập trung vào cả ba khâu là nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng vào sản xuất. Cụ thể như sau: Một là, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ gắn với yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của huyện, trong đó tập trung cho một số lĩnh vực cơ bản như sau: - Về giống và công nghệ sinh học: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vi sinh vào các lĩnh vực: Chọn, tạo và nhân giống cây trồng, vật nuôi có khả năng kháng được nhiều loại sâu, bệnh để giảm sử dụng các loại nông dược và thích nghi với điều kiện ngoại cảnh, đồng thời có năng suất và chất lượng sản phẩm cao; nghiên cứu các chế phẩm phân bón, nông dược, thức ăn chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, sản xuất theo hướng công nghiệp, an toàn thực phẩm và môi trường; các phương pháp kỹ thuật chuẩn đoán nhanh, chính xác về sâu, bệnh, dịch hại, dư lượng thuốc và hóa chất trong nông sản hàng hóa. - Về cơ giới hóa nông nghiệp: Tập trung vào nghiên cứu các loại máy móc phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp có giá thành hạ, công nghệ phù hợp với đặc điểm và quy mô sản xuất, trình độ quản lý và khả năng đầu tư của nông hộ, trong đó ưu tiên cho nghiên cứu các loại máy móc phục vụ khâu gieo sạ, thu hoạch, phơi sấy và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. - Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và triển khai đối với lĩnh vực nông nghiệp. Hai là, đổi mới hoạt động khuyến nông, nâng cao kiến thức và khả năng tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Mặc dù, hoạt động khuyến nông của huyện trong thời gian qua đã được củng cố và tăng cường cả về mặt tổ chức, cơ chế quản lý và phương thức hoạt động nhưng vẫn còn những hạn chế như: Lực lượng khuyến nông còn mỏng, nhất là khuyến nông ở cơ sở, nội dung hoạt động còn hạn hẹp, phương pháp tiếp cận chưa phù hợp và hình thức hoạt động thiếu đa dạng. - Hoàn thiện công tác khuyến nông của huyện bằng một số giải pháp như sau: (1) Khuyến khích mọi thành phần trong xã hội tham gia vào hoạt động khuyến nông. (2) Đối với khuyến nông Nhà nước: Tăng cường hệ thống khuyến nông từ huyện xuống cơ sở, xây dựng lực lượng cán bộ khuyến nông đủ về số lượng (mỗi xã có ít nhất 01 đến 02 cán bộ khuyến nông vào năm 2010) và giỏi về kỹ năng chuyển giao; tích cực phối hợp giữa cơ quan khuyến nông với cơ quan nghiên cứu và đào tạo; tăng kinh phí hàng năm từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động khuyến nông. (3) Đối với tổ chức đoàn thể: Có cơ chế, chính sách để gắn các hoạt động khuyến nông với các chương trình, kế hoạch hoạt động của các tổ chức đoàn thể, nhất là hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân và hội cựu chiến binh. (4) Đối với các doanh nghiệp: Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh vật tư nông nghiệp, chế biến nông sản tham gia vào hoạt động khuyến nông thông qua chương trình quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, đầu tư vùng nguyên liệu. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phát huy vai trò trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nông dân và doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc nông nghiệp, đồng thời là người tư vấn về khoa học và công nghệ cho người vay vốn nhằm đảm bảo an toàn về vốn. (5) Đối với nông dân: Nông dân vừa là đối tượng hưởng lợi, vừa là đối tượng tham gia vào quá trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật theo hình thức lan rộng, do đó cần khuyến khích nông dân tham gia vào mạng lưới tuyên truyền viên khuyến nông tự nguyện ở cơ sở. (6) Đa dạng hóa nội dung và đổi mới phương pháp khuyến nông nhằm tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu và áp dụng thành công tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật chuyển giao cho nông dân phải phù hợp với trình độ dân trí, khả năng kinh tế và điều kiện sinh thái của từng địa phương. Để làm được điều này nên phân loại trình độ của đối tượng tham gia thành các nhóm hộ khác nhau, sau đó khuyến khích các nhóm hộ hình thành các câu lạc bộ hay hiệp hội những người cùng nguyện vọng, sở thích. Với sự tương đồng về trình độ, điều kiện kinh tế và cùng nguyện vọng, sở thích, khi gặp nhau sẽ dễ dàng trao đổi, tiếp thu và học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Khơi dậy tâm tư, nguyện vọng về học tập cũng như tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất của hộ, từ đó lựa chọn chủ đề tập huấn, nội dung trao đổi phù hợp. Có như vậy mới lôi cuốn được họ tích cực tham gia. - Đào tạo, lựa chọn được đội ngũ giáo viên, tuyên truyền viên khuyến nông giỏi. Họ thực sự phải là những chuyên gia có kinh nghiệm và khả năng giải đáp từng chủ đề, có kỹ năng và phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng nông dân có đặc điểm và trình độ khác nhau. - Tài liệu phục vụ cho tuyên truyền viên khuyến nông cơ sở và học viên phải hết sức ngắn gọn, dễ hiểu và tiện lợi trong quá trình sử dụng và lưu giữ. Ba là, khuyến khích nông dân tích cực ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất với quy mô lớn để tạo thuận lợi cho việc đưa tiến bộ kỹ thuật vào tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp. Từ thực tiễn cho thấy, với tình trạng đất sản xuất phân tán, quy mô nhỏ lẻ ở hộ gia đình như hiện nay của huyện, khó có thể đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật về giống để tạo ra khối lượng nông sản có phẩm chất đồng nhất cũng như đưa cơ giới vào sản xuất để giảm chi phí, đặc biệt là việc tưới tiêu, kiểm soát dịch bệnh và chất thải trong sản xuất hết sức khó khăn. Vì vậy, thúc đẩy tích tụ đất đai, tăng cường liên kết trong sản xuất bằng các hình thức phù hợp được xem là giải pháp quan trọng để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Phát huy vai trò đầu tàu trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh tế trang trại. Các doanh nghiệp, các hộ kinh tế trang trại trong huyện không chỉ là đơn vị đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, mà còn là hạt nhân quan trọng thu hút các hộ trong huyện cùng thực hiện thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Các hợp tác xã sẽ là đầu mối liên kết các hộ xã viên trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất thông qua các hoạt động dịch vụ của hợp tác xã. Tăng cường chính sách khuyến khích và hỗ trợ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhất là các hộ nghèo và hộ đồng bào dân tộc. - Về giống và công nghệ sinh học: Thực hiện chương trình trợ giá giống và hỗ trợ vật tư đối với các mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng nông sản hàng hóa. - Về cơ giới hóa nông nghiệp: Hỗ trợ vốn tín dụng để nông dân đầu tư các loại máy móc nông nghiệp; khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh máy nông nghiệp áp dụng phương thức bán trả chậm; tăng cường quản lý nhà nước về tiêu chuẩn chất lượng, quy trình công nghệ và kỹ thuật cơ giới hóa nông nghiệp. - Về thuỷ lợi hóa nông nghiệp: Miễn, giảm thuỷ lợi phí đối với hộ nằm trong các vùng dự án đầu tư, hộ ở vùng sâu, vùng xa; mở rộng hình thức khoán quản lý vận hành, khai thác, duy tu, bảo dưỡng các công trình thủy lợi có quy mô thích hợp cho các tổ chức và cá nhân để nâng cao hiệu quả công trình. - Về điện khí hóa nông nghiệp: Hỗ trợ nông dân đầu tư hệ thống điện phục vụ sản xuất bằng nguồn vốn ứng trước của ngành điện hoặc nguồn vốn tín dụng; trợ giá điện cho nông dân trong các vùng dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng như vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, nhất là vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc. - Về ứng dụng quy trình canh tác nông nghiệp tiên tiến: Hỗ trợ nông dân thay đổi tập quán canh tác, tư duy sản xuất cũ để nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa thông qua các dự án đầu tư vùng nguyên liệu; mở rộng hình thức liên kết sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân. 3.2.7. Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn Tăng cường đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn, bao gồm hệ thống điện, đường giao thông, chợ (chợ đầu mối), hệ thống kho chứa, hệ thống thuỷ lợi… - Đối với hệ thống thuỷ lợi: Hoàn thiện công tác phân vùng phát triển thủy lợi; tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các công trình kiểm soát lũ theo phương châm “sống chung với lũ”, tránh gây tác động xấu về môi trường; xây dựng các công trình phù hợp với đặc điểm tự nhiên và yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của từng tiểu vùng và phân khu phát triển thủy lợi, trong đó ưu tiên cho cải tạo và xây mới các công trình thủy lợi đối với các khu vực nuôi trồng thủy sản, bảo đảm cách ly được nguồn nước cấp và nguồn nước thải đã bị ô nhiễm ra khỏi vùng sản xuất; hoàn thiện quy trình tưới, kiên cố hóa hệ thống kênh mương nội đồng và các cống đầu kênh, tăng đầu tư cho hệ thống trạm bơm điện vừa và nhỏ, nhằm sử dụng tiết kiệm nguồn nước tưới và giảm chi phí tưới để hạ giá thành sản phẩm. - Đối với hệ thống điện: Phát triển đồng bộ mạng lưới truyền tải điện gắn với các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung để tạo thuận lợi đưa máy móc, thiết bị cơ khí vào phục vụ sản xuất, giảm tổn thất điện trong quá trình sử dụng. - Đối với hệ thống chợ: Tiếp tục phát triển mạng lưới chợ cả về số lượng và chất lượng. Xu hướng đến năm 2015 sẽ có từ 1-2 chợ/xã, trong đó 01 chợ loại I với quy mô đủ sức đáp ứng nhu cầu về hàng hóa cho địa bàn và góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Tiếp tục hoàn thành các dự án chuyển tiếp các chợ Tân Phú, Vĩnh Nhuận, Kênh Đào. Thực hiện nâng cấp các chợ Hòa Hưng, Vĩnh Lợi. Đầu tư mở rộng chợ Cần Đăng, Vĩnh Bình, Tân Thành, Bình Thạnh, Kinh Quít. Định hình các chợ đầu mối về lúa gạo ở xã Vĩnh Bình. Ngoài ra, định hướng quy hoạch khu vực thu mua, xay xát gạo của huyện ở xã Vĩnh Bình để đáp ứng cho nhu cầu buôn bán, kinh doanh mặt hàng lúa gạo ở khu vực các xã Tân Phú, Vĩnh Nhuận, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thành và khu vực lân cận tiếp giáp với huyện Thoại Sơn. - Đối với hệ thống giao thông: Huy động tối đa mọi nguồn lực, tăng cường phối hợp giữa Nhà nước và nhân dân để thực hiện hoàn chỉnh các tuyến đường liên huyện, các tuyến đường nối với Tỉnh lộ, Quốc lộ tạo thành một mạng giao thông liên hoàn, thông suốt đảm bảo ôtô đến được trung tâm xã. Kết hợp với thủy lợi mở đường đảm bảo tiêu chuẩn mặt đường rộng 5-7m. Các tuyến đường liên xã, liên ấp có mặt đường rộng từ 3-5m, đảm bảo xe tải 3-5 tấn lưu thông dễ dàng, tỷ lệ mặt đường nhựa đạt trên 50%, góp phần tạo điều kiện cho lưu thông và vận chuyển hàng hóa được thuận tiện, dễ dàng, kích thích kinh tế phát triển. Nâng cấp và nhựa hóa tuyến đường kênh Bốn Tổng đi qua Cần Đăng – Vĩnh Hanh – Bình Hòa – Hòa Bình Thạnh – Vĩnh Lợi – Vĩnh Thành để rút ngắn khoảng cách giữa huyện và thành phố Long Xuyên, đồng thời kết nối với đường cao tốc Cần Thơ – Phnôm Pênh. Bảng 3.2: Phân kỳ nguồn vốn và danh mục đầu tư phần mặt đường ở huyện Châu Thành giai đoạn 2008 – 2010 TT Danh mục công trình Chiều dài (Km) Đơn giá (1000 đ) Thành tiền (1000 đ) 1 Năm 2008 1. Vĩnh Thành-Vĩnh Nhuận-Tân Phú 2. Vĩnh Nhuận-Vĩnh Hanh-Bình Chánh 3. Cần Đăng-HBT-Vĩnh Lợi-Vĩnh Thành 4. An Hòa-Cần Đăng 25,38 10 1 12,5 1,88 525.000 525.000 525.000 525.000 13.324.500 5.250.000 525.000 6.562.500 987.000 2 Năm 2009 1.Tuyến kênh Chà Và 2. Kênh số 4 – Kênh phèn 3. Kênh 10 21,16 0,99 8,3 11,87 525.000 525.000 525.000 11.109.000 519.750 4.357.500 6.231.750 3 Năm 2010 1. An Hòa-Cần Đăng-Bình Chánh 28,00 7,50 525.000 14.700.000 3.937.000 2. Vĩnh Lợi-Vĩnh Nhuận-Tân Phú 20,50 525.000 10.762.500 Tổng 103,94 52.767.750 Nguồn: Đề án phát triển giao thông nông thôn huyện Châu Thành giai đoạn 2006 – 2010. - Đối với hệ thống kho chứa: Xây dựng các kho chứa, tổng kho, trạm trung chuyển hàng hóa quy mô lớn tại xã Bình Hòa phía Quốc lộ 91 để phục vụ việc giao nhận hàng hóa cho khu công nghiệp tại ngã ba Lộ Tẻ và việc xuất khẩu hàng hóa bằng đường bộ và đường thủy. Quy hoạch này sẽ tận dụng lợi thế của đường vành đai thành phố Long Xuyên nối vào huyện Châu Thành. 3.2.8. Khuyến khích phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn Hoạt động ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn của huyện khá đa dạng, bao gồm: Chế biến hàng nông sản, cơ khí, sửa chữa, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, dịch vụ cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên, các ngành nghề này hiện tại phát triển còn chậm, quy mô sản xuất nhỏ và chất lượng sản phẩm không cao, chủ yếu tiêu dùng trong nước. Để thúc đẩy ngành nghề và dịch vụ nông thôn phát triển, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như: Xúc tiến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngành nghề nông thôn; khôi phục các làng nghề truyền thống và phát triển các làng nghề mới; hỗ trợ vốn tín dụng để hộ ngành nghề nông thôn đổi mới trang thiết bị và công nghệ; hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân để tạo cơ hội cho họ tìm kiếm việc làm hoặc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nghề mới; có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế đối với hộ phát triển ngành nghề. Tiếp tục phát triển các cơ sở kinh doanh, hộ gia đình cả về số lượng, chất lượng. Về mặt số lượng phấn đấu tăng trưởng 25% trong giai đoạn 2008 – 2015, tương ứng tăng mới khoảng 1100 cơ sở lớn và nhỏ, giải quyết thêm khoảng 5.500 lao động. Về mặt chất lượng, tiếp tục thúc đẩy 20% trong số các cơ sở, hộ kinh doanh chuyển đổi lên hình thức doanh nghiệp, công ty. Duy trì thương mại đối với các sản phẩm, lĩnh vực dịch vụ truyền thống như sản xuất nước tương (thị trấn An Châu), đóng xuồng ghe trên địa bàn ấp Bình An 2 (xã An Hòa). Tiếp tục phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp mà huyện đã có thế mạnh như gạch nung, mùng mền, bẫy chuột, rèn, máy nông nghiệp cho thị trường xuất khẩu là Campuchia. Coi đây là nền tảng để phát triển, mở rộng sang các thị trường xuất khẩu lân cận trong khu vực. Xây dựng quy hoạch cụm làng nghề làm gạch ở xã Hòa Bình Thạnh, vì khu vực này có thổ nhưỡng phù hợp làm nguyên liệu cho sản xuất gạch, đảm bảo không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH - HĐH đất nước trong thế kỷ XXI. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, gia tăng thu nhập cho nông dân là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện Châu Thành. Quá trình đó đòi hỏi được làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với tinh thần đó, luận văn đã đạt được một số kết quả chủ yếu như sau: Một là, đã hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện như quan niệm, nội dung, yêu cầu đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện; các yếu tố tác động và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện; kinh nghiệm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số địa phương trong nước, quốc tế và bài học rút ra cho huyện Châu Thành. Hai là, trên cơ sở khung lý thuyết đã được xây dựng, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành giai đoạn 1995 – 2007, rút ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. Ba là, từ những căn cứ lý thuyết, những phân tích, đánh giá về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, những dự báo về thuận lợi và khó khăn cũng như định hướng phát triển nông nghiệp của huyện trong thời gian tới, luận văn đã đề xuất phương hướng và 08 nhóm giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2015. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành bao hàm nhiều nội dung liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đồng thời kết quả chuyển dịch phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách của Nhà nước. Do đó, luận văn kiến nghị một số nội dung cụ thể sau: Thứ nhất, trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh An Giang cần xác định rõ các chương trình, các dự án trọng điểm ưu tiên đầu tư phục vụ yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tăng cường chỉ đạo các Sở và ban, ngành trong tỉnh trong các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, đồng thời có cơ chế, chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó khâu đột phá là đầu tư phát triển giáo dục để nâng cao dân trí và đào tạo nghề cho nông dân; nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là giao thông bộ. Thứ ba, Nhà nước cần tập trung đổi mới chính sách đất đai, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng và chính sách tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo điều kiện cho kinh tế hộ mở rộng quy mô đất sản xuất, khuyến khích phát triển nhanh các trang trại, các hợp tác xã, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn. Thứ tư, Nhà nước tăng cường đầu tư, đồng thời tạo môi trường pháp lý để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cùng tham gia phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, bao gồm: Chợ đầu mối và kho chứa nông sản hàng hóa ở các trung tâm tiểu vùng cũng như các nhà máy chế biến nông sản có quy mô lớn, trang bị công nghệ hiện đại. Thứ năm, trong công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, cần tập trung đầu tư hơn nữa cho công tác giống, cơ giới hóa, phòng chống dịch bệnh và ứng dụng quy trình canh tác nông nghiệp tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản hàng hóa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001 - 2005 các tỉnh ĐBSCL, Hà Nội. 3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn 5 năm 2006 - 2010 của cả nước, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, kèm theo Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005. 5. Trần Ngọc Bút (2002), Chính sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ và một số định hướng đến năm 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Bài Chí Bưu (2004), Một số giải pháp trong sản xuất lúa gạo chất lượng cao, phục vụ xuất khẩu ở ĐBSCL, Hội thảo khoa học vì sự phát triển vùng ĐBSCL tại Cần Thơ, 11/2004. 7. Nguyễn Thị Cành (2004), Các mô hình tăng trưởng và dự báo kinh tế - lý thuyết và thực nghiệm, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Mình. 8. Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm (1995), Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), Nxb Thống kê, Hà Nội. 10. Cục Thống kê tỉnh An Giang (1996), Niên giám Thống kê huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. 11. Cục Thống kê tỉnh Đồng Tháp (2000), Niên giám Thống kê năm 2000. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, http.//www.cpv.org.vn. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Bùi Huy Đáp (1983), Về cơ cấu nông nghiệp Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế Nông nghiệp - Lý luận và thực tiễn, Nxb Thống kê, TP. Hồ Chí Minh. 17. Lâm Quang Huyên (2002), Nông nghiệp, nông thôn Nam bộ hướng tới thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Nguyễn Văn Luân (2000), Kinh tế học vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà Nội. 19. Lê Huy Ngọ (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Trần An Phong (1995), Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở ĐBSCL, Hội thảo khoa học vì sự phát triển ĐBSCL tại Cần Thơ, 1/11/2004. 22. Đặng Kim Sơn - Hoàng Thu Hoà (2002), Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội. 23. Nhung Điện Tân (2003), "Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp Trung Quốc và hướng đi trong tương lai", Tạp chí Khoa học xã hội, (59). 24. Nguyễn Quốc Tế (2003), Vấn đề phân bổ, sử dụng nguồn lao động theo vùng và hướng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội. 25. Nguyễn Văn Thạo, "Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở An Giang", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2). 26. Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vốn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 27. Bùi Tất Thắng (1994), Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá của NIEs Đông Nam Á và Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Bùi Tất Thắng (1996), Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá của Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 29. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Đào Công Tiến (2003), Nông nghiệp, nông thôn - Những cảm nhận và đề xuất, Nxb Nông nghiệp, TP. HCM. 31. Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế miền Nam (2000), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn vùng ĐBSCL, Tp. Hồ Chí Minh. 32. Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Châu Thành giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020. 33. Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành (2005), Đề án đào tạo nghề và giải quyết việc làm huyện Châu Thành giai đoạn 2005 – 2010. 34. Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Một số vấn đề lý luận, phương pháp luận, phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 35. Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Thủy sản (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng 2020, Hà Nội. 36. Ngô Doãn Vịnh (2003), Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Học hỏi và sáng tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 37. Nguyễn Phượng Vỹ (2005), Một số tình hình kinh tế trang trại sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 03/CP của Chính phủ, Hà Nội. 38. Nguyễn Phượng Vỹ (2005), Một số vấn đề rút ra sau ba năm thực hiện Quyết định số 80/QĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản qua hợp đồng, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.pdf
Luận văn liên quan