Luận văn Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới nội dung phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch phù hợp với tình hình mới. Chẳng hạn như: Thường xuyên có mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường với các cơ sở kinh doanh du lịch và ngược lại, nhà trường đào tạo cái mà các cơ sở đang cần để sau khi các em ra trường về các cơ sở kinh doanh là làm việc được ngay, đồng thời qua đó các cơ sở kinh doanh cũng đánh giá được chính xác uy tín và thương hiệu của các trường đại học. Tránh tình trạng như hiện tại rất nhiều sinh viên của các trường đại học sau khi tốt nghiệp các chuyên ngành về du lịch, khi làm việc tại cơ sở thì công việc chuyên môn rất yếu gần như không thể làm được, các cơ sở đành phải sắp xếp những công việc cụ thể (công việc nghề), xong cũng không thể tốt bằng các em được đào tạo từ các trường nghề.

pdf101 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2474 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. - Có đội ngũ các nhà khoa học và đội ngũ công nhân lành nghề hùng hậu nhất cả nước. Một trong những kinh nghiệm trước tiên để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, các nước đều coi trọng sự thống nhất nhận thức về vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của du lịch từ chính phủ, đến các chủ doanh nghiệp, đến dân cư. Đây là kinh nghiệm có tầm quan trọng đặc biệt nếu không muốn nói là có ý nghĩa quyết định. Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà Nội chỉ rõ: "Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, đa dạng hóa các loại hình, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, phấn đấu doanh thu của ngành du lịch hàng năm tăng từ 16-18%; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Thủ đô" [4]. Thành phố cần chú trọng đầu tư cho công tác tuyên truyền và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch, nhằm khuyến khích du khách và cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, cơ quan quản lý và các tổ chức xã hội tham gia và nhận thức được vai trò của việc bảo vệ tài nguyên, môi trường tự nhiên xã hội. Song song với công tác giáo dục về mặt nhận thức, thành phố cần phối hợp đồng bộ việc vận động với các biện pháp xử lý hành chính, nhằm chấm dứt tình trạng ăn xin, bán hàng rong, tranh giành khách ở nhiều điểm du lịch. Lập lại hình ảnh đẹp của Thủ đô trong con mắt du khách và bạn bè quốc tế. Từ nhận thức đúng về ngành kinh tế mũi nhọn đối với du lịch Hà Nội, tác giả kiến nghị với Đảng bộ Thành phố Hà Nội cần biến những nhận thức đó thành hiện thực, thông qua việc đưa chủ trương xây dựng du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn, là một chương trình trong các chương trình nghiên cứu của Thành ủy hiện nay. Đồng thời có những quyết sách mạnh mẽ và kịp thời hơn nữa để sớm đưa du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn. 3.2.2. Đổi mới chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển du lịch Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn 2002 - 2010 và những năm tiếp theo cần tập trung củng cố, hoàn thiện và đưa vào khai thác một cách có hiệu quả các không gian du lịch theo các hướng sau: không gian hạt nhân - trung tâm du lịch Hà Nội, không gian du lịch phụ cận. Để phát triển tốt không gian du lịch và vùng phụ cận, cần giải quyết một số mối quan hệ dưới đây: - Có sự phối, kết hợp tốt sự phát triển không gian du lịch với phát triển không gian kinh tế - xã hội. - Giải quyết đúng đắn mối quan hệ trong xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch nhằm tăng khả năng khai thác các điểm và tuyến du lịch của Hà Nội và các địa phương phụ cận. - Có chính sách ưu tiên, giảm, miễn tiền thuê đất, lãi suất ưu tiên vốn đầu tư đối với các dự án ưu tiên và tại các vùng trọng điểm phát triển du lịch. - Trên cơ sở xem xét thế mạnh và tốc độ phát triển của từng không gian du lịch, từng lĩnh vực, tạo cơ chế thông thoáng về đầu tư cho sự phát triển du lịch, khuyến khích việc huy động các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế đầu tư vào việc phát triển hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đa dạng các sản phẩm du lịch. 3.2.3. Mở rộng thị trường tăng cường xúc tiến du lịch 3.2.3.1. Nắm vững bối cảnh quốc tế và trong nước để phát triển du lịch Có thể nói du lịch nước ta, trong đó có du lịch Hà Nội đang đối mặt với bối cảnh trong nước và thế giới đang diễn ra sự đan xen giữa thời cơ và thách thức, giữa thuận lợi và khó khăn đòi hỏi những người làm công tác quản lý ngành du lịch của Hà Nội phải tính đến một cách nghiêm túc khi đưa ra giải pháp thị trường và xúc tiến du lịch. Thị trường du lịch là một hệ thống mở, vừa có tính đặc thù, vừa chịu sự tác động chi phối của các quy luật thị trường chung. Vì vậy, theo các chuyên gia kinh tế, khi nghiên cứu thị trường du lịch cần sử dụng các phương pháp lý luận, phân tích tổng hợp và lý thuyết hệ thống hóa. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, nên rất gắn bó và liên quan đến ngành khác. Do đó, trong khi nghiên cứu thị trường du lịch, cần đi sâu phân tích tổng hợp và sử dụng các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về du lịch, về kinh doanh khách sạn, kinh doanh nhà hàng, về lữ hành, về kinh doanh các dịch vụ khác. Thị trường du lịch gắn với đầu ra của sản phẩm du lịch và gắn với nhu cầu có khả năng thanh toán của khách. Thị trường du lịch bao gồm thị trường đối với khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa. Mỗi thị trường có những đặc điểm đặc thù. Trong khai thác và mở rộng thị trường khách du lịch, cần nắm vững xu hướng dịch chuyển nhu cầu của khách du lịch. Chẳng hạn, du lịch từ châu Âu thường đến thưởng ngoạn ở những nơi có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, chưa có sự tác động của con người nhiều, văn hóa, kiến trúc mang đậm bản sắc dân tộc. Phân tích, đánh giá thị trường khách truyền thống, thị trường khách mục tiêu đối với du lịch Hà Nội, để có cơ sở khoa học cho việc xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm và các mục tiêu khác. Nhờ vị trí, vai trò là Thủ đô nên thị trường khách của Hà Nội phần lớn cũng là thị trường khách của cả nước. Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng các chiến lược thị trường của Hà Nội phải coi trọng yếu tố quốc gia và phù hợp với quy hoạch tổng thể của ngành. Thị trường khách quốc tế mà du lịch Hà Nội cần tập trung nghiên cứu nhiều là: thị trường khách Trung Quốc, thị trường khách Đông Bắc á (Nhật bản, Hàn Quốc), thị trường khách Đông Nam á, thị trường khách châu á - Thái Bình Dương, thị trường khách Tây Âu, thị trường khách Bắc Mỹ. Thị trường khách du lịch từ Nga cũng cần hết sức quan tâm. 3.2.3.2. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch Đi đôi với việc nghiên cứu thị trường, công tác xúc tiến quảng bá du lịch giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trong bài phát biểu khai mạc tại hội nghị tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Võ Thị Thắng đã khẳng định: "Để thu hút được khách du lịch, công tác nghiên cứu thị trường, marketing quảng bá du lịch phải được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong chính sách du lịch quốc gia". Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá du lịch Thủ đô theo một số nội dung sau: Thứ nhất, xây dựng chiến lược và kế hoạch marketing du lịch Hà Nội toàn diện và hoàn chỉnh với những mục tiêu rõ ràng, được sắp xếp theo thứ bậc, định rõ số lượng, có tính thực tiễn, thống nhất và phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Các mục tiêu này sẽ tạo cho các doanh nghiệp xác định được chính xác vai trò của mình, chúng hợp thành một tiêu điểm cho mọi quyết định của các cấp lãnh đạo, kích thích sự cố gắng, tạo thuận lợi cho việc kiểm tra và chuẩn bị các hành động phục hồi. Cần chú ý rằng, khi xây dựng chiến lược thì có thể hướng vào một hay nhiều mục tiêu nhưng phải theo sự hướng dẫn chính xác làm nền tảng cho những biện pháp hành chính và pháp luật thực tế rõ ràng và đạt được mục tiêu tổng quát. Trong việc xác định thị trường cần làm rõ thị trường trọng điểm, thị trường mục tiêu. Xác định thị trường mục tiêu thông qua phân đoạn thị trường, tạo ra cơ hội trong ưu thế cạnh tranh thông qua dị biệt hóa. Tiếp cận phân đoạn thị trường đòi hỏi xác định các mặt lợi ích của các thị trường khách khác nhau. Trên cơ sở đó chúng ta xác định và sử dụng các nguồn phân biệt nhằm thu hút được khách du lịch nhiều nhất. áp dụng chính sách marketing hỗn hợp, phối hợp các chính sách cần thiết để đạt được mục tiêu đề ra. Thứ hai, chính quyền thành phố cần sớm lập quỹ xúc tiến du lịch dưới sự quản lý và điều hành của Sở Du lịch Hà Nội và chịu sự giám sát của Sở Tài chính. Bởi lẽ, công tác xúc tiến quảng bá một mặt thu hút khách du lịch đến Hà Nội. Mặt khác nó cũng có tác dụng tạo lập được vị thế và hình ảnh rõ ràng về đất nước, con người Việt Nam nói chung, con người Hà Nội nói riêng trên trường quốc tế. Phối hợp với Tổng cục Du lịch tổ chức gặp gỡ với các Đại sứ quán và các đoàn ngoại giao ở Hà Nội, đồng thời thông qua các Văn phòng đại diện của du lịch Hà Nội tại nước ngoài để giới thiệu, quảng bá nhằm thu hút khách đến Hà Nội. Phối hợp với hãng Hàng không quốc gia Việt Nam và thông qua Hãng phối hợp với các hãng hàng không nước ngoài để thực hiện các hoạt động quảng bá hình ảnh về du lịch Hà Nội với người dân các nước. Trước khi tổ chức các liên hoan du lịch tại Hà Nội, cần thực hiện các chiến dịch truyền thông tại các thị trường khách trọng điểm của Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội cần tăng cường hợp tác với Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh để tăng cường thu hút khách từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội. Thứ ba, tăng cường quản lý và đầu tư cho công tác quy hoạch, xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng, hấp dẫn, xây dựng các khu du lịch, các khu vui chơi giải trí. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào xây dựng các tổ hợp khách sạn cao cấp, các khu vui chơi giải trí, các điểm du lịch, các khu du lịch. Thứ tư, tăng cường công tác giáo dục cộng đồng dân cư. Nên có đề xuất, kiến nghị với ngành giáo dục có chương trình lồng ghép về du lịch cho học sinh phổ thông nhằm tăng cường nhận thức của mọi người về ý nghĩa của việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên, giá trị nhân văn, cảnh quan môi trường… Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác marketing, xúc tiến quảng bá du lịch. Tăng cường đào tạo mới, đào tạo lại một cách có hệ thống, bài bản chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác marketing, xúc tiến quảng bá du lịch cho các cơ quan quản lý du lịch. Thứ sáu, khuyến khích các doanh nghiệp tích cực quan hệ rộng rãi với các hãng lữ hành nổi tiếng, tổ chức các chuyến du lịch làm quen cho các chủ hãng du lịch, nhà báo, phóng viên, các nhân vật nổi tiếng vào thăm tìm hiểu, làm quen với sản phẩm du lịch của Hà Nội. Đây là lực lượng quan trọng giúp chúng ta khuếch trương, quảng bá các sản phẩm du lịch ra nước ngoài một cách hữu hiệu nhất, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm, hội thảo, các tổ chức quốc tế về khu vực cũng như mở văn phòng đại diện ở nước ngoài. 3.2.4. Tăng cường đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn Thủ đô Bất cứ ngành kinh tế nào muốn phát triển nhanh chóng cũng cần có sự đầu tư vốn thỏa đáng, ngành du lịch Hà Nội cũng vậy. Trên cơ sở quy hoạch du lịch, thành phố cần tính toán lượng vốn cần thiết để đầu tư. Lý luận và kinh nghiệm đầu tư du lịch của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đầu tư vốn cho du lịch Hà Nội là đầu tư phát triển, nhằm tăng cường cơ sở vất chất kỹ thuật - công nghệ theo hướng hiện đại cho ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô. Đầu tư cho du lịch Hà Nội bao gồm: Đầu tư trực tiếp cho ngành du lịch Hà Nội và đầu tư gián tiếp cho các ngành khác có liên quan đến du lịch Hà Nội. Trong thời gian tới, chính quyền thành phố cần có quan điểm và theo đó là cơ chế, chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn cho phát triển du lịch Hà Nội. Để có được một nguồn vốn đủ mạnh để đầu tư, thành phố cần có cơ chế, chính sách huy động vốn theo hướng đa dạng về nguồn vốn trong nước và quốc tế. - Nguồn vốn từ ngân sách: Nguồn vốn này hiện nay tuy chưa lớn, nhưng rất quan trọng mang tính định hướng, có tác dụng thúc đẩy các nguồn vốn khác. Thành phố nên dành khoảng 20-30% ngân sách do ngành du lịch đóng góp để đầu tư trực tiếp cho ngành du lịch Hà Nội. - Nguồn vốn tư nhân: cần tiếp tục có cơ chế và quyết sách mạnh mẽ hơn về đất đai, vốn, thuế để khuyến khích các doanh nghiệp du lịch tư nhân thuộc các thành phần kinh tế, hăng hái đầu tư vốn vào lĩnh vực du lịch phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. - Nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, chính phủ, phi chính phủ theo hình thức viện trợ song phương hoặc đa phương, chính phủ và Thành phố cần dành một phần cho đầu tư phát triển du lịch. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho du lịch Hà Nội: Trong thời gian tới, trên cơ sở quy định mới về phân cấp thẩm định và cấp phép vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước. Thành phố và Sở Kế hoạch Đầu tư cần tiếp tục đổi mới về cơ chế theo hướng: thông thoáng, thuận lợi và hấp dẫn hơn để có thể thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI vào các lĩnh vực của Hà Nội trong đó có lĩnh vực du lịch dưới nhiều hình thức đa dạng, kể cả đầu tư vào các khu du lịch, khu vui chơi giải trí và lữ hành. Khẩn trương hoàn tất các thủ tục để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, đưa các công trình đang xây dựng vào kinh doanh. Cần hướng việc huy động vốn từ các tập đoàn, các công ty mạnh trong khu vực và trên thế giới. Để thu hút nguồn vốn đầu tư cho ngành du lịch Hà Nội từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, trước mắt Thành phố cần có kế hoạch ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch, rút ngắn thời gian làm thủ tục cho thuê đất, định giá, rút ngắn tối đa thời gian bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư triển khai tức thời. Trong kế hoạch, chương trình và dự án đầu tư vốn xây dựng kết cấu hạ tầng, thành phố cần có sự phân chia vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân nói chung và phần vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho du lịch trên địa bàn Hà Nội, coi trọng hay ưu tiên cho những kết cấu hạ tầng liên quan đến việc tạo thuận lợi cho khai thác toàn diện và có hiệu quả tại các điểm, các khu du lịch ở Hà Nội. Để tránh thất thoát vốn hoặc bỏ ngỏ trong xây dựng, trong chính sách đầu tư vốn nhà nước và thành phố cần thực hiện tốt sự phân công, phân nhiệm hợp lý giữa các ngành, các cấp có liên quan, nhất là ngành điện, nước, giao thông, môi trường, ngành văn hóa và ngành du lịch thành phố và các vùng phụ cận. Việc cải tạo nâng cấp, xây mới cơ sở vật chất kỹ thuật cần theo các hướng sau: - Cải tạo nâng cấp và xây mới thêm các khách sạn mới đạt tiêu chuẩn quốc tế chất lượng cao (từ 3 sao trở lên), để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội. Bên cạnh đó, mức sống của người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, nên nhu cầu chi trả của khách du lịch nội địa đến Hà Nội về các dịch vụ trong đó có dịch vụ lưu trú cũng tăng lên. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, Hà Nội sẽ đón khoảng 2 triệu lượt khách quốc tế và khoảng 5-7 triệu lượt khách nội địa, thì việc cải tạo, nâng cấp, xây mới thêm khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế là một tất yếu khách quan. - Nâng cao sức cạnh tranh của các công ty du lịch lữ hành, các công ty này giữ một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch, nó phản ánh một cách trung thực nhất trong việc đưa một tài nguyên du lịch ở dạng tiềm năng thành một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh được thị trường chấp nhận. Nó cũng cho thấy mức độ liên kết của các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch. - Hỗ trợ về vốn và mức thuế ưu đãi: Thành phố nên có chính sách vốn vay ưu đãi ở mức trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp mới được thành lập. Cần nghiên cứu thay biện pháp ký quỹ bằng tiền mặt 250 triệu đồng đối với các công ty lữ hành quốc tế nên thay thế bằng một quy định hợp lý hơn. Có sự ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp thời gian đầu hoạt động, nên xác định những dịch vụ nào được coi là xuất khẩu tại chỗ, để có một chính sách thuế ưu đãi phù hợp, giống như các mặt hàng xuất khẩu thông thường khác. - Hỗ trợ xúc tiến và tiếp cận thị trường: Sở Du lịch nên kết hợp với Sở Thương mại, tổ chức các hội chợ thương mại cho các ngành nghề, các doanh nghiệp trong nước và quốc tế giới thiệu các sản phẩm hàng hóa, ký kết các hợp đồng kinh tế; Hội nghị, Hội thảo, Hội chợ du lịch quốc tế thường niên, mục đích tạo cơ hội cho các doanh nghiệp du lịch của thành phố có điều kiện tiếp xúc với các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước, mở rộng cơ hội giao lưu, quảng bá sản phẩm, tiếp cận thị trường quốc tế. Kết hợp với Hội hữu nghị với các nước của thành phố Hà Nội và của Trung ương tổ chức các buổi giao lưu giới thiệu văn hóa và tiềm năng của du lịch Hà Nội với bạn bè quốc tế. Kết hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức các chuyến khảo sát đến các thị trường tiềm năng cho chánh, phó giám đốc các hãng lữ hành trên địa bàn Thủ đô. - Hỗ trợ công nghệ: thực tế cho thấy, hiện nay, công nghệ thông tin đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ, như: Đặt chỗ qua mạng, xử lý các số liệu kinh doanh, điều tra nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp nào càng tiếp cận nhanh với công nghệ hiện đại thì lợi nhuận thu được càng lớn. Vì vậy, Sở du lịch nên có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nhập khẩu hay chuyển giao công nghệ mới từ các nước phát triển, đồng thời nên kết hợp với khoa Điện tử-Tin học trường Đại học Bách khoa và các Viện nghiên cứu, mở các cuộc thi viết các phần mềm về du lịch với giải thưởng cao để khuyến khích việc huy động chất xám từ đội ngũ trí thức trong nước. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO). - Đa dạng hóa các phương tiện vận chuyển khách du lịch, để rút ngắn thời gian đi lại, tăng thời gian nghỉ ngơi của du khách, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường du lịch, cần phát triển nhanh đa dạng hệ thống giao thông và phương tiện vận chuyển. + Mở thêm các đường bay quốc tế từ Hà Nội tới các thành phố lớn trên thế giới để thu hút khách du lịch có khả năng thanh toán cao. + Tăng cường khả năng khai thác khách du lịch tàu biển từ Hải Phòng, Quảng Ninh bằng các phương tiện vận chuyển hiện đại nhanh chóng. + Tổ chức khai thác thị trường khách du lịch Trung Quốc, Nga bằng đường sắt liên vận, bằng đường bộ. + Nâng cấp xây dựng các khu vui chơi giải trí, thực tế trong những năm gần đây lượng khách du lịch đến Hà Nội tăng nhanh nhưng các dịch vụ vui chơi giải trí tốc độ tăng không tương xứng với lượng khách du lịch. Với mục tiêu thu hút khách du lịch quốc tế khoảng 1,6-2triệu lượt khách và 5-7 triệu lượt khách du lịch nội địa vào năm 2010, thì việc nâng cấp, xây mới các khu vui chơi giải trí là một tất yếu khách quan. Để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, du lịch Hà Nội cần phải: Thành phố tiếp tục đầu tư nâng cấp, xây dựng mới theo các dự án đã có trong kế hoạch phát triển sản phẩm du lịch Hà Nội, nhanh chóng đưa các sản phẩm du lịch đã được xây dựng đi vào hoạt động như: Khu vui chơi giải trí Mễ Trì với trị giá trên 200 triệu USD, được xây dựng hiện đại, quy mô lớn nhất Thủ đô phục vụ khách du lịch các tỉnh phía Bắc, khách du lịch quốc tế. Khu nghỉ ngơi cuối tuần Sóc Sơn với trị giá 200 tỷ đồng, công trình này bao gồm: các khu nghỉ dưỡng kết hợp với các công trình vui chơi nhẹ nhàng, gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Thành phố Hà Nội, cần phải tôn tạo, bảo vệ và nâng cấp các công trình sẵn có, đặc biệt là các di tich lịch sử, văn hóa, cảnh quan trọng điểm. Một vấn đề đặt ra là việc trùng tu, tôn tại như thế nào mà vẫn giữ được các giá trị nguyên bản của di tích. Trong thực tế nhiều công trình di tích lịch sử, văn hóa có giá trị sau khi trùng tu đã bị biến đổi làm mất đi toàn bộ hình ảnh ban đầu. Khu dịch vụ du lịch Cổ Loa (Đông Anh) trị giá 300 tỷ đồng. Đây là khu di tích nổi tiếng có một không hai của cả nước, cho phép khai thác các khía cạnh lịch sử, huyền thoại thể hiện truyền thống giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt Nam. Về việc kè hồ Tây, song song với việc xây dựng kè, nhà nước cũng tiến hành đồng thời đầu tư nâng cấp các sản phẩm du lịch quanh hồ Tây gồm: các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh, các làng nghề cổ khu vực quanh hồ Tây, xây dựng các sản phẩm đặc trưng của hồ Tây, vừa kết hợp truyền thống dân tộc với hiện đại có sự kế thừa có chọn lọc. Biến hồ Tây và các làng xung quanh hồ thành khu du lịch đặc sắc của Thủ đô có sức thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Xây dựng tuyến du lịch sông Hồng trị giá 50 tỷ đồng, nhằm hình thành một chương trình du lịch cho phép khai thác các điểm du lịch các khu du di tích lịch sử cách mạng, các làng nghề truyền thống đặc sắc theo tuyến sông Hồng trong vài năm tới. Cải tạo cơ sở hạ tầng xã hội (nhất là cơ sở hạ tầng giao thông đến các điểm du lịch), mở rộng và tạo ra những loại hình dịch vụ vui chơi giải trí độc đáo, mới lạ. Nâng cấp các công viên vui chơi giải trí hiện có theo từng chuyên đề, phục vụ thích ứng với từng đối tượng. Chẳng hạn như: Công viên tĩnh, công viên văn hóa phục vụ nghỉ ngơi thư giãn, nghiên cứu…, công viên động và hiện đại phục vụ cho tầng lớp thanh thiếu niên và du khách quốc tế. Tiếp tục triển khai Dự án đầu tư tái tạo, khai thác các khu phố cổ Hà Nội; Hoàn thiện đường phố ẩm thực; Hoàn thiện phố đi bộ, chợ đêm; Khôi phục một số làng nghề, làng cổ xung quanh Hà Nội biến nó thành các điểm du lịch, khu du lịch. 3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch được hiểu là toàn bộ những hoạt động để duy trì và đưa chất lượng dịch vụ lên mức cao hơn trước, nhằm thỏa mãn những trông đợi của khách du lịch, xã hội và đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Việc nâng cao chất lượng dịch vụ luôn là yếu tố quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp du lịch thể hiện ở chỗ Ban giám đốc phải xác định được bốn nguyên tắc cơ bản của việc nâng cao chất lượng dịch vụ: Một là, xác định chất lượng là trước hết chứ không phải lợi nhuận là trước hết. Các doanh nghiệp cần xác định mục tiêu của mình được bắt đầu bằng lợi ích của dịch vụ đem lại cho khách hàng chứ không phải bằng lợi nhuận tài chính. Điều này được thể hiện rất rõ trong mô hình quản lý mới, mô hình hướng tới chất lượng, coi thỏa mãn khách hàng là mục tiêu cao chất lượng của một tổ chức. Mọi tác động của quản lý đều phải hướng về khách hàng, chứ không phải hướng về người sản xuất. Hai là, coi trọng chất lượng đội ngũ lao động, cần áp dụng các biện pháp thích hợp để huy động hết tài năng của mọi người, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Nâng cao chất lượng dịch vụ phải được giải quyết một cách tổng thể, đầy đủ các mặt các khâu, mọi nơi, mọi lúc của quá trình hình thành chất lượng, từ việc nghiên cứu nhu cầu, trông đợi của khách hàng để định ra các chỉ tiêu chất lượng dịch vụ, đến việc thiết kế, sản xuất cung ứng dịch vụ. Ba là, kiểm tra với mục đích hạn chế và ngăn chặn sai sót, tìm ra biện pháp khắc phục, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Trên cơ sở các nguyên tắc này, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ thích hợp với các nội dung: - Cam kết của toàn thể doanh nghiệp từ lãnh đạo cao nhất đến mọi nhân viên về tính cấp thiết phải nâng cao chất lượng dịch vụ. Sử dụng các chính sách để huy động mọi người tích cực tham gia vào phong trào cải tiến chất lượng. - Xác định các yếu tố cấu thành chất lượng, đo lường chi phí của chất lượng để cân đối giữa chất lượng và hiệu quả. Các yếu tố cấu thành chất lượng:  Sự đa dạng của các loại hình dịch vụ. Nói đến sự đa dạng, của các loại hình dịch vụ là nói đến số lượng, chủng loại nhiều hay ít của hệ thống các dịch vụ cung cấp. Sự đa dạng đem lại cho khách nhiều cơ hội lựa chọn. Với mỗi khu vực dịch vụ thì sự đa dạng được thể hiện theo những góc độ khác nhau. Nếu như ở khu vực dịch vụ lưu trú đó là số lượng phòng, cơ cấu phòng và các mức giá khác nhau, thì ở khu vực ăn uống đó là sự phong phú của thực đơn về số lượng cơ cấu và định xuất ăn linh hoạt, hay khu vực lữ hành là số lượng tuyến, chương trình du lịch và sự đa dạng của các chương trình trên một tuyến.  Chất lượng của các điều kiện thực hiện dịch vụ. Đây là yếu tố thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng của nó chính là một phần của chất lượng của chính bản thân các trang thiết bị, mặt khác chính là sự đồng bộ và tổ chức hợp lý đảm bảo sự thuận lợi cho cả quá trình phục vụ của người lao động và thuận lợi cho khách trong cả quá trình tiêu dùng. Vị trí của cơ sở vật chất cũng được coi là yếu tố tạo nên chất lượng của điều kiện thực hiện dịch vụ. Tuy nhiên điều này phụ thuộc vào mỗi đối tượng khách, có khách thích ở khu trung tâm, có khách thích ở nơi vắng vẻ yên tĩnh.  Chất lượng của đội ngũ lao động. Với đặc thù sản phẩm là dịch vụ, sản phẩm du lịch do yếu tố con người tạo ra là chính. Một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, dù có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phong phú và hiện đại đến mấy nhưng đội ngũ lao động lại tỏ ra yếu kém thì vẫn không đảm bảo được chất lượng dịch vụ. Chất lượng của đội ngũ lao động, được đánh giá chủ yếu vào trình độ của lao động (trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ học vấn, trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, tinh thần thái độ trong phục vụ đối với khách hàng và tinh thần tập thể trong thực hiện công việc) 3.2.6. Nâng cao trình độ nhân lực làm du lịch ở Hà Nội Nâng cao trình độ, năng lực của nguồn nhân lực làm công tác du lịch có ý nghĩa sống còn để phát triển du lịch Thủ đô thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cần phải có chương trình đào tạo toàn diện, với những kế hoạch cụ thể về đào tạo mới và đào tạo lại, nâng cao kiến thức và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên hiện đang công tác trong ngành thuộc các khu vực nhà nước, liên doanh, tư nhân. Những hướng chính của chương trình trên bao gồm: - Điều tra phân loại trình độ nghiệp vụ của toàn thể nhân viên và lao động đang làm việc trong ngành du lịch của thành phố. Kết quả điều tra sẽ cho phép vạch ra một kế hoạch đào tạo cụ thể các cấp trình độ chuyên ngành (đào tạo lại và đào tạo mới) đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay. - Tiến hành chương trình đào tạo lại (đào tạo bổ túc, đào tạo tại chức) lao động trong các ngành du lịch ở Hà Nội, ở các cấp độ khác nhau. Các lớp ngắn hạn theo chương trình trên sẽ được tổ chức định kỳ phục vụ mọi đối tượng doanh nghiệp du lịch của thành phố. Các giáo viên sẽ là các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong ngành và các chuyên gia từ các trường đại học trong nước, nước ngoài. - Khuyến khích đào tạo trình độ đại học và trên đại học về du lịch. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt góp phần vào sự nghiệp đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Có kế hoạch cử các cán bộ trẻ có trình độ, có năng lực sang các nước phát triển để đào tạo đại học, sau đại học. - Tăng cường hợp tác trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ thông qua các chuyến công tác, khảo sát và tham gia hội nghị, hội thảo ở các nước có ngành du lịch phát triển. 3.2.7. Đổi mới tổ chức quản lý và nâng cao năng lực của các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn Để phát triển du lịch ngày càng lớn mạnh, thì các doanh nghiệp du lịch có vai trò quan trọng đặc biệt. Do đó, cần tiếp tục củng cố và tăng cường năng lực hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện có. Trong thời gian tới, đối với các doanh nghiệp chưa có điều kiện tiến hành cổ phần hóa hoặc liên doanh liên kết, cần tổ chức sắp xếp lại trong nội bộ mỗi doanh nghiệp theo hướng mạnh và tinh gọn, thông qua học tập đào tạo, bồi dưỡng ngắn hoặc dài hạn, đào tạo tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo, thi tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao năng suất lao động, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh, tăng cường khả năng thu hút khách, kéo dài thời gian lưu trú. Trên cơ sở đó doanh thu tăng, nộp ngân sách cho nhà nước cũng tăng theo. Đối với các doanh nghiệp có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hóa thì tiến hành cổ phần hóa càng sớm càng tốt. Tìm kiếm các đối tác mạnh trên thị trường du lịch quốc tế cùng với các doanh nghiệp du lịch nhà nước, hình thành các công ty liên doanh du lịch lớn và hiện đại theo luật đầu tư nước ngoài. thông qua liên doanh liên kết, góp phần xây dựng hình ảnh các doanh nghiệp, các hãng du lịch của Hà Nội tiên tiến trên trường quốc tế. Từng bước hình thành các công ty, các hãng có thể độc lập tự chủ trong kinh doanh, xúc tiến các hoạt động trên các thị trường quan trọng. Trước mắt, tập trung hình thành 1 đến 2 doanh nghiệp lữ hành và 1 đến 2 doanh nghiệp vui chơi giải trí. Nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp du lịch, khuyến khích các doanh nghiệp du lịch nghiên cứu cải tiến và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ với chất lượng ngày càng cao, trên cơ sở nghiên cứu thị trường thật cụ thể dựa trên nguyên tắc "bán những cái khách hàng cần, chứ không phải bán cái mình có". Tất nhiên trong kinh doanh du lịch, thì câu nói này không hoàn toàn phải là như vậy, bởi lẽ nếu làm tốt công tác xúc tiến quảng bá du lịch, khi khách du lịch đến Hà Nội, những sản phẩm du lịch mới của Hà Nội mà họ chưa biết tất yếu du khách sẽ nảy sinh nhu cầu mới. Trong trường hợp này lại có một nguyên tắc khác "chúng ta bán sản phẩm mà chúng tá có", nếu sản phẩm đó mang tính đặc thù và làm tốt công tác quảng bá, tiếp thị. Các doanh nghiệp du lịch dựa trên cơ chế chính sách nhà nước cho phép và vận dụng hết sức sáng tạo vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực có năng lực hoàn thành tốt nhất chức năng và nhiệm vụ được phân công, thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm việc thực hiện quy trình nghiệp vụ, đi đôi với việc nhận thông tin phản hồi từ phía khách hàng, khắc phục nhanh những hạn chế yếu kém, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bất kể khó khăn vướng mắc nào trong khâu phục vụ có liên quan đến các ngành khác thì phải ngồi bàn bạc, tháo gỡ để có phương thức và biện pháp giải quyết phù hợp. Chẳng hạn, khách phàn nàn về trật tự an toàn xã hội trong khu vực khách sạn, thì doanh nghiệp du lịch phải phối hợp với cơ quan công an địa phương để giải quyết. Việc duy trì quan hệ tốt với các ngành có liên quan, các nhà cung cấp dịch vụ là yếu tố quan trọng của việc giữ và nâng cao chất lượng của ngành du lịch. Cùng với các biện pháp cụ thể về nâng cao chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm du lịch, một mặt các doanh nghiệp cần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xây dựng định mức chi phí hợp lý, thực hiện giảm giá bán sản phẩm du lịch. Mặt khác, trên cơ sở vận dụng văn bản mới của chính phủ về việc thống nhất một giá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh nói chung không phân biệt về mức giá điện, nước, điện thoại, phấn đấu giảm giá thành du lịch, tăng sức cạnh tranh, thu hút ngày càng nhiều du khách đến du lịch. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, cần tiếp tục đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, kiện toàn tổ chức bộ máy hiện có, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý, sát nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, cổ phần hóa các doanh nghiệp khi đã hội tụ đầy đủ các điều kiện. Các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, cần rà soát lại toàn bộ cơ cấu tổ chức, đội ngũ lao động, tránh tình trạng nơi thừa, nơi thiếu lao động. Công tác tuyển dụng cần được thực hiện chặt chẽ, đúng nguyên tắc, lựa chọn chính xác, sử dụng đúng năng lực người lao động. Thường xuyên kiểm tra chất lượng, hiệu quả công việc của từng người, cử người đi học những khóa bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, tiếp thu ứng dụng kỹ thuật mới để tránh bị tụt hậu, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch và những người quản lý lữ hành, khách sạn, marketing du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách ngày càng tốt hơn. Để nâng cao công tác và năng suất lao động du lịch, các trường đào tạo về du lịch cần: Thứ nhất, tăng cường đối thoại trực tiếp giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo, thông qua các buổi tọa đàm, trao đổi, giao lưu thường xuyên giữa những người quản lý doanh nghiệp với các người quản lý đào tạo, giảng dạy và các sinh viên chuyên ngành. Trong đó các doanh nghiệp cung cấp cho cơ sở đào tạo những thông tin về doanh nghiệp, của ngành, làm cơ sở cho việc tổ chức đào tạo của các cơ sở đào tạo. Đây là nhân tố đảm bảo sự phù hợp giữa các cơ sở đào tạo với nhu cầu của thị trường cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu. Tránh tình trạng đào tạo tràn lan dẫn đến vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa vì quy mô đào tạo quá lớn vượt nhu cầu của thị trường, thiếu vì chất lượng đào tạo không đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, đây cũng là một hoạt động nhằm định hướng nghiên cứu và tiếp cận thực tiễn cho sinh viên chuyên ngành, đồng thời cũng khẳng định rằng: nội dung, chương trình, đào tạo đại học du lịch cần phải có sự tham gia của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp du lịch có thể tham gia vào đào tạo của các cơ sở đào tạo dưới hai hình thức: - Về chương trình: Bên cạnh việc xây dựng khung chương trình đào tạo cơ bản, theo yêu cầu đào tạo chung (phần cứng), các cơ sở đào tạo cần một phần mềm cho việc điều chỉnh theo yêu cầu của chuyên ngành và của thị trường. Trên thực tế các cơ sở đào tạo là các khoa chuyên ngành và chương trình đào tạo nằm trong khung chương trình của nhà trường nên còn thiếu phù hợp với yêu cầu của ngành. Xin đơn cử một ví dụ về chương trình học ngoại ngữ. Theo khung chương trình chung, mọi chuyên ngành đều học một khối lượng như nhau về học ngoại ngữ trong khi yêu cầu của xã hội đối với sinh viên du lịch ra trường về ngoại ngữ lại cao hơn. - Về giảng dạy: Các cơ sở đào tạo hệ đại học nên mời các nhà quản lý tham gia vào quá trình giảng dạy với tư cách là những người kiêm giảng, để các em sinh viên có thể trực tiếp trao đổi, thảo luận, cách giải quyết các vấn đề trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó các em sinh viên sẽ học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm từ các nhà quản lý, rất bổ ích cho các em sau khi ra trường cọ xát với thực tế. Các cơ sở đào tạo nghề nên mời các nghệ nhân, đó là điều cần thiết vì có nhiều nội dung học nếu thực hiện "chay" trên lớp hoặc được hướng dẫn bởi những giáo viên bình thường, các em sẽ rất khó hình dung, lúng túng khi thao tác nhưng lại dễ dàng nắm bắt khi được thực hiện trong môi trường thực tế. Thứ hai, tăng cường phối hợp trong việc chỉ đạo và hướng dẫn thực tập tốt nghiệp. Đây là môi quan hệ không thể thiếu, bởi lẽ đây chính là khoảng thời gian quan trọng để sinh viên vận dụng lý thuyết với thực tế. Đây chính là khoảng thời gian chuẩn bị những kiến thức thực tế cho các em khi đi làm. Vấn đề này từ trước đến nay chưa được nhà trường, các doanh nghiệp du lịch và đặc biệt là các em sinh viên xem nhẹ. do những nguyên nhân sau đây: - Phía các cơ sở đào tạo; chưa có sự liên hệ chặt chẽ với các cơ sở thực tập trong việc xây dựng kế hoạch hướng dẫn và chỉ đạo thực tập. Bản thân giáo viên được phân công hướng dẫn, cũng bỏ mặc cho sinh viên muốn thực tập kiểu gì thì thực tập, không kiểm tra đôn đốc. Sự tiếp xúc trao đổi của giáo viên hướng dẫn với cơ sở thực tập cũng gần như không có. - Phía các doanh nghiệp: Nhiều doanh nghiệp ngại, thậm chí có doanh nghiệp từ chối tiếp nhận sinh viên thực tập tại cơ sở của mình. Không muốn để sinh viên tiếp xúc với thực tế doanh nghiệp vì sợ bị lộ các bí mật trong kinh doanh. Mặt khác vì là sinh viên chưa có kinh nghiệm nên họ sợ làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp, do đó cũng không mặn mà với học sinh thực tập, sinh viên đến thì cung cấp số liệu, miễn tham gia vào cá công việc thực tế. Từ những tồn tại trên đã dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên bị buông lỏng quản lý, lơ là trong thực tập dẫn đến tình trạng tiêu cực trong quá trình làm chuyên đề tốt nghiệp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đào tạo. Để đảm bảo sự kết hợp có hiệu quả và đạt chất lượng, đòi hỏi một số công việc sau: Các cơ sở đào tạo cần xây dựng kế hoạch thực tập chi tiết về nội dung, yêu cầu, tiến độ, để các cơ sở nơi tiếp nhận các sinh viên thực tập nắm được và có kế hoạch phối hợp. Đồng thời các giáo viên hướng dẫn cần phải có sự liên hệ chặt chẽ với các cơ sở để phối hợp thực hiện và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế khi cần thiết. Với các doanh nghiệp: triển khai kế hoạch của cơ sở đào tạo thành kế hoạch cụ thể để phối hợp thực hiện, xây dựng kế hoạch thực tập tại các bộ phận, cử người hướng dẫn. Điều này vừa đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, vừa đảm bảo thực hiện nghiêm túc nội dung, yêu cầu thực tập. Kết luận Cùng với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, trong những năm qua du lịch Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, điều đó được thể hiện qua các chỉ tiêu về số lượt khách du lịch, doanh thu và nộp ngân sách đều tăng qua các năm, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, rồi sau đó tiến tới cơ cấu dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp (ngành dịch vụ tăng lên mau chóng, ngành nông nghiệp giảm dần về tương đối nhưng tuyệt đối vẫn tăng), tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động Thủ đô và các vùng phụ cận Hà Nội, góp phần giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho nhân dân qua khách du lịch nội địa và giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hóa nghìn năm văn hiến của thủ đô Hà Nội cho du khách quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, du lịch Hà Nội còn nhiều tồn tại và hạn chế. Nguyên nhân thì có nhiều, song theo tôi, nguyên nhân chủ yếu là sự nhận thức chưa thật đúng về vai trò của ngành kinh tế du lịch nhất là du lịch của Thủ đô nên chậm có chủ trương, chính sách, cơ chế kịp thời đưa du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn. Những tồn tại, hạn chế này đã nảy sinh từ những mâu thuẫn đã và đang cản trở tiến trình hội nhập và phát triển của du lịch Hà Nội, cần được giải quyết trong thời gian tới. Để phát triển du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô. Điều quan trọng bậc nhất là phải nắm vững và vận dụng một cách sáng tạo các quan điểm, đường lối phát triển du lịch của Đảng ta, nhất là các quan điểm phát triển du lịch được nêu ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X; Trong các văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIII, XIV. Cần thấu suốt các quan điểm như: Phát triển du lịch bền vững nhằm đạt mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh. Đặt sự phát triển kinh tế du lịch Hà Nội trong tổng thể phát triển của các ngành, nhất là các ngành có liên quan đến phát triển du lịch, dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần, huy động mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia đầu tư, phát triển du lịch. Gắn lộ trình phát triển du lịch Hà Nội với việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lộ trình này được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 2001- 2005 là giai đoạn tạo dựng xong những điều kiện cần và đủ để đưa du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn; Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn hoàn thành về cơ bản việc đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặt du lịch Hà Nội với tư cách là một ngành kinh tế của Thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Tính hiện thực của việc đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong vài năm tới, trên mức độ lớn phụ thuộc vào việc thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời và cương quyết các nhóm giải pháp như: Thống nhất về nhận thức; phát triển thị trường và xúc tiến du lịch; Nắm vững các đặc điểm thị trường khách du lịch; tăng số lượng, chất lượng sản phẩm du lịch; huy động và sử dụng vốn đầu tư; Nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch; nâng cao chất lượng và hiệu lực quản lý nhà nước của Sở Du lịch Hà Nội về lĩnh vực du lịch trên địa bàn thành phố. Du lịch Hà Nội đang đứng trước những cơ hội và thách thức, trong quá trình hội nhập vào các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tiễn đòi hỏi vừa phải nắm bắt cơ hội lại vừa phải vượt qua thách thức. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa cơ hội và thách thức là ở chỗ quá trình vượt qua thách thức chính là quá trình nắm bắt cơ hội. Đó chính là bí quyết làm cho du lịch Hà Nội có thể đứng vững và dành thắng lợi trong cạnh tranh trên thương trường du lịch trong nước và quốc tế, đưa du lịch Hà Nội nhanh chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Để góp phần thúc đẩy phát triển du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần có sự hỗ trợ của các cấp, các ngành hữu quan. Tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau: Đối với Chính phủ: Thành lập cảnh sát du lịch để đảm bảo an toàn cho khách du lịch, đồng thời phối hợp với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, công an biên phòng, hải quan, an ninh văn hóa tư tưởng để kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi không đúng mực của du khách bảo vệ an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia. Đối với thành phố Hà Nội: Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần có những quyết sách mạnh mẽ và kịp thời hơn để sớm đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nhà nước và thành phố cần thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay vốn tín dụng đối với ngành du lịch như đối với ngành sản xuất khác đã được ưu tiên. Đối với Tổng cục Du lịch: Đề nghị Tổng cục Du lịch nghiên cứu đề xuất với nhà nước ban hành chính sách khuyến khích những người có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, những nghệ nhân, những bộ phận lao động có tính đặc thù, yên tâm công tác, hăng hái cống hiến tài năng cho ngành, nhằm khắc phục hiện tượng "chảy máu chất xám" cho ngành, như đã xảy ra mấy năm qua. Ví dụ: Các cán bộ điều hành tour giỏi, các cán bộ marketing giỏi, các chuyên gia bếp bậc cao, các nghệ nhân nấu ăn. Đối với Bộ Tài chính: Nghiên cứu lại cách tính thuế VAT cho phù hợp với kinh doanh du lịch, lữ hành, vận chuyển khách du lịch, cũng như cách tính thuế kinh doanh khách sạn, nhà hàng, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, và các trường nghề: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới nội dung phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch phù hợp với tình hình mới. Chẳng hạn như: Thường xuyên có mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường với các cơ sở kinh doanh du lịch và ngược lại, nhà trường đào tạo cái mà các cơ sở đang cần để sau khi các em ra trường về các cơ sở kinh doanh là làm việc được ngay, đồng thời qua đó các cơ sở kinh doanh cũng đánh giá được chính xác uy tín và thương hiệu của các trường đại học. Tránh tình trạng như hiện tại rất nhiều sinh viên của các trường đại học sau khi tốt nghiệp các chuyên ngành về du lịch, khi làm việc tại cơ sở thì công việc chuyên môn rất yếu gần như không thể làm được, các cơ sở đành phải sắp xếp những công việc cụ thể (công việc nghề), xong cũng không thể tốt bằng các em được đào tạo từ các trường nghề. Đối với Bộ Ngoại giao - Bộ Công an: Nghiên cứu việc cấp Visa cửa khẩu tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch. thực tế có nhiều khách ở rất xa các cơ quan ngoại giao cấp thị thực của ta ở nước ngoài hoặc khách đi du lịch ở nước khác trên đường đi lại có ý định đến tham quan Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống kỹ thuật nghiệp vụ, đảm bảo việc cấp visa cho khách thuận lợi, nhưng không để sót các đối tượng có động cơ xấu. Hoàn thiện hệ thống quản lý khách lưu trú tại khách sạn với các thủ tục nhanh gọn nhưng chặt chẽ, vừa đảm bảo an toàn cho khách, vừa đảm bảo được các yêu cầu về an ninh trật tự an toàn xã hội. danh mục tài liệu tham khảo 1. Mai Văn Bưu, Phan Kim Chiến (2001), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2. Chính phủ (2002), Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển du lịch, Hà Nội. 3. Phạm Quang Duy (2002), "Thương hiệu du lịch Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập du lịch quốc tế", Du lịch Việt Nam, (2), tr. 33, 36. 4. Đảng bộ thành phố Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Đính (2004), "Để thắng lợi trong cạnh tranh", Du lịch Việt Nam, (2), tr. 30-31. 8. Nguyễn Văn Đính (2004), Giáo trình Kinh tế du lịch, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh (2000), "Kinh nghiệm đào tạo cho du lịch Việt Nam từ các nước liên minh châu Âu", Du lịch Việt Nam, (11), tr. 18-19, 23. 10. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh (2001), Giáo trình Tâm lý và nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 11. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Tuấn Anh (2006), "Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam", Du lịch Việt Nam, (11), tr. 65-66. 12. Hà Nội trung tâm du lịch của Việt Nam (1996), Nxb Thế giới, Hà Nội. 13. Lê Hải (2006), Đào tạo nguồn nhân lực để hội nhập quốc tế trong du lịch, Du lịch Việt Nam, (11), tr. 19-20. 14. Nguyễn Huy Hiệu (2004), "Quốc phòng-An ninh tạo thuận lợi đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn", Du lịch Việt Nam, (2), tr. 4. 15. Hoàng Văn Hoan (2003), "Để du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn", Du lịch Việt Nam, (12), tr. 20. 16. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 17. Nguyễn Thành Hội (2004), Quản trị học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 18. Hội hữu nghị Việt - Pháp thành phố Hà Nội (2002), Hà Nội thành phố nghìn năm, Hà Nội. 19. Hà Văn Khương (2003), Kinh tế thị trường và du lịch trong nền kinh tế thị trường, Trung tâm quốc tế về đào tạo quản lý kinh tế, Hà Nội. 20. Đinh Trung Kiên (1999), "Đào tạo nhân lực trong du lịch, thực trạng và nhu cầu", Du lịch Việt Nam, (4), tr. 16. 21. Cảnh Lâm (1994), "Thế giới du lịch", Thời báo kinh tế Việt Nam, số Tết. 22. Nguyễn Quang Lân (2001), Một số giải pháp chủ yếu đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong tình hình mới, Tổng luận đề tài khoa học cấp thành phố, Hà Nội. 23. Nguyễn Văn Lê (1999), Tâm lý học du lịch, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 24. Nguyễn Văn Lưu (1998), Thị trường du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 25. Trần Hữu Nam (2003), Những giải pháp chủ yếu phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 26. Trần Ngọc Nam, Trần Huy Khang, Marketing du lịch, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 27. PV (2006), "Khuyến khích đầu tư xây dựng khách sạn cao cấp trên địa bàn Hà Nội", Du lịch Việt Nam, (7), tr. 27 -29. 28. Quốc hội (2005), Luật Du lịch, Hà Nội. 29. Bùi Tiến Quý (2001), Giao tiếp ứng xử trong hoạt động kinh doanh, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 30. Bùi Tiến Quý (2002), Phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 31. Sở Du lịch Hà Nội, Báo cáo Tổng kết từ năm 1995 đến 2006, Hà Nội. 32. Sở Du lịch Hà Nội - ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (1997), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố Hà Nội (1997-2010), Hà Nội. 33. Sở Du lịch Hà Nội (2002), Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn 2002-2010, Hà Nội. 34. Sở Du lịch Hà Nội (2005), Báo cáo Tổng kết thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2000-2005 và phương hướng 2006-2010 của ngành du lịch Hà Nội, Số 131/SDL-KHTH, Hà Nội. 35. Nguyễn Thắng (2003), "Kinh nghiệm bảo vệ môi trường du lịch", Du lịch Việt Nam, (11), tr. 24-25. 36. Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 37. Thành ủy Hà Nội (2006), Đề án phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn 2007-2015, Số 19- ĐA/TU, Hà Nội. 38. Tổng cục Du lịch Việt Nam (2001), Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Hà Nội. 39. Tổng cục Du lịch Việt Nam (2005), Báo cáo Tổng kết năm của ngành du lịch Việt Nam từ 2000-2005, Số1762,TCDL ngày 15/12/2005, Hà Nội. 40. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Du lịch, Hà Nội. trang web 41. www.galileo.com.vn,"Du lịch toàn cầu vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm 2005", ngày 4-12-2005. 42. www. Hanoitourrism.gov.vn. 43. www.Vietnamtourism.gov.vn, "Số liệu thống kê khách du lịch quốc tế trên thế giới", ngày 28-8-2006. tiếng pháp 44. Claude Kaspa và S.A.Gallen (1971), Magazine revue de tourisme, (2). mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện hiện nay 5 1.1. Tổng quan về du lịch và phát triển du lịch 5 1.2. Tiêu chí và vai trò của việc phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội 20 1.3. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và bài học rút ra 29 Chương 2: Thực trạng ngành du lịch Hà Nội thời gian qua và những vấn đề đặt ra 34 2.1. Điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch của Hà Nội 34 2.2. Thực trạng hoạt động du lịch ở Hà Nội 42 2.3. Đánh giá chung về hoạt động du lịch ở Hà Nội 54 Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển du lịch Hà Nội thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện hiện nay 63 3.1. Bối cảnh hiện nay và xu hướng phát triển du lịch trên địa bàn Hà Nội 63 3.2. Các giải pháp chủ yếu đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn 79 Kết luận 99 danh mục Tài liệu tham khảo 103 Danh mục các bảng Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1 Sản phẩm của một số tổ chức kinh doanh du lịch 9 2.1 Số di tích lịch sử đã xếp hạng của Hà Nội so cả nước 39 2.2 Số lượng và mật độ di tích được xếp hạng phân theo quận, huyện 40 2.3 Các di tích có giá trị đặc biệt về du lịch 41 2.4 Các cơ sở lưu trú trên địa bàn Hà Nội, 2000 - 2006 43 2.5 Số lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội 50 2.6 Cơ cấu khách quốc tế đến Hà Nội, 2002 - 2006 52 2.7 Số lượng khách du lịch nội địa đến Hà Nội 53 2.8 Công suất sử dụng phòng các khách sạn ở Hà Nội, 1996 - 2006 56 2.9 Doanh thu của các khách sạn, nhà hàng ở Hà Nội 1996 - 2005 57 2.10 Nộp ngân sách của các dịch vụ bổ sung, nhà hàng, khách sạn trên địa bàn Hà Nội, 1996 - 2006 58 3.1 Hiện trạng và dự báo tổng số khách quốc tế đến các khu vực trên thế giới - Giai đoạn 2000 - 2020 66 3.2 Dự báo số lượng khách du lịch đến Hà Nội, 2007 - 2010 71 3.3 Dự kiến số lượng buồng phòng cần sử dụng năm 2010 72 3.4 Dự báo nhu cầu lao động ngành du lịch Hà Nội 2007 - 2012 73 3.5 Dự báo doanh thu du lịch giai đoạn 2007 - 2010 73 Danh mục các hình Số hiệu hình Tên hình Trang 1.1 Các loại hình dịch vụ du lịch 7 3.1 Hiện trạng và dự báo lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới đến năm 2020 66 9 69

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội.pdf
Luận văn liên quan