Luận văn Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay

Đào tạo nghề và tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý là một nội dung quan trọng trong kế hoạch tổng thể cai nghiện - phục hồi giai đoạn 2001 - 2010 và là nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống ma túy từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, đây là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và còn nhiều khó khăn, nhất là trong tình hình hiện nay đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp, có cả thuận lợi và khó khăn, có thời cơ vận hội và thách thức đan xen.

pdf106 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6247 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như vậy sẽ khơi dậy lòng tự hào dân tộc, quyết tâm xây dựng một xã hội lành mạnh, không có tệ nạn xã hội. Tuyên truyền về gương cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng giúp đỡ, tạo công ăn việc làm cho nhóm đối tượng xã hội này. Đồng thời, tuyên truyền giáo dục cho chính đối tượng và gia đình họ về thái độ đối với việc học nghề và việc làm, đề cao và khuyến khích tinh thần tự lực, chủ động vượt khó khăn tạo lập việc làm và kiên trì duy trì, giải quyết khó khăn trong giai đoạn đầu khi có việc làm. Bởi vì đối với đối tượng này, dành được việc làm đã khó, duy trì việc làm cũng không kém khó khăn. Cùng với tuyên truyền là giáo dục. Giáo dục cho người sau cai nghiện cần kết hợp giữa giáo dục trong trung tâm và giáo dục ngoài trung tâm. Thông qua các mô hình quản lý và sinh hoạt sau cai, các cán bộ làm công tác quản lý sau cai sẽ tác động đến người sau cai nghiện bằng các cách thức khác nhau, sự gần gũi, giúp đỡ của cán bộ sẽ giúp cho người sau cai nghiện có lòng quyết tâm đoạn tuyệt vĩnh viễn với ma tuý. Kết hợp giữa phường, xã với các trung tâm cai nghiện để cùng quản lý, giám sát đối tượng đồng thời cán bộ trung tâm sẽ tư vấn về chuyên môn cho cán bộ ở cơ sở để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Bên cạnh tuyên truyền, các hoạt động tư vấn cần được quan tâm hơn nữa. Mở rộng các dịch vụ tư vấn để mọi người nghiện và gia đình họ có thể tham khảo ý kiến của các cán bộ khi cần thiết, quảng bá rộng rãi số điện thoại của các cơ sở, các trung tâm giúp cho những người ngại tiếp xúc với cán bộ tư vấn một cách trực tiếp vẫn có thể giải đáp những thắc mắc, những băn khoăn trong quá trình tìm kiếm việc làm ổn định đời sống phòng ngừa tái nghiện. Tuyên truyền, giáo dục, tư vấn là giải pháp quan trọng trong công tác quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm phòng chống tái nghiện ma tuý đối với người sau cai, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta đang còn nhiều khó khăn vì đây là giải pháp tỏ ra ít tốn kém và khả thi hơn những giải pháp khác. 3.2.4. Nâng cao chất lượng dạy nghề, học nghề, lao động sản xuất ở trung tâm và tại cộng đồng; tổ chức cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở dạy nghề dành riêng cho đối tượng nghiện ma tuý sau khi chữa trị phục hồi Các trung tâm cần quán triệt mục tiêu lấy lao động (mà là lao động thật sự) làm phương cách trị liệu chính cho quá trình cải tạo phục hồi cơ thể và nhân cách người nghiện (kinh nghiệm công trường 06 của Tuyên Quang cũng là một điển hình đáng học tập). Hiện có tỷ lệ lớn đối tượng học nghề tại trung tâm cai nghiện, gia đình và bản thân đối tượng cũng có nguyện vọng học nghề tại các trung tâm này, đồng thời Luật phòng chống ma tuý đã qui định thời gian đối tượng tham gia chữa trị, phục hồi tại các cơ sở này từ 6 tháng đến 2 năm. Vì vậy, việc tổ chức học nghề cho diện đối tượng này tại các cơ sở chữa bệnh rất quan trọng. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm và đề án nâng cấp củng cố các cơ sở chữa bệnh cần có kế hoạch cụ thể để các cơ sở này có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, cán bộ, qui chế học nghề phù hợp với nhóm đối tượng này. Việc học nghề cần đầu tư để nâng cao thực hành, tăng thời gian học nghề so với người học nghề bình thường khác. Các trung tâm cai nghiện phải trở thành vệ tinh trong mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, trước hết là các trung tâm do ngành Lao động, Thương binh và Xã hội trực tiếp quản lý. Tăng cường quản lý nhà nước của các ngành chức năng đến hoạt động dạy nghề tại các trung tâm này. Hiện nay, quản lý nhà nước về hoạt động dạy nghề tại các cơ sở này còn bị phân tán, thiếu sự phối hợp giữa ngành dọc với các ngành chức năng, trong khi số lượng đối tượng chữa trị thường xuyên tại các cơ sở này vào khoảng hàng chục ngàn người, 70% trong số họ là thanh niên và có nhu cầu học nghề. Ngành nghề dạy phải phù hợp trình độ đối tượng và khả năng hành nghề, tìm việc làm, tạo điều kiện cho đối tượng từ bỏ tệ nạn xã hội. Nghiêm túc nghiên cứu và quy hoạch lại công tác dạy nghề tại các Trung tâm theo phương châm dạy những nghề mà xã hội cần (các nghề dịch vụ: nghề giúp việc nhà, nghề rửa xe máy, nghề vệ sĩ, nghề thám tử tư, sửa chữa nhỏ trong gia đình…) chứ không phải dạy những nghề mà Trung tâm có. Đối tượng dạy nghề nên xét theo hoàn cảnh chứ không xét theo khả năng tài chính: đối tượng lựa chọn để dạy nghề nhất thiết phải ưu tiên những người vô gia cư, những người không còn người thân, những người gia đình neo khó không có việc làm ổn định. Các địa phương cần thiết lập trung tâm làm nhiệm vụ xúc tiến tạo công ăn việc làm cho các học viên. Việc làm chủ yếu tập trung vào những công việc tạo ra sản phẩm, đào tạo tay nghề, thu hút nhiều lao động thủ công trình độ không cao. Trung tâm này đảm nhận luôn việc đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm… + Chủ yếu đầu tư dạy các nghề dịch vụ (rửa xe, cắt tóc gội đầu, may dân dụng; sửa xe gắn máy; mây tre đan; hàn, gò…). Dần dần đầu tư các hình thức dạy nghề có trình độ cao, phù hợp với trình độ ngày càng nâng cao của xã hội nói chung và của người nghiện có trình độ nói riêng. + Các nghề sản xuất ra sản phẩm phù hợp với môi trường đô thị và các vùng phụ cận để dễ tìm việc làm tại cộng đồng và có thể sinh sống được. Các địa phương cần nghiên cứu có cơ chế cho các Trung tâm cai nghiện được đỡ đầu hoặc kết nghĩa với các cơ sở dạy nghề, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu (hoa giấy, hoa lụa, tranh thêu, mây tre đan xuất khẩu). Các địa phương cần củng cố mở rộng các trường, các trung tâm dạy nghề dành cho đối tượng xã hội hiện có, phát triển hệ thống các trường đào tạo và dạy nghề. Tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động dạy nghề cho các đối tượng xã hội, trong đó có người sau cai nghiện như: ưu tiên cấp quyền sử dụng đất để xây dựng cơ sở dạy nghề hoặc cho thuê đất, thuê nhà, xưởng để mở cơ sở dạy nghề với giá ưu đãi. ưu tiên mức thuế phù hợp với hoạt động sản xuất, kết hợp thực hành nghề của các cơ sở dạy nghề. Thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng, vay vốn để mở hoặc phát triển cơ sở dạy nghề. Không thu thuế đối với những người dạy nghề tư nhân. Hỗ trợ kinh phí cho việc tổ chức, đào tạo một số nghề đặc biệt kỹ thuật cao. Mở các lớp đào tạo nghề qua doanh nghiệp, khuyến khích việc truyền nghề, tăng cường mối quan hệ hợp tác với các ngành, các trường Trung ương trong công tác dào tạo nghề mà địa phương chưa có khả năng. áp dụng cơ chế cơ sở dạy nghề có nhận người tàn tật cao hơn tỷ lệ Nhà nước qui định vay vốn để dạy nghề tạo việc làm cho người nghiện ma tuý. Hiện nay, đối tượng nghiện ma tuý không thuộc diện hưởng chính sách người tàn tật. Nhưng Tổ chức Y tế thế giới đã đưa người nghiện ma tuý là một loại trong các đối tượng tàn tật. ở Việt Nam, Nhà nước ta những năm 1960 đã có chính sách tổ chức các hợp tác xã sản xuất riêng cho đối tượng người mù, người điếc, người câm gọi là “đối tượng 202” hay các xí nghiệp 27-7 cho thương binh phát triển mạnh mẽ sau năm 1975. Nhà nước cần có chính sách đặc biệt cho đối tượng nghiện ma tuý, cho phép thành lập cơ sở sản xuất dành riêng cho người nghiện ma tuý để họ có môi trường thuận lợi trong quản lý, giáo dục, đồng hoàn cảnh để vươn lên. Các cơ sở này được thành lập theo luật doanh nghiệp và được hưởng thêm một số chính sách đặc thù như chính sách vay vốn, chính sách thuế, chính sách thuê mướn mặt bằng và được ưu tiên một phần trong tiêu thụ sản phẩm. Trước mắt, thí điểm thành lập các cơ sở sản xuất này ở tỉnh có số lượng lớn người nghiện và có thị trường việc làm rộng lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, có tỷ lệ người lao động dưới 30% là người không nghiện ma tuý để tham gia quản lý, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, giải quyết khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các cơ sở này nên được thành lập ở xã hoặc liên xã, gần nơi làm việc với gia đình. 3.2.5. Xây dựng, duy trì và hoàn thiện các mô hình quản lý và sinh hoạt sau cai; tăng cường quản lý, giám sát tại cộng đồng đối với người nghiện sau cai Nhà nước và địa phương cần nghiên cứu tăng cường vai trò của lực lượng Đoàn thanh niên trong công tác quản lý sau cai. Người nghiện sau cai cần được quan tâm chăm sóc một cách thường xuyên, các mô hình quản lý và sinh hoạt sau cai được tổ chức và thực hiện với mục đích phòng ngừa tái nghiện cho họ. Xây dựng và thực hiện các mô hình căn cứ vào đặc điểm của từng địa phương khác nhau. Đa dạng hoá các mô hình sinh hoạt, quản lý sau cai ở cấp thôn, bản cũng như ở cấp tỉnh, thành phố…ví dụ ở thôn, bản xây dựng và thực hiện các quy định về một thôn, bản không có tệ nạn ma túy trong đó quyền lợi của các trưởng thôn, trưởng bản được quy định cụ thể cùng với nhiệm vụ mà họ phải thực hiện. ở những xã phường có điều kiện, xây dựng đội thanh niên tình nguyện thực hiện các công việc xã hội như tuyên truyền phòng chống tệ nạn ma tuý, phòng chống tái nghiện ma tuý, đến từng gia đình phát các tờ rơi có nội dung làm cho mọi gia đình thấy được rằng một gia đình hạnh phúc nhất thiết phải là gia đình không có người nghiện ma tuý, mọi người quan tâm đến nhau đồng thời giúp cho từng người hiểu rõ người nghiện ma tuý ở cộng đồng có thể lôi kéo con em họ bất cứ lúc nào, từ đó họ tham gia vào phòng chống tái nghiện ma tuý, phòng chống tệ nạn ma tuý; xây dựng đội ngũ công tác xã hội gồm một số thành viên hoạt động trên tinh thần tự giác, tích cực vào công việc, được trợ cấp của tỉnh, thành phố…các thành viên trong đội luôn động viên, khích lệ đối tượng khi cần thiết, theo dõi, giám sát được những đối tượng để có những biện pháp can thiệp kịp thời. Những người tham gia vào công việc này đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức được tầm quan trọng của những việc mình làm, là những người chia sẻ, tư vấn cho người nghiện tất cả những gì mà họ thắc mắc, bế tắc đồng thời hoà đồng với họ như những người bạn thân thiết. Những mô hình đang tồn tại cần được duy trì và hoàn thiện để hoạt động ngày càng đi vào chất lượng, ví dụ mô hình câu lạc bộ B93 của thành phố Hà Nội, mô hình “tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện” của thành phố Hồ Chí Minh…Mỗi mô hình đều có những ưu và nhược điểm riêng nên luôn luôn phải tìm hiểu, đúc rút kinh nghiệm nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy ưu điểm: mô hình B93 của thành phố Hà Nội ngoài những mặt đạt được hết sức to lớn thì vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục như số hội viên tham gia sinh hoạt chưa đều, nội dung sinh hoạt do nhiều nơi còn vận dụng một cách rất máy móc, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của các hội viên, cán bộ chủ nhiệm các câu lạc bộ nhiều khi không biết được hội viên của mình đã tái nghiện từ bao giờ, chưa có mối quan hệ chặt chẽ giữa câu lạc bộ và gia đình..để khắc phục tình trạng này cần có sự quan tâm của tất cả các ngành các cấp trong xây dựng nội dung và tiến hành sinh hoạt câu lạc bộ, tập huấn cho các cán bộ phụ trách câu lạc bộ về cách thức sinh hoạt, vận dụng các nội dung sinh hoạt một cách sáng tạo…Trước mỗi buổi sinh hoạt, cần xây dựng nội dung cụ thể để tránh sự nhàm chán, đơn điệu xuất hiện ở mỗi người (kể cả hội viên và tình nguyện viên), tăng số buổi sinh hoạt tuỳ theo điều kiện ở từng phường, xã. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ và các tình nguyện viên để họ nhiệt tình đóng góp hơn nữa. Mô hình thành phố Hồ Chí Minh cần được khắc phục những khó khăn để nâng cao hiệu quả. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu về giải quyết việc làm cho người nghiện ở một quy mô rộng lớn. Chưa có các mô hình tương tự như vậy của các địa phương khác để tham khảo nên cần luôn đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động để hoàn thiện. Thông qua xây dựng, hoàn thiện các mô hình, thu hút đông đảo người nghiện sau cai và sức mạnh của quần chúng để giải quyết vấn đề tái nghiện đang diễn ra. Quản lý sau cai là một vấn đề cơ bản để phòng ngừa tái nghiện ma tuý cho những người sau cai nghiện. Sau khi ra khỏi trung tâm, người nghiện vẫn còn sự lệ thuộc về tâm lý vào các chất ma tuý, chính điều này dẫn đến tình trạng họ rất dễ bị sa ngã. Giám sát, quản lý người nghiện sau cai nhằm đưa ra những biện pháp can thiệp cần thiết, kịp thời khi người sau cai thực hiện các hành vi có thể dẫn tới tái nghiện ma túy. Để giám sát người nghiện sau cai đạt hiệu quả cần được sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trước hết là gia đình người nghiện và chính quyền xã, phường. Nâng cao hiệu quả giám sát của gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với phòng ngừa tái nghiện của người sau cai nghiện vì các thành viên trong gia đình là những người ruột thịt của người nghiện, gần gũi với họ nhất nên sẽ giám sát. 3.2.6. Phân bổ nguồn lực cho công tác quản lý sau cai nhằm hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện Việc tổ chức quản lý sau cai, giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện là quá trình được đầu tư cơ bản chưa lâu và chưa nhiều, bên cạnh đó tệ nạn lạm dụng ma tuý có xu hướng còn diễn biến phức tạp trong thời gian tới, do vậy việc đầu tư cho công tác này là cần thiết để đáp ứng yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ của ngành Lao động được giao. Đồng thời việc đầu tư này cũng cần tính toán để có thể đón đầu được những diễn biến mới của tình hình sử dụng ma tuý, của tình hình sau cai nghiện và cần phù hợp với diễn biến kinh tế xã hội của đất nước. - Đầu tư về cơ sở vật chất cho việc tổ chức quản lý sau cai, trong đó có hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện: Đây là một quá trình lâu dài và nhiều phức tạp, để giải quyết có hiệu quả vấn đề trên cần một giải pháp mang tính đồng bộ. Sự đồng bộ cần thiết trong quá trình cai nghiện của đối tượng, cũng như sự đồng bộ cần trong các lĩnh vực hỗ trợ kinh tế, hỗ trợ sự tái hoà nhập xã hội, hỗ trợ thay đổi nhận thức văn hoá xã hội của người sau cai nghiện, thái độ của cộng đồng và của doanh nghiệp trong hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện. Vì vậy, việc nhận thức, đánh giá tầm quan trọng của quá trình quản lý sau cai nghiện ở mọi hình thức là cần thiết, song việc đầu tư cho công tác tư vấn, hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện càng cần thiết hơn. Vấn đề không chỉ là chất lượng hoạt động của các tình nguyện viên mà còn là sự thay đổi căn bản trong nhận thức của chính các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, kết hợp với tăng cường sự hõ trợ tài chính cho các hoạt động của các ban chỉ đạo chống ma tuý tại cộng đồng với tiêu chí đúng người, đúng việc và đúng với sức lao động bỏ ra để khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cả cộng đồng cùng tham gia tư vấn giới thiệu việc làm và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện. - Đầu tư phân bổ, đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực làm công tác quản lý sau cai, tư vấn giới thiệu và hỗ trợ tạo việc làm: tăng cường đầu tư các cán bộ có chuyên môn về công tác xã hội, chuyên môn tư vấn, chuyên môn tâm lý, nhằm củng cố chất lượng quản lý sau cai, nâng cao khả năng tư vấn, chia sẻ thông tin, tiếp cận các dịch vụ đào tạo nghề, giới thiệu việc làm. Thông qua hoạt động tư vấn có thể nắm bắt được tâm lý của người sau cai nghiện và giúp thực hiện hiệu quả hơn trong quá trình tư vấn ổn định tâm lý, giới thiệu việc làm giúp người sau cai phòng ngừa tái nghiện. - Đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ quản lý sau cai, trọng tâm là các giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện: mở các lớp tập huấn ngắn ngày cho cán bộ, mời chuyên gia có trình độ về công tác phòng chống tệ nạn xã hội, chuyên môn về tâm sinh lý, chuyên gia về nghiệp vụ chuyên môn như: giáo dục, dạy nghề, tư vấn, tổ chức lao động, sản xuất, tư vấn giới thiệu việc làm,…để giảng dạy hướng dẫn trực tiếp cho cán bộ làm công tác quản lý sau cai. 3.2.7. Quản lý phòng chống tái nghiện, tạo điều kiện tái hoà nhập cộng đồng thông qua hỗ trợ tạo việc làm cho người nghiện sau cai Giúp người sau cai nghiện thay đổi nhận thức và hành vi, trang bị cho họ những kỹ năng mới trong việc xử lý tình huống có nguy cơ cao để vượt qua được những triệu chứng báo hiệu giai đoạn tái nghiện. Vì vậy công tác phòng chống tái nghiện sau cai trước hết phải tạo ra sự thay đổi trong lối sống nhằm giảm thiểu nhu cầu sử dụng bất kỳ hợp chất gây nghiện nào, sau đó là tăng cường những hoạt động lành mạnh ở người sau cai kết hợp với trang bị cho họ tinh thần và kỹ năng đối phó với những tình huống nguy cơ cao: + Vai trò quản lý đặc biệt là gia đình, người thân: ngoài gắn bó, gần gũi khích lệ động viên, còn cần phải quản lý thật chặt chẽ trên cơ sở được trang bị những kỹ năng quản lý và có các biện pháp can thiệp khi cần thiết. Gia đình giữ vai trò là chỗ dựa về tinh thần giúp người sau cai ổn định tâm lý, tự tin tiếp cận các dịch vụ việc làm. + Giúp người sau cai nghiện tự xây dựng được kế hoạch sinh hoạt cho riêng bản thân: giờ ăn ngủ, làm việc, giải trí…Từ kế hoạch của bản thân họ thì gia đình, cán bộ trợ giúp cộng đồng tiến hành giám sát, đồng thời khuyến khích giúp họ thực hiện nghiêm túc có hiệu quả kế hoạch đó. Đây chính là biện pháp giúp họ xây dựng những kỹ năng cho một lối sống điều độ, có trách nhiệm với cuộc sống, ý thức trong lao động tự nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. + Vận dụng mọi điều kiện giúp họ có được trình độ kiến thức cơ bản một nghề hay một việc làm, cho họ có được thu nhập từ lao động của bản thân và dần dần tự phấn đấu để nâng cao đời sống. + Cung cấp cho người sau cai nghiện những kiến thức, kỹ năng sinh tồn, giúp họ có thể hoạt động bình thường trong cộng đồng và tự tin tiếp cận các dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm và tham gia tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp. + Đảm bảo cho người sau cai nghiện có 1 cơ sở, 1 tổ chức giúp đỡ tại cộng đồng (Câu lạc bộ sau cai, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên), mà đây là nơi họ tìm thấy sự trợ giúp khi cần thiết trong quá trình tìm việc làm để ổn định đời sống sau cai nghiện. + Cung cấp cho người sau cai nghiện một mạng lưới bảo an nơi mà họ có thể đến khi họ ức chế hay có nguy cơ tái sử dụng ma tuý do thất nghiệp chưa tìm kiếm được việc làm (người cán bộ tư vấn, cơ quan pháp luật chuyên ngành). + Giúp người sau cai nghiện được tham gia chương trình giáo dục dạy nghề, tạo công ăn việc làm, tái hoà nhập cộng đồng. + Khích lệ, xây dựng mối quan hệ tình cảm, quan hệ xã hội bền chặt trong cuộc sống của người sau cai nghiện. Từ tình cảm đó, nếu khéo giữ gìn sẽ nắm bắt tâm tư nguyện vọng, sự chán chường khi chưa có công ăn việc làm, động viên họ không sa vào tái sử dụng ma tuý, đồng thời người giám sát giúp đỡ cũng có được những thông tin trung thực. + Tạo điều kiện để họ có cơ hội tham gia và tham gia thường xuyên vào các hoạt động vui chơi giải trí, giao lưu, văn hoá văn nghệ, tham quan, píc níc lành mạnh. 3.2.7. Chế độ chính sách cho cán bộ quản lý sau cai nghiện và hỗ trợ tạo việc làm Trong công tác quản lý nhà nước nói chung, chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ có mối quan hệ hữu cơ và là yếu tố quyết định tới hiệu quả quản lý nhà nước. Đối với công tác quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm, do có đặc thù riêng như: các cán bộ sau cai phải sống và làm việc trong điều kiện khắc nghiệt và căng thẳng hơn rất nhiều các đối tượng cán bộ công chức, thậm chí hy sinh cả cuộc sống gia đình cho công việc, vì thế xây dựng một chế độ chính sách đối với đội ngũ này trước tiên cần khẳng định đây là chế độ chính sách đặc biệt. Nó thể hiện sự quan tâm và chia sẻ trách nhiệm một cách đúng mực của toàn xã hội đối với đội ngũ cán bộ này. Về chế độ chính sách được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: lương, phụ cấp, thưởng, chế độ bảo hiểm, chế độ đào tạo, chế độ sinh hoạt, chế độ tuyển dụng… các chế độ đãi ngộ khác đối với đội ngũ cán bộ quản lý sau cai. Về đội ngũ cán bộ sau cai gồm các cán bộ quản lý các Câu lạc bộ, cán bộ phụ trách quản lý sau cai các cấp đặc biệt là cấp phường / xã, các tình nguyện viên… + Lực lượng quản lý: - Để khắc phục nhanh chóng tỷ lệ tái nghiện cao như hiện nay, cần có những chỉ đạo xuyên suốt từ Ban chỉ đạo các tỉnh thành phố xuống đến Ban chỉ đạo cấp cơ sở đối với đội ngũ cán bộ tham gia làm công tác quản lý sau cai nghiện, tư vấn hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện: phải có nhiệt tình, năng động sáng tạo, có bản lĩnh và nhất thiết phải làm việc theo chế độ thường trực chứ không làm việc kiêm nhiệm như hiện nay. - Để nâng cao hiệu xuất làm việc của lực lượng này, phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm với công việc họ làm, với cộng đồng và xã hội, cần điều chỉnh lại mức thù lao cho phù hợp, như: chế độ phụ cấp định kỳ cho cán bộ trực tiếp tham gia quản lý sau cai; hằng năm có xét bình bầu khen thưởng, kỷ luật dựa trên tiêu chí: sự tích cực tham gia công tác quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm, tỷ lệ tái nghiện thấp…. - Để có công tác quản lý sau cai, tư vấn giới thiệu và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai được thực hiện tốt, vai trò của người cán bộ địa phương có tầm quan trọng rất lớn. Do vậy, đòi hỏi người cán bộ địa phương làm công tác quản lý sau cai ở địa phương là những người phải có năng lực, có phương pháp sư phạm và phải được trang bị một khối lượng kiến thức nhất định để có thể hoàn thành tốt công việc. Vì thế hằng năm các cán bộ này phải được tham gia tập huấn về quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm và phòng chống tái nghiện. + Lực lượng tình nguyên viên làm công tác xã hội: Để thực hiện phương châm “Vào từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người”, quản lý, tư vấn giáo dục, giới thiệu và hỗ trợ việc làm phòng ngừa tái nghiện có hiệu quả cần thực hiện chế độ phân bổ các tình nguyện viên theo địa bàn cụm dân cư. Các tình nguyện viên phải được trang bị một số phương tiện cần thiết để hoạt động thuận lợi, có hiệu quả và được hưởng phụ cấp. ở một số địa phương có các Câu lạc bộ bạn giúp bạn, Câu lạc bộ giáo dục đồng đẳng,…thì Ban chỉ đạo phòng chống ma túy địa phương căn cứ vào thái độ tinh thần của những cộng tác viên đặc biệt này mà có cơ chế thích hợp (cho hưởng chế độ như các tình nguyện viên hoặc tạo điều kiện về công việc làm). ở những địa bàn còn cấu trúc làng xóm (ngoại thành) các Ban chỉ đạo cần sử dụng lực lượng tình nguyện viên là người có uy tín trong dòng họ để tuyên truyền và cảm hoá, giáo dục, tư vấn hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho người sau cai nghiện tại cộng đồng. 3.2.8. Phát triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm; xây dựng và thực hiện các đề án làng xã hội, nông lâm trường để giải quyết các nhu cầu việc làm cho người sau cai nghiện Phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu cơ bản nhất, quan trọng nhất, quyết định việc tăng giảm việc làm. Do vậy, phải thực hiện các hoạt động nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tạo mở việc làm nhằm đạt mục tiêu ổn định việc làm cho người sau cai nghiện đã có việc làm và tạo thêm chỗ làm việc mới cho người sau cai nghiện. Cần tập trung chỉ đạo thực hiện một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động trong nông thôn; đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chuyên dần lao động nông nghiệp sang phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong khu vực nông nghiệp và nông thôn; phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành du lịch, dịch vụ; phát triển các ngành có khả năng sử dụng nhiều lao động, vừa phát triển các ngành sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao trong khu vực công nghiệp, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Đối với công nghiệp: Phát triển công nghiệp, phát triển sản xuất, mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động, trong đó có lao động là người sau cai nghiện và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời nó là biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm. Theo dõi sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp đang sử dụng nhiều lao động là người sau cai nghiện và các doanh nghiệp mới được đầu tư hiện đang còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và thị trường tiêu thụ để có giải pháp tác động đến quản lý việc đầu tư có hiệu quả hơn. Tổ chức thực hiện tốt chủ trương ưu đãi đầu tư tại các địa phương, trong đó chú trọng ưu đãi về giá thuê đất, ưu đãi về miễn tiền thuê đất, ưu đãi tiền đền bù giải phóng mặt bằng; ưu đãi hỗ trợ lãi xuất tiền vay; ưu đãi hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ưu đãi hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động là người sau cai nghiện + Thực hiện tốt việc kết hợp giữa sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước với duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động nói chung, trong đó có người sau cai nghiện, chống sa thải công nhân hàng loạt, thông qua chính sách trợ giúp của Nhà nước về thuế, vốn, công nghệ, lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người sau cai nghiện. + Đối với nông nghiệp: Phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá (rau, quả, thực phẩm, cây ăn quả), phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiến hành phủ xanh đất trống, đồi trọc, khuyến khích khoanh nuôi, bảo vệ rừng quốc gia, phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng nguyên liệu. Khai thác các vùng còn hoang hoá, vừa phân bố lại dân cư, vừa tạo việc làm cho nông dân là người sau cai nghiện. + Dịch vụ: Đẩy mạnh phát triển dịch vụ du lịch dựa trên thế mạnh của từng địa phương, hình thành các trung tâm thương mại - giao dịch có sức thu hút mạnh, tiếp tục nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giao thông, điện, nước, cơ sở trường học, bệnh viện, các khu vui chơi, giải trí, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và khả năng thu hút khách du lịch của địa phương. Xây dựng và thực hiện các đề án làng xã hội, nông lâm trường để giải quyết các nhu cầu việc làm cho người sau cai nghiện. Kinh nghiệm từ nông trường Phú Văn (thành phố Hồ Chí Minh) đã chứng minh thành công của mô hình này. Nông trường Phú Văn sau năm 1975 dành cho người nghiện ma tuý, người lang thang ở thành phố Hồ Chí Minh, đã trở thành làng xã hội. Từ năm 1990 đã trở thành một xã với cư dân ban đầu chủ yếu là đối tượng nghiện ma tuý và mại dâm, một khu vực nhỏ cònlại với một số cán bộ lâu năm đã tiếp tục phát triển trở lại thành trung tâm cai nghiện Phú Văn hiện nay nhằm đáp ứng cho nhu cầu cai nghiện phục hồi của số đối tượng nghiện mấy năm trở lại đây ở thành phố Hồ Chí Minh. Tại làng xã hội, đối tượng có điều kiện tổ chức lao động sản xuất để có việc làm, ổn định cuộc sống bao gồm cả hôn nhân xây dựng gia đình, giảm bớt phần nào môi trường phức tạp, lôi kéo họ trở lại nghiện ma tuý. Thành phố Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng đã thực hiện mô hình làng xã hội cho nhóm nhỏ đối tượng nghiện ma túy và mại dâm để giúp họ tạo công ăn việc làm và ổn định cuộc sống. 3.2.9. Đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm và phát triển thị trường sức lao động (hoặc dịch vụ việc làm) Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và người sau cai nghiện ma túy nói riêng, thì việc sử dụng nguồn lao động và phát triển việc làm tại chỗ cho ý nghĩa quyết định. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay, việc đưa người lao động, đặc biệt là những người sau cai nghiện ma tuý có thể coi là một trong những hướng để giúp họ có công ăn việc làm, phòng ngừa tái nghiện và mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình, bản thân người nghiện và cho xã hội. Cần thực hiện đa dạng hoá thị trường và các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động; đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa người sau cai nghiện đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Liên kết với các công ty được phép xuất khẩu lao động, đào tạo định hướng giúp người sau cai nghiện ma tuý có đủ điều kiện tham gia dự tuyển lao động xuất khẩu. Chủ động liên hệ với các trung tâm dịch vụ việc làm và doanh nghiệp trong cả nước để cung ứng, giới thiệu và đưa người sau cai nghiện ma tuý đến làm việc hoặc tham gia xuất khẩu lao động tại chỗ. Các địa phương xây dựng đơn vị chuyên xuất khẩu. Đầu tư đào tạo người sau cai nghiện xuất khẩu cả về tay nghề, ngoại ngữ, kiến thức, pháp luật. Khuyến khích người sau cai nghiện tự đào tạo để tăng nguồn lao động xuất khẩu. Cùng với việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động đối với người sau cai nghiện, cần phải đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm và phát triển thị trường lao động như: + Tổ chức cho vay vốn giải quyết việc làm, giành những khoản cho vay ưu đãi, lãi xuất thấp cho người sau cai nghiện bị thất nghiệp, thiếu việc làm, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ có thu hút người sau cai nghiện bị thất nghiệp, thiếu việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm giới thiệu, nhằm tạo việc làm mới và hỗ trợ giải quyết việc làm thêm cho người sau cai nghiện. + Nâng cao năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm: Dịch vụ việc làm cho người lao động nói chung và người sau cai nghiện ma tuý vẫn còn là khâu yếu ở nước ta hiện nay. Để các trung tâm dịch vụ việc làm cung cấp các dịch vụ việc làm thuận lợi cho người sau cai nghiện và người sử dụng lao động là người sau cai nghiện; đào tạo ngắn hạn và bổ túc nghề cho người sau cai nghiện nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc đòi hỏi; + Tổ chức cho người sau cai nghiện bị thất nghiệp, thiếu việc làm đăng ký tìm việc làm tại các cơ sở thuộc hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm trong cả nước. + Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí đối với người sau cai nghiện chưa có việc làm đã đăng ký tìm việc bao gồm: tư vấn lựa chọn việc làm, nơi làm việc; tư vấn lựa chọn nghề học, hình thức học và nơi học nghề; tư vấn lập dự án tự tạo việc làm hoặc dự án tạo thêm việc làm; tư vấn về pháp luật lao động liên quan đến việc làm; giới thiệu việc làm, bố trí việc làm; các dịch vụ việc làm khác. + Tổ chức cung ứng dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động là người sau cai nghiện theo hợp đồng, bao gồm: cung ứng lao động, giúp tuyển lao động; tư vấn pháp luật về lao động việc làm; trao đổi thông tin về thị trường lao động; các dịch vụ khác về việc làm. - Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. Từng bước hoàn thiện, hiện đại hoá hệ thống thông tin thị trường lao động; đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời những diễn biến của thị trường lao động làm cơ sở cho việc hoạch định và điều chỉnh kế hoạch, chính sách việc làm và thị trường lao động. - Tổ chức hội chợ việc làm dành cho người sau cai nghiện: Hội chợ việc làm là hình thức mang lại hiệu quả cao cho cả nhà tuyển dụng và người sau cai nghiện tìm việc làm. Trong những năm gần đây, hội chợ việc làm của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và Đồng Nai đã có hiệu quả rõ rệt. Qua hội chợ, ngoài việc tuyển dụng trực tiếp, người lao động là đối tượng sau cai nghiện và nhà tuyển dụng còn thu được nhiều thông tin cần thiết cho mình. Các địa phương có thể tổ chức hội chợ khu vực, có sự tham gia của các địa phương bạn để vừa giải quyết được việc làm cho người sau cai nghiện của địa phương mình, vừa có thể nắm được thông tin làm cơ sở xây dựng chiến lược tạo việc làm cho những đối tượng này ở địa phương mình. 3.2.10. Xã hội hoá công tác tạo việc làm quản lý sau cai cho người sau cai nghiện Tệ nạn ma tuý là một hiện tượng xã hội phức tạp. Hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện để phòng chống tái nghiện, giải quyết triệt để tệ nạn ma tuý cần huy động sức mạnh của cả xã hội. Đó chính là xã hội hoá phòng chống tệ nạn ma tuý. Xã hội hoá có nghĩa là huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân vào công tác hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Để thực sự xã hội hoá công tác tạo việc làm cho đối tượng cần có chế độ, chính sách cụ thể cho mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần xã hội nhằm làm cho tất cả đều không chỉ thấy đây là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ phải thực hiện vì mục đích xây dựng địa bàn trong sạch, lành mạnh, không có tệ nạn xã hội. Đồng thời, cần có các hình thức tuyên dương, nêu gương, tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý đã được chữa trị, cai nghiện. Thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi giữa lao động nam và lao động nữ đã chữa trị cai nghiện và phục hồi với các lao động khác. Sử dụng lao động phù hợp với năng lực chuyên môn, trình độ đào tạo, không kỳ thị, phân biệt đối xử ở nơi làm việc, hưởng lương và nghĩa vụ lao động như người lao động khác. Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm, giai đoạn 2006 - 2010 được Chính phủ phê duyệt đã đưa ra kế hoạch thực hiện đa dạng các biện pháp để giải quyết việc làm, thông qua các đề án về việc làm. Trong chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai cụ thể các đề án này, cần lưu ý đến loại đối tượng đặc biệt là người nghiện ma tuý sau chữa trị, phục hồi. Các nhu cầu cụ thể để giải quyết việc làm như vay vốn, học nghề, tìm kiếm việc làm cần được giải quyết thông qua các biện pháp như: phổ biến thông tin đến tận các trung tâm cai nghiện, hướng dẫn họ tiếp cận với các thủ tục vay vốn theo các quy định hiện hành, cách xây dựng các dự án nhỏ vay vốn tự tạo việc làm, trung tâm cũng cần giúp họ thảo luận nhóm nhỏ hộ gia đình, hay nhóm nhỏ đối tượng để có thể đưa ra hết những thuận lợi, những cách làm, những cản trở để lựa chọn phương án giải quyết việc làm thích hợp. Cán bộ trung tâm, cán bộ xã hội ở cộng đồng cần nắm vững các chính sách hiện có, các mạng lưới dịch vụ xã hội liên quan để kịp thời tư vấn, giúp đỡ đối tượng tiếp cận với chính sách xã hội và các dịch vụ một cách dễ dàng và đầy đủ nhất: dịch vụ về lựa chọn việc làm, đăng ký tìm việc làm, lựa chọn hình thức học nghề, tìm hiểu quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề tạo việc làm,... Trước hết, hỗ trợ tạo việc làm cần huy động được sự tham gia của các chủ thể quản lý nhà nước, bao gồm từ các cấp uỷ đảng cho đến các cấp chính quyền và đoàn thể nhân dân: Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội nông dân,..Ví dụ, ở cáp cơ sở, Đảng bộ cùng Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban nhân dân thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quản lý sau cai, chú trọng hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Đảng bộ cơ sở ban hành các nghị quyết chuyên đề về phòng chống tệ nạn ma tuý, quản lý sau cai nghiện và hỗ trợ tạo việc làm. Hội đồng nhân dân qua các cuộc họp thường kỳ…ra các văn bản dựa trên nghị quyết của Đảng bộ cùng với những phản ánh của các tầng lớp nhân dân nhằm đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Uỷ ban nhân dân là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thực thi đồng thời tổ chức phối hợp giữa các bộ phận cơ sở trong việc hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện, tránh tình trạng “khoán trắng” cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội như ở một số nơi hiện nay. Đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng đối với hỗ trợ tạo việc làm, cần được phát huy hiệu quả hoạt động thông qua các chương trình khác nhau dựa trên những điều kiện cụ thể, ví dụ Đoàn thanh niên đều có các chi đoàn của các đội (đối với nông thôn), các cụm (đối với thành phố), những lần sinh hoạt nên đưa các nội dung hoạt động xã hội vào các chương trình để xây dựng một xã, phường trong sạch, lành mạnh. Qua các hoạt động phong trào như vậy sẽ phát hiện ra được những hạt nhân ưu tú để bồi dưỡng kết nạp Đảng. Các tổ chức, đoàn thể cùng với chính quyền xã, phường tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, doanh nghiệp đóng trên địa bàn hưởng ứng giới thiệu và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện bằng các hình thức như treo bằng rôn, khẩu hiệu, phát tờ rơi. Vận động gia đình người nghiện ma tuý tham gia sinh hoạt câu lạc bộ sau cai, tiếp cận các dịch vụ việc làm. Mở rộng và duy trì thực hiện các phong trào nhằm thu hút quần chúng nhân dân tham gia như “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” thông qua đó gắn kết người dân với hoạt động quản lý sau cai, trong đó một nội dung quan trọng là hỗ trợ người sau cai tìm được việc làm, ổn định đời sống và hoàn lương, Đoàn thanh niên phát động phong trào “bạn giúp bạn” để tư vấn giới thiệu việc làm, giúp người sau cai tái hoà nhập cộng đồng. Nhà nước quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các chức vụ khác nhau, trước hết là các chức vụ chủ chốt của từng chủ thể trong công tác quản lý sau cai, đặc biệt là hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện, đồng thời đưa ra những quyền lợi và những hình thức kỷ luật tuỳ theo mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cá nhân, mỗi tập thể. Người cao tuổi có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng dân cư, vì vậy dựa vào hội Người cao tuổi để động viên các gia đình quan tâm đến người nghiện sau cai, giúp họ tìm được việc làm phòng ngừa tái nghiện là một điều đáng làm. ở các vùng nông thôn, dấu ấn của truyền thống còn rõ nét, các thiết chế dòng họ vẫn còn tồn tại, ngoài ra còn có thiết chế làng xã khá bền chắc. Dựa vào uy tín của những người đứng đầu các chi trong dòng họ, các họ hoặc những người trong làng để khuyên răn con em sống lành mạnh, tham gia tích cực vào công tác xã hội, trong đó có hỗ trợ tạo việc làm, quan tâm quản lý đối với người sau cai nghiện. Tóm lại, xã hội hoá là một giải pháp bao chùm lên trên tất cả các giải pháp khác, thực hiện các giải pháp khác là tiền đề cho xã hội hoá công tác hỗ trợ tạo việc làm phòng chống tái nghiện ma tuý, trong đó công tác tuyền thông, tuyên truyền giữ vai trò chủ đạo vì chỉ huy động được sức mạnh của toàn dân và các doanh nghiệp khi nào làm cho họ hiểu được ý nghĩa của công tác hỗ trợ tạo việc làm, giúp người sau cai tái hoà nhập cộng đồng phòng chống tái nghiện và họ nhận ra trách nhiệm của mình đối với xã hội, tự nguyện tham gia vào các phong trào. Và muốn các hoạt động quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện có hiệu quả cao thì các giải pháp trên phải được thực hiện đồng bộ. Kết luận Đào tạo nghề và tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý là một nội dung quan trọng trong kế hoạch tổng thể cai nghiện - phục hồi giai đoạn 2001 - 2010 và là nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống ma túy từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, đây là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và còn nhiều khó khăn, nhất là trong tình hình hiện nay đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp, có cả thuận lợi và khó khăn, có thời cơ vận hội và thách thức đan xen. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng đó, đề tài luận văn được lựa chọn nghiên cứu, cho phép chúng tôi rút ra kết luận sau: Thứ nhất, giải quyết việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý là vấn đề cấp bách cơ bản lâu dài, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả công tác cai nghiện, phục hồi, góp phần làm giảm tỷ lệ tái nghiện và phòng chống các tệ nạn xã hội. Thứ hai, lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý là vấn đề lớn, tổng hợp cần những giải pháp đồng bộ có hiệu quả thiết thực không chỉ của ngành lao động, mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Thứ ba, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ trực tiếp đào tạo, dạy nghề tại trung tâm, có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp nhận lao động là những người sau cai nghiện ma tuý… sẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề việc làm cho những đối tượng này. Trong một thời gian ngắn nghiên cứu, luận văn đã hoàn thành được những nội dung sau: - Đã nêu một số vấn đề chung về việc làm như: các khái niệm, những nét cơ bản về tình hình việc làm và thất nghiệp hiện nay, mối quan hệ giữa việc làm và sự gia tăng tệ nạn xã hội. - Đề tài cũng đã phân tích, khái quát hoá những chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước ta về việc làm. - Để có cơ sở đưa ra những khuyến nghị về giải pháp tạo việc làm cho người nghiện ma tuý sau chữa trị phục hồi, luận văn đã đánh giá thực trạng về đời sống việc làm của người nghiện ma tuý sau chữa trị phục hồi cũng như vai trò và sự tham gia giải quyết việc làm cho đối tượng của các tổ chức chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp, gia đình đối tượng. Từ nghiên cứu thực trạng, luận văn đã khẳng định việc làm là một trong những điều kiện quan trọng để đối tượng tránh xa, từ bỏ tệ nạn xã hội, cải thiện quan hệ gia đình, từng bước tạo lập cuộc sống ổn định, hạnh phúc. Trong những năm qua việc đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đối tượng ở các địa phương bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Từ đánh giá thực trạng, luận văn cũng đã nêu ra những tồn tại của công tác dạy nghề, tạo việc làm cho đối tượng sau chữa trị, phục hồi và nguyên nhân của những tồn tại này. - Luận văn cũng đi sâu nghiên cứu và chỉ ra những mô hình, những kinh nghiệm tạo việc làm có hiệu quả. - Trên cơ sở các phân tích lý luận và nghiên cứu thực trạng, luận văn đã đưa ra khuyến nghị về các giải pháp cụ thể trong vấn đề giải quyết việc làm, hỗ trợ đối tượng hoàn lương. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Chỉ đạo Phòng chống AIDS và Phòng chống tệ nạn mại dâm thành phố Hà Nội (2003, Tài liệu tập huấn tình nguyện viên làm công tác xã hội trên địa bàn phường, xã, thị trấn, Hà Nội. 2. Bộ Chính trị ( ), Chỉ thị 21 CT/TW về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình. 3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1995), Hệ thống văn bản hiện hành về LĐTB&XH, Hà Nội. 4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1997-2000), Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam 1997-2000, Nxb Thống kê, Hà Nội. 5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam 1996 - 2000, Nxb Thống kê, TP Hồ Chí Minh. 6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Số liệu thống kê lao động - thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996 - 2000, Nxb Lao động - Xã hội, TP Hồ Chí Minh. 7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Kế hoạch tổng thể cai nghiện - phục hồi giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội. 8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo tình hình và kết quả 3 năm (2001 - 2003) thực hiện công tác cai nghiện phục hồi theo Quyết định 150/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 9. Bộ Tài chính (2007), Thông tư 05/2007/TT-BTC ngày 18/1/2007 về.... 10. Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội - Sở Lao động Thương binh và Xã hội Thành phố Hà Nội (2002), Mô hình quản lý, giáo dục, tư vấn cho người nghiện ma túy tái hoà nhập cộng đồng, Câu lạc bộ B93, Hà Nội. 11. Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội Thành phố Hà Nội (2003), Báo cáo tình hình hoạt động của các câu lạc bộ B93. 12. Chính phủ (2003), Quyết định số 2005/2003/QĐ-TTg ngày 02/10/2003 về việc phê duyệt đề án “Tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện” tại TP Hồ Chí Minh. 13. Trần Văn Chử (chủ biên) (1998), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (1997), Nghiên cứu và thử nghiệm các giải pháp hạn chế tái nghiện cho các đối tượng sau khi được cai nghiện, Hà Nội. 15. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (2003), Tập số liệu về kết quả công tác phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội. 16. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (2004), Hệ thống hoá văn bản về phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội. 17. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (.......), Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá...., Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Lê Duy Đồng (2001), “Lao động việc làm thời kỳ 1991 - 2000 và phương hướng giai đoạn 2001 - 2010”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (3), tr.3-7. 25. Nguyễn Thị Hằng (1996), "Tệ nạn ma tuý - Nỗi lo không của riêng ai", Tạp chí Cộng sản, (489). 26. Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Kha (1991), Sử dụng lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 27. Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường lao động - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 28. Nguyễn Đình Hoà (2001), “Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (281), tr30-31. 29. Nguyễn Thị Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam - định hướng và phát triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 30. Vũ Văn Khang (2001), “Tiền lương tối thiểu và vấn đề thất nghiệp”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (48), tr 24-25. 31. Phan Đình Khánh (2001), "Khái niệm ma tuý và các đặc trưng của nó", Bản tin phòng chống ma tuý. 32. Nguyễn Thị Mai Lan (2000), Thất nghiệp ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 33. Đặng Tú Lan (2001), Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. V.I.Lênin (1987), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 35. C.Mác (1984), Tư bản, tập I, quyển 1 (1984), Nxb Sự thật, Hà Nội. 36. Ngô Quang Minh (chủ biên) (1999), Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Nguyễn Y Na (1998), "Tệ nạn xã hội: căn nguyên, biểu hiện, phương pháp khắc phục", Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. 38. Hoàng Văn Nghĩa (2000), Thực hiện quyền có việc làm trong thời kỳ đổi mới, "Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", TS. Bùi Anh Tuấn (chủ biên), Nxb Thống kê, Hà Nội. 39. Đỗ Đức Ngọ (1997), Sổ tay tuyên truyền về phòng chống ma túy trong công nhân lao động, Nxb Lao động, Hà Nội. 40. Nguyễn Bá Ngọc - Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 41. Nguyễn Văn Phấn (1994), “Tìm hiểu Bộ Luật lao động - chương việc làm”, Tạp chí Lao động xã hội, (1). 42. Chu Minh Phương (2001), “Về lao động dôi dư trong cải cách doanh nghiệp nhà nước”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (9), tr 9-10. 43. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ Luật lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật phòng chống ma tuý 2000, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Bùi Ngọc Thanh (1996), “Mấy vấn đề về việc thi hành Bộ luật Lao động”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (9). 47. Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh (2007), Số liệu báo cáo của tháng 5/2007. 48. Đinh Trọng Thịnh (2005), “WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (1996), tr.39-41. 49. Nguyễn Thông (2000), “Một số biện pháp giải quyết việc làm năm 2000”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (2), tr 13-14. 50. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 212/2006/QĐ-TTg ngày 20/9/2006 về.................. 51. Phan Chính Thức (2001), “Phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhận thức cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hướng tới nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (3), tr.13-15. 52. Mạc Văn Tiến (1999), Thực trạng lao động việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam, Nxb..... 53. Phạm Hồng Tiến (2000), “Vấn đề việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (260), tr 32-38. 54. Hà Quý Tình (1998), “Thị trường sức lao động - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lao động xã hội, (143), tr.29. 55. Hà Quý Tình (2004), Hoàn thiện các chính sách vĩ mô của Nhà nước để tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Học viện Tài chính, Hà Nội. 56. Đỗ Thế Tùng (2001), “ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (3), tr.19-21. 57. Trường Đại học kinh tế Quốc dân (1997), Kinh tế và Phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. 58. Trường Đại học Y Hà Nội (1998), Nghiện ma tuý - điều trị và dự phòng, Hà Nội. 59. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Báo cáo tại hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 16 tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11/2006. 60. Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà Nội. 61. Viện Nghiên cứu và Đào tạo về quản lý (2001), Chính sách việc làm Quốc gia và các văn bản liên quan, Tài liệu tập huấn quản lý lao động và việc làm - Phương thức và thể chế mới, Hà Nội. 62. Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội (2003), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện và sau cai, Hà Nội. 63. Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội ( ), Những giải pháp hữu hiệu quản lý cai nghiện và sau cai, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 64. Viện Nghiên cứu và ứng dụng dược liệu điều trị bệnh hiểm nghèo (2005), Cai nghiện ma tuý, thực trạng và giải pháp, Hà Nội. 65. Nông Đức Vinh (2004), Việc làm ở Lạng Sơn: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 66. Nguyễn Xuân Yêm (2002), Hiểm hoạ ma tuý và cuộc chiến mới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 67. Nguyễn Xuân Yêm, Vũ Quang Vinh (2002), Những vấn đề cơ bản về công tác phòng, chống ma tuý, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan