Luận văn Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay

Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời 142 năm trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị và trở thành phổ biến ở các nước châu Â. Trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng kinh tế của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, phát triển những nhân tố khoa học và trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân. Chỉ ra cho nhân loại con đường phát triển tất yếu của lịch sử, hướng tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai, mọi người đều có quyền bình đẳng, được tự do đóng góp sức lực, trí tuệ để phát triển. Trong điều kiện của thế giới ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, một số nước tư bản phát triển đang phát huy, tận dụng để phát triển kinh tế tri thức, nhiều hình thức biểu hiện mới, nếu nhìn hình thức bên ngoài thì dường như nhiều luận điểm trong học thuyết của Mác, mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư đã lỗi thời, không phù hợp, không phản ánh được thực tế khách quan. Đồng thời, nhiều quan điểm, tư tưởng hoài nghi, mơ hồ nhằm mục đích xuyên tạc học thuyết Mác.

pdf150 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5658 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhìn từ góc độ tích cực cho thấy, nó thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật và phân công lao động xã hội, làm cho lực lượng sản xuất và năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nền sản xuất được xã hội hoá cao. Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không chỉ để hiểu bản chất của chủ nghĩa tư bản mà còn để vận dụng vào thực hiện quan điểm, đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân để xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn làm giàu trong điều kiện còn sản xuất hàng hoá thì phải tìm mọi cách để tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, thực chất của quá trình này nhằm nâng cao năng suất lao động để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xã hội. Trên tinh thần ấy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội X (2006) đã chỉ rõ: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước ở 30 C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, tr.873. -126- từng vùng, từng địa phương trong từng dự án kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta về thực chất là vận dụng những tri thức mới nhất của nhân loại vào tất cả các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, quản lý, kinh doanh và cả những quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị làm cho giá trị sản phẩm gia tăng nhanh, tiêu hao nguyên liệu, lao động giảm, hiệu quả, chất lượng tăng. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Kết hợp các nhiệm vụ cơ bản là chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế công nghiệp. Kết hợp tuần tự (công nghiệp hoá) với nhảy vọt (hiện đại hoá). Kết hợp một quá trình lồng ghép hệ thống công nghệ cũ với hệ thống công nghệ mới. Phát triển kinh tế tri thức, tận dụng thời cơ của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời phải vượt qua những khó khăn thách thức của quá trình này. Tất cả để hướng tới một quá trình công nghiệp hoá rút ngắn. Đối với phát triển kinh tế tri thức, quan điểm của chúng ta là sử dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn là phổ biến hơn những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại và tri thức mới. Từng bước nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng. Từ việc phân tích đặc điểm, hình thức biểu hiện và xu hướng phát triển của học thuyết giá trị thặng dư trong thời đại hiện nay. Đặt vào điều kiện lịch sử cụ thể của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Việt Nam hiện vẫn là một nước kém phát triển với GDP bình quân đầu người thấp (dự kiến 2009 = 840 USD). Số lượng lao động tri thức đạt 6 - 7% tổng số lao động. Trong bảng xếp hạng quốc tế về môi trường đầu tư, về trình độ phát triển công nghệ thông tin... Việt Nam vẫn còn ở thứ hạng rất thấp, tỷ lệ các ngành công nghệ cao chỉ chiếm 15,7%. Trong khi các quốc gia phát triển đã hoàn thành công nghiệp hoá và đang chuyển sang kinh tế tri thức, thì Việt Nam đang phải đối diện với cả hai quá trình này. Thực hiện các quan điểm phát triển của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam -127- khoá IX; khoá X đến nay, các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản, chính sách từ chỉ thị của Ban Bí thư, nghị quyết của Chính phủ, quy định của Thủ tướng Chính phủ đến các văn bản của các bộ, ngành, địa phương. Các văn bản này chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: - Chiến lược phát triển công nghệ thông tin Việt Nam đến 2010 và định hướng đến 2020, khoa học phát triển thương mại điện tử 2006-2010... - Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch đầu tư, những quy định về quản lý internet, về tín dụng điện tử, tài chính điện tử, quy định về thương mại điện tử, thanh toán điện tử liên ngân hàng, chuyển tiền điện tử, về bảo vệ bí mật nhà nước... Căn cứ vào những chỉ tiêu đánh giá về kinh tế tri thức của Ngân hàng Thế giới (WB), nếu so sánh với các nước phát triển của thế giới, với các nước Đông á, thì nói chung Việt Nam ở thứ hạng thấp, đặc biệt là về phát triển nhân lực về năng lực đổi mới công nghệ thông tin và truyền thông. Có thể thống kê một số chỉ tiêu cơ bản của Việt Nam. Biểu 1: Các chỉ số cơ bản của Việt Nam TT 2001 2003 2005 2010 1 Số PC* / nghìn dân 8,9 9,85 11,0 2 Tổng số điện thoại / nghìn dân 41,8 91,9 190 320+2,20 3 Số điện thoại di động 9,9 23,4 95 > 300 4 Số ti vi 180 185 190 > 200 5 Số người sử dụng trang web/nghìn dân - 4,9 6 Số người sử dụng internet 4,3% 12,9% 25-35% Thông qua các số liệu khái quát trên đây cho thấy, nước ta còn ở trình độ rất thấp của công nghệ thông tin. Tuy nhiên, số liệu ấy cũng đã cho thấy những điều * Máy vi tính loại điện toán cá nhân. -128- kiện ban đầu cần thiết cho từng bước phát triển kinh tế tri thức trong tương lai. Nếu so sánh với ASEAN + 3 (các nước Đông á) về các chỉ số công nghệ thông tin như cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin - vị thế Việt Nam thứ 9, 10 về chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin đứng thứ 7 và 9, nghĩa là thứ bậc thấp. Từ những vấn đề trên, định hướng và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hướng vào những giải pháp cụ thể sau đây: 3.2. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư, đề xuất những vấn đề để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 3.2.1. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ cao và phát triển kinh tế tri thức Hiện nay, Việt Nam phải đào tạo nguồn nhân lực vừa để phục vụ cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa để phát triển kinh tế tri thức. Như vậy, căn cứ vào yêu cầu cụ thể để định hướng phát triển nguồn nhân lực: Nếu để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì cần phải tập trung mạnh theo hướng giáo dục phổ thông và dạy nghề. Những vấn đề phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức thì phải tập trung hơn cho giáo dục cao đẳng, đại học. Mặc dù hai xu hướng phát triển đòi hỏi những nguồn lao động khác nhau, nhưng đều có điểm chung là: cần những lao động cho chuyên môn, kỹ năng, tay nghề cao; cần những lao động có nhiều khả năng sáng tạo trên nhiều lĩnh vực. Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức luôn là vấn đề đặt ra ngay cả với các nước phát triển; lý do là số người có năng khiếu về chuyên môn, kỹ thuật, về sáng tạo luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số lao động. Vì vậy, chỉ có những quốc gia có chiến lược đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài một cách thích hợp thì mới có thể phát huy được nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, những người lao động chất lượng cao này được phát huy tốt, thì chính họ sẽ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực lao động khác. -129- Hiện nay ở nước ta, nguồn lực lao động chất lượng cao (lao động trí thức) còn rất hạn chế, do vậy phải có chính sách đào tạo, sử dụng để tận dụng nguồn lực này một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, thu hút nguồn lực này từ nước ngoài về theo chúng tôi, hiện nay chúng ta nên kết hợp cả hai. Đối với đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Trong đó, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài khoa học và công nghệ là quan trọng nhất ở giai đoạn hiện nay và họ phải là nòng cốt trong sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam, nhất là phát triển công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn. Nhà nước ta cần phải ưu tiên sử dụng các nguồn tài chính từ hợp tác, tài trợ quốc tế, kể cả nguồn vốn ODA cho đào tạo lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên của quốc gia. Đào tạo nhân lực, nhân tài cho các ngành công nghệ cao. Đẩy mạnh việc thu nhận tri thức, nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, trao đổi thông tin, tri thức với bên ngoài, kích thích mạnh tính tích cực, sáng tạo của mọi người. Trong tiến trình hình thành kinh tế tri thức, việc sử dụng nhân tài có ý nghĩa đối với sự thành bại của doanh nghiệp, trên thực tế nó được quyết định bởi sự quản lý của con người. Cầu tài, nhận biết người tài, sử dụng người tài, chăm sóc người tài cần phải được chú trọng đối với mỗi một nhà qủan lý doanh nghiệp thành công. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo nhân lực trình độ cao. - Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy nghề thông qua các dự án. Xây dựng các dự án với một số nước phát triển và với các tổ chức quốc tế nhằm huy động được các nguồn lực để nâng cao được trình độ giáo viên, cán bộ quản lý, nghiên cứu, nâng cao cơ sở vật chất trang thiết bị. Mở rộng liên doanh, liên kết trong đào tạo, đặc biệt chú trọng đến việc đưa đi đào tạo nước ngoài đối với lực lượng lao động trong một số ngành nghề yêu cầu kỹ thuật cao. Đồng thời, mở rộng cơ hội để người lao động tự đi học tham dự các khoá đào tạo ở nước ngoài. - Tăng số dự án viện trợ, vốn vay để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật đáp ứng -130- các yêu cầu về việc chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu. - Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, truyền thống về tiềm lực thành lập các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài để đào tạo trình độ cao. Các loại trường này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du học nước ngoài, vừa là mẫu hình đi đầu trong cải cách giáo dục ở nước ta. - Thúc đẩy nhanh việc hợp tác đầu tư xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong đó các cơ sở đào tạo; nhập thiết bị thí nghiệm khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả đào tạo và nghiên cứu khoa học. - Mở rộng các hình thức hợp tác liên kết các trường đại học của ta với các trường đại học ở nước ngoài để đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Có chính sách cử tuyển đông đảo giáo viên, sinh viên đi học tập, nghiên cứu và làm việc ở các nước; đồng thời thu hút nhiều giáo sư, chuyên gia giỏi vào nước ta giảng dạy, nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm. Cải cách giáo dục - đào tạo là phương thức đòi hỏi phải được tiến hành mạnh mẽ để đáp ứng những sự thay đổi to lớn của cách mạng tri thức, cách mạng thông tin đang tác động đến mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nền giáo dục - đào tạo nước ta phải theo kịp trào lưu đó để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam. Về thu hút và khai thác hợp lý nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật cả trong và ngoài nước Nước ta có lượng người Việt Nam rất lớn (khoảng 2,5 triệu người) đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Đây là nguồn chất xám rất đáng trân trọng. Trong số đó, có nhiều nhà khoa học và kỹ thuật đã thành danh. Việt Nam cần đẩy mạnh chính sách thu hút trí thức Việt kiều, thu hút người lao động kỹ thuật trình độ cao về nước làm việc hoặc về tham gia tư vấn, tham mưu, kiêm nhiệm... Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật được đào tạo trong và ngoài nước sẽ là giải pháp quan trọng, nó sẽ bổ sung kiến -131- thức hiện đại, chia sẻ những kinh nghiệm tiên tiến và hỗ trợ nhau trong việc tiếp nhận, sử dụng và sáng tạo công nghệ mới, những nhà khoa học được đào tạo ở nước ngoài sẽ hợp tác với các cơ sở nghiên cứu trong nước giúp tiếp cận với trình độ phát triển quốc tế. Mở rộng tự do luân chuyển lao động khoa học và kỹ thuật theo quy luật cung - cầu. Có thể phát triển theo ba hướng: - Người lao động đổi chỗ làm việc ngay trong phạm vi một doanh nghiệp. Khi đó, người lao động kỹ thuật trình độ cao thường ít khi phải ra khỏi công ty để đi tìm việc ở nơi khác, họ chỉ thay đổi công việc ngay trong phạm vi công ty, xí nghiệp đó. Tạo nên sự yên tâm gắn bó với cơ sở làm việc lâu dài, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp của đơn vị. Để có được điều đó, công ty phải bố trí công việc theo liểu luân phiên cùng một lúc đạt được hai mục tiêu: tạo ra một phạm vi rộng các kỹ năng cho cá nhân người lao động, đồng thời cho phép các công ty chủ động và linh hoạt trong việc đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi về thành phần tay nghề của lao động; giúp hình thành một đội ngũ lao động đa năng, cùng một lúc có thể thực hiện được nhiều công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất. - Trao đổi lao động giữa các công ty, đơn vị. Luân chuyển lao động giữa các công ty, đơn vị có quan hệ làm ăn lâu dài với nhau trên cơ sở thoả thuận song phương. Cách luân chuyển này một mặt giúp cho cá nhân người lao động giảm chi phí khi đi tìm việc, mặt khác, nơi cần nhượng lại người làm các công việc còn trống có thể tuyển dụng được lao động dễ dàng với một "lý lịch làm việc" được bảo đảm. - Cần có chính sách thu hút lao động khoa học - kỹ thuật một cách chủ động. Khuyến khích không chỉ dừng ở tiền lương, điều kiện lao động, mà cần mở ra đến điều kiện nơi ăn, ở, vốn và bố trí công việc cho những người thân của họ. 3.2.2. Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, thực sự giải phóng mọi lực lượng sản -132- xuất. Đặc điểm của kinh tế tri thức là tri thức chỉ tạo ra được giá trị gia tăng khi được sử dụng, tiêu thụ và tạo ra được tri thức mới. Vì vậy, để có thể sử dụng và tiêu thụ ngày càng nhiều tri thức cần có những cơ chế, chính sách phù hợp không những trong phạm vi quốc gia mà đòi hỏi phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa vừa trước mắt, vừa lâu dài phải xây dựng được thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa khoa học, khách quan xuất phát từ thực tiễn công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời có tính đến hướng phát triển lâu dài và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một công việc rất khó khăn đòi hỏi sự phối kết hợp nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Nâng cao khả năng của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và tổ chức tốt thực hiện pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp có chất lượng tốt cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện và tổ chức thực hiện việc tuân thủ nghiêm chỉnh hệ thống luật pháp trong đời sống nhà nước và xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của công việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến hành ở nước ta. Nội dung cơ bản hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế và khoa học - công nghệ cần hướng tới là: Một là, trong lĩnh vực kinh tế: Cần tập trung hoàn thiện chế độ pháp lý về sở hữu, hoàn thiện chế định pháp lý về hợp đồng trở thành chế định trung tâm của pháp luật về sản xuất - kinh doanh. Coi trọng xây dựng môi trường pháp lý cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, đặc biệt là thị trường sức lao động, thị trường khoa học - công nghệ. Hai là, trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho việc cải cách một cách căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc gia phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoàn thiện pháp luật về khoa học - -133- công nghệ nhằm thúc đẩy thị trường khoa học - công nghệ phát triển, khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu với ứng dụng. Để có thể phát triển kinh tế tri thức, giải pháp cần làm ngay là phải đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực sự đóng vai trò trọng tài cho các hoạt động kinh tế. Khuyến khích mọi người làm giàu, đảm bảo môi trường sản xuất - kinh doanh lành mạnh, phát huy sức mạnh của từng thành phần kinh tế. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, bằng cơ chế chính sách, tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh... đồng thời tạo điều kiện cho mỗi doanh nghiệp, mỗi người phát huy hết quyền chủ động, sáng tạo của mình. Nhà nước phải tập trung tạo động lực, giảm thiểu các ràng buộc, rào cản kinh tế - chính trị - xã hội. Xoá bỏ cơ chế xin cho, đẩy lùi tệ sách nhiễu, tham nhũng, đó là những lực cản trở phát huy năng lực nội sinh, triệt tiêu động lực. Khuyến khích mọi người góp phần vào sự nghiệp phát triển sản xuất, làm giàu chính đáng. Nhà nước điều tiết thu nhập, chăm lo phúc lợi xã hội, bảo vệ quyền lợi của các giai tầng trong xã hội. Đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của Nhà nước. ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý điều hành, góp phần xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. 3.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, trước hết là cơ sở hạ tầng cho công nghệ thông tin Việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở nước ta được đánh giá có tốc độ phát triển nhanh nhất trong khu vực, trang thiết bị luôn được đổi mới theo hướng hiện đại, nhưng nhìn chung vẫn còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghệ thông tin. Thể hiện tình trạng luôn nghẽn mạnh trên đường truyền của mạng quốc gia, tốc độ chậm, chi phí cao. Chúng ta mới phóng vệ tinh Vinasat 1 chỉ số hạ tầng công nghệ thông tin Việt Nam mới đạt 0,048 (điểm cao nhất là 1,0) còn thấp xa so với mức trung bình của khu vực là 0,204. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, tạo cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại -134- là động lực trực tiếp tác động đến hiện đại hoá mọi lĩnh vực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì vậy cần phải thực hiện tiếp tục các nội dung sau đây: Một là, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin vào các ngành, các lĩnh vực. Cụ thể là: a. ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình phân công và hợp tác lao động quốc tế Cần ứng dụng nhanh công nghệ thông tin vào những khu vực, địa điểm có nguồn lao động với trình độ và nghiệp vụ cao hơn để có thể phân chia các giai đoạn của quá trình sản xuất, để tách các khâu của quá trình sản xuất ra và dịch chuyển hoạt động của nó đến những nơi có lợi thế so sánh. Quá trình này cần phải sử dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là internet để khắc phục xu hướng di chuyển lao động kỹ thuật cao, đảm bảo lực lượng lao động công nhân công nghệ cao có thể sống ở địa điểm này nhưng vẫn có thể cung cấp các dịch vụ cho khách hàng ở một địa điểm khác. Cần ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện quá trình sản xuất bằng cách tận dụng nguồn lực bên ngoài (vốn và chất xám) từ các công ty sản xuất khác chứ không chỉ dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài như trước đây. Nghĩa là cần sử dụng internet và các công nghệ điều phối khác để đẩy nhanh quá trình tái tổ chức và phân phối tại các công ty này. Sử dụng internet vào việc bán sản phẩm theo hình thức mới, chuyển dịch từ phương thức đầu tư trực tiếp nước ngoài sang phương thức thuê ngoài để thực hiện toàn bộ công việc sản xuất của họ. Cần chú trọng đến hình thức thuê ngoài và hợp đồng hợp tác nhờ sử dụng internet vào công nghệ thông tin, đặc biệt là trong ngành dịch vụ. Đồng thời, dùng nó để giám sát các hoạt động sản xuất của các nhà thầu phụ và phối hợp chặt chẽ với họ để đáp ứng được các thông số kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và thời gian giao hàng của sản phẩm với mức chi phí thấp hơn nhiều so với trước đây, trong đó mức chi phí cho lao động cũng giảm liên tục. -135- Với biện pháp đó, các công ty ngày càng phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp ít hơn. Do vậy, các công ty cần sử dụng công nghệ thông tin để nhấn mạnh đến hoạt động tiếp thị và cạnh tranh nhãn hiệu trên thị trường. b. ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn vào lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin vào cải thiện các quá trình giao dịch giữa người bán và người mua trong kinh doanh. Với người bán, giúp họ kiểm soát được nguồn hàng một cách chặt chẽ hơn, do đó họ tiết kiệm được nhiều khoản tiền, đặc biệt là sử dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý để giúp giảm chi phí lưu kho, lưu bãi, lãi suất và có thể giảm bớt được nguy cơ hết hàng họ cũng có thể kiểm soát được giá cả trong cạnh tranh. Họ cần phải ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiên cứu sản xuất, tiếp thị, quảng cáo, bán hàng và những hoạt động phi sản xuất khác, coi việc ứng dụng đó như là chức năng chính của tổ chức kinh doanh. Với người mua, cũng có thêm nhiều lợi ích: họ có thể đi mua sắm bất kỳ lúc nào trong ngày, giá thành rẻ hơn mà không phải đi xe buýt hay các phương tiện khác. ở một góc độ khác, người tiêu dùng cần ứng dụng internet để tìm đến sản phẩm có chất lượng phù hợp với thị hiếu, nhu cầu thay đổi theo thời gian của họ, chứ không phải quan tâm đến giá cả như trước đây và do vậy, người sản xuất kinh doanh cần ứng dụng công nghệ thông tin để quan tâm đến nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng. Hơn nữa, hoạt động thương mại giữa các doanh nghiệp với nhau cũng mang lại những khoản tiết kiệm chi phí lớn. Các nhà sản xuất và nhà cung cấp cần chuyển từ mối quan hệ được thực hiện chủ yếu qua điện thoại, fax và các cuộc trao đổi trực tiếp sang việc thu mua trên mạng sẽ đạt được hiệu quả cao hơn. Trước mắt, phát triển thương mại điện tử phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Phấn đấu đến 2010 đạt mức trung bình, đến 2020 đạt mức khá trong khu vực. ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả phải là ở chỗ, chúng mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho người sản xuất, lợi ích tối đa cho người tiêu dùng chứ không -136- phải tỷ lệ đầu tư công nghệ thông tin hay tích luỹ vốn công nghệ thông tin nhiều hơn. ứng dụng công nghệ thông tin để liên kết các khâu nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh tiêu thụ, xác định thời gian giữa đầu tư, sản xuất và tiêu dùng hợp lý, tính toán lượng lao động chân tay, trí óc, đặc biệt sử dụng công nghệ thông tin vào khai thác kịp thời sức sáng tạo của đa số công nhân, những người không làm công việc kỹ thuật và những người "làm trái ngành, trái nghề". Sử dụng công nghệ thông tin vào khắc phục điểm yếu của dây truyền sản xuất, tạo nên một dây truyền sản xuất linh hoạt, thu gọn đầu mối, thí dụ: nhập phòng thí nghiệm, dây truyền lắp ráp và phòng tiêu thụ làm một... Sử dụng công nghệ thông tin nhằm tạo ra cơ cấu tổ chức kiểu mạng lưới nhằm khắc phục được tình trạng thiếu hoạt động chậm thông tin ở công ty, xí nghiệp; tận dụng và phát huy được tài năng của mọi người, đặc biệt khắc phục được sự lãng phí nhân tài cấp trung gian, trong khi nhân tài cấp cơ sở lại thiếu hụt. Do ứng dụng công nghệ thông tin theo mạng lưới vào tổ chức xí nghiệp thì sẽ xoá bỏ được quá nhiều các tầng nấc trung gian, cần ứng dụng công nghệ thông tin vào xoá bỏ bớt những công việc "hành chính", những "trạm trung chuyển" trước đây. ứng dụng vào quan hệ liên kết, hợp tác giữa các công ty, tạo ra sự hợp tác mềm mại hơn nhưng lại phân định được trách nhiệm một cách rõ ràng hơn. Các doanh nghiệp cần sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng tổ chức mạng để thiết lập doanh nghiệp nhiều đối tác hơn, nhiều nhà cung cấp, nhà phân phối và nhiều khách hàng trên thị trường trong nước và thị trường toàn cầu, tạo ra hệ thống phân phối phi tuyến tính và nền thương mại có tính tương tác. Cần lấy công nghệ thông tin làm phương tiện thúc đẩy hợp tác giữa các đơn vị, các nhà quản lý và nhân viên ở nhiều nơi trên thế giới. c. ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và lĩnh vực y tế Thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các bậc học, đặc biệt trong -137- bậc đại học. Vì thế phải tích cực chú trọng việc xây dựng các phần mềm phục vụ cho giáo dục đào tạo, có thể số hoá các giáo trình giảng dạy và phương tiện hỗ trợ cho phương pháp giảng dạy tích cực. Đồng thời, cần phải cung cấp miễn phí trên mạng internet, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự học, tự đào tạo của học sinh, sinh viên qua mạng, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiên cứu khoa học, trong các hoạt động điều tra, thăm dò, khảo sát tài nguyên và những biến động về môi trường. Xây dựng các website có nội dung phổ biến kiến thức, tư vấn chăm sóc sức khoẻ qua internet, qua phát thanh truyền hình, giúp mọi người dân có thể truy cập, nắm bắt kịp thời kiến thức về chăm sóc sức khỏe dưới các hình thức. Tích cực xây dựng hạ tầng viễn thông tiên tiến để thực hiện dễ dàng cầu truyền hình nhằm phát triển các hình thức phối hợp chữa bệnh từ xa giữa các bệnh viện trong nước và giữa trong nước với nước ngoài. ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển y học kỹ thuật cao trên nhiều lĩnh vực. ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc quản lý, điều hành và chữa bệnh mà không cần có nhân viên có mặt tại chỗ. d. ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương và cơ sở Chú trọng xây dựng các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử. Chuyển các loại dịch vụ công qua mạng: hải quan, thuế, bảo hiểm, đăng ký, cấp giấy phép, hộ khẩu... Dùng mạng phát hiện, lên án những hành động lãng phí, tham nhũng, tham ô, nhũng nhiễu dân... Xây dựng một nền hành chính minh bạch, hiệu quả. Tạo điều kiện cho nông dân, đặc biệt là thanh thiếu niên được tiếp cận với internet và công nghệ thông tin, giúp họ học tập từ xa, nắm bắt được kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, thị trường, thời tiết, những kinh nghiệm sản xuất và các thông tin và công nghệ mới. Muốn vậy, phải xây dựng các địa điểm văn hoá thông tin, các website phổ biến kiến thức nhằm cho người nông dân cập nhật được thông tin mới. -138- Hai là, tập trung phát triển các chương trình trọng điểm nhằm phát triển công nghiệp hoá trực tiếp tới đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức a. Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay cần phải đẩy mạnh: Xây dựng ngành công nghệ thông tin - truyền thông và phát triển cơ sở hạ tầng thông tin, ưu tiên công nghệ có lợi thế như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá v.v.. Để đưa công nghệ thông tin - truyền thông trở thành một ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt kim ngạch xuất khẩu cao, cần phải: phát triển ngành công nghệ thông tin - truyền thông theo hướng hiện đại. Xây dựng hệ thống dịch vụ công nghệ thông tin - truyền thông đa dạng như tư vấn, thiết kế, tích hợp hệ thống... công nghệ phần mềm theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường ứng dụng trong nước và tiếp cận thị trường thế giới thông qua những hợp đồng gia công phần mềm. Đồng thời, tận dụng các khả năng chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết để phát triển có chọn lọc các cơ sở lắp ráp, chế tạo linh kiện và thiết bị tin học hiện đại để dành lại thị phần phần cứng trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ thông tin trong nước, đặc biệt là thị trường ứng dụng và dịch vụ công nghệ thông tin. Mở rộng thị trường, theo hướng phát huy mọi nguồn nội lực, kết hợp với hiệu quả hợp tác quốc tế, thực hiện theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực viễn thông và interet. Nên phát triển nhanh thị trường dịch vụ công nghệ thông tin trong nước để tạo ra nhiều việc làm chất lượng cao cho sinh viên, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Xây dựng các chương trình đặc biệt thu hút vốn thông qua việc hình thành các quỹ đầu tư rủi ro từ các khu vực kinh tế khác nhau, từ sự tham gia rộng rãi của các công ty đa quốc gia, các tổ chức quốc tế, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ, để tạo điều kiện thuận lợi cho các ý tưởng sáng tạo phát triển cũng như huy động vốn cho phát triển lĩnh vực này. Hình thành các khu -139- công nghiệp công nghệ thông tin tập trung với những quy mô khác nhau và được hưởng những chính sách ưu đãi phát triển. Giảm tỷ lệ bắt buộc xuất khẩu đối với các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, loại bỏ các hạn chế về yêu cầu nội địa hoá đối với các nhà sản xuất linh kiện; có chính sách hỗ trợ ban đầu khi đăng ký kinh doanh, khi thuê mặt bằng, giảm hoặc miễn thuế... Tạo hành lang pháp lý thuận lợi, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông, internet để mở rộng thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua sắm trang thiết bị, truy cập thông tin, cước phí... cho những dự án trọng điểm như phát triển công nghiệp nông thôn, đào tạo từ xa, chăm sóc sức khoẻ từ xa và chính phủ điện tử. Xây dựng các công nghệ mới trong lĩnh vực truyền thông tiên tiến như các dịch vụ băng thông rộng; các hệ thống chuyển mạch, các hệ thống dẫn quan dung lượng lớn, tốc độ cao trên cơ sở hội tụ công nghệ và dịch vụ viễn thông, tin học, truyền thông quảng bá; Singapore là quốc gia có vốn về công nghệ thông tin, internet nhiều nhất khu vực đã được liên kết với tốc độ cao với các nước châu á - Thái Bình Dương, Hoa Kỳ và châu Âu. Phát triển hệ thống thông tin di động, mạng internet thế hệ mới nhằm đẩy nhanh tốc độ phổ cập các dịch vụ viễn thông và internet trên cả nước, đặc biệt tới các trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện... cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, giá cước thấp, phục vụ phát triển an ninh, quốc phòng, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ từ xa. Phát triển công nghệ thông tin vệ tinh; công nghệ quản lý mạng, công nghệ phát thanh và truyền hình số. Ưu tiên nghiên cứu và phát triển những công nghệ phát huy được lợi thế đặc thù Việt Nam như: công nghệ phần mềm: cơ sở dữ liệu, công nghệ nội dung, công nghệ đa phương tiện, hệ thống thông tin địa lý, đồ họa, quy trình sản xuất phần mềm, quy trình kiểm tra đánh giá sản phẩm, thiết kế, xây dựng các hệ thống tin học -140- ứng dụng: nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, chú trọng những vấn đề đặc thù của Việt Nam như: nhận dạng chữ Việt, xử lý ảnh, công nghệ tri thức, dịch tự động... nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong một số lĩnh vực chọn lọc: toán học của tin học, linh kiện điện tử thế hệ mới... làm cơ sở cho phát triển ứng dụng tin học cấp nano; phát triển ngành công nghiệp thiết bị thông tin. b. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin là nhân tố có ý nghĩa quyết định từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay Lấy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin - truyền thông là ưu tiên hàng đầu nhằm xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, ngang tầm khu vực. Để đạt được yêu cầu đó, cần chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia cấp cao đầu đàn, hạt nhân trong các dự án, các doanh nghiệp công nghiệp công nghệ thông tin, các viện nghiên cứu và tham gia đào tạo đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin. Bồi dưỡng có trọng điểm đội ngũ các nhà quản lý công nghệ thông tin trình độ cao, có nhiều kinh nghiệm phong phú, nhanh nhạy và giỏi nghiệp vụ. Phối hợp đào tạo công nghệ thông tin cho cán bộ khoa học ở các ngành khác để họ trở thành những người sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả vào hoạt động chuyên môn của mình. Bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết, có năng lực về phần mềm, có nhận thức rõ về vai trò, lợi ích của công nghệ thông tin mang lại cho hoạt động chuyên ngành. Nhanh chóng xây dựng hệ thống học viện công nghệ quốc gia trên toàn quốc nhằm đào tạo ra những kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ năng, kỹ xảo trong lĩnh vực này, có thể thành lập viện công nghệ thông tin quốc gia (kiểu NIIT của ấn Độ) hoạt động với hai chức năng: kinh doanh và đào tạo (kinh doanh phần mềm, đào tạo kỹ sư và kỹ thuật viên lành nghề). Thu hút đội ngũ kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin đang làm việc ở nước ngoài tham gia các dự án, công trình phát triển công nghệ thông tin ở trong nước về -141- sinh sống, làm việc lâu dài, cống hiến cho đất nước. Phố cập giáo dục công nghệ thông tin, tin học hoá bộ máy hành chính của chính phủ, phát triển kinh tế dựa trên công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin vào các vùng nông thôn... nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người dân. Đào tạo người dân làm quen với việc sử dụng các dịch vụ công nghệ thông tin như: ngân hàng điện tử, bệnh viện điện tử, giáo dục điện tử, thư viện điện tử, thương mại điện tử, các trung tâm thông tin viễn thông... để tạo ra nhu cầu cho sự phát triển công nghệ thông tin. Giải pháp đó có thể thông qua việc phát triển các chương trình đào tạo trên internet, qua mạng lưới phát thanh truyền hình, đào tạo có sự hỗ trợ của máy tính... Chính phủ cần thành lập Quỹ nghiên cứu những lĩnh vực trọng điểm của công nghệ thông tin từ nhiều nguồn: từ vốn ngân sách, từ huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các kỹ thuật tiên tiến của công nghệ thông tin, khuyến khích (bằng vật chất) nhằm động viên, cổ vũ cho những doanh nghiệp, các viện nghiên cứu tìm được nhiều giải pháp sáng tạo công nghệ mới. Tổ chức nghiên cứu các dự án khoa học và công nghệ chủ chốt, tạo tiềm lực nội sinh góp phần thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phát triển phần mềm mang thương hiệu Việt Nam. Cần nghiên cứu để xây dựng được mạng xa lộ thông tin quốc gia nhằm kết nối với tất cả các trường học, các cơ quan, xí nghiệp và phần lớn các hộ gia đình làm cho công nghệ thông tin trở thành "mạch máu" trong nền kinh tế - xã hội. Thúc đẩy tiến trình điện tử hoá tiền tệ, sử dụng máy tính hoặc thẻ điện tử để luân chuyển vốn, xây dựng hệ thống hỗ trợ an toàn giao dịch ngân hàng, tạo thành hệ thống liên mạng với thế giới. Phát triển thương mại điện tử, phải có một tổ chức dịch vụ thương mại điện tử toàn quốc, đồng thời động viên và có chế độ ưu đãi đối với các xí nghiệp vừa và nhỏ khi sử dụng dịch vụ này. Mạng hoá các dịch vụ ngân hàng, sử dụng máy tính để thay thế cho hoạt động tác nghiệp trực tiếp của con người, nó giúp cho các nhà đầu tư điều khiển hoạt động ngân hàng thuận tiện, giảm -142- chi phí, nâng cao hiệu quả. Ba là, hoàn thiện đồng bộ các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ thông tin Các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ thông tin và những ngành công nghệ cao cần hoàn thiện theo hướng sau đây: Thứ nhất, Chính phủ phải tạo được môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin hoạt động. Hoàn thiện môi trường cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin tham gia thị trường bình đẳng, ưu đãi tối đa cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Mở rộng cửa thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép triển khai nhanh việc cung cấp dịch vụ tham gia vào quá trình phát triển và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Thứ hai, phải có chiến lược dài hạn cho phát triển công nghệ thông tin, thương mại điện tử. Chính phủ phải đề cao vai trò quản lý nhà nước về thương mại điện tử, phải xây dựng những văn bản pháp quy cũng như chiến lược dài hạn, kế hoạch trung hạn về thương mại điện tử, phải có chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp. Phải nhanh chóng tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, đồng bộ và phù hợp với các quy định quốc tế về chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực cho phát triển thương mại điện tử. Thứ ba, cải cách hành chính, đổi mới cơ chế quản lý. Tăng cường tự chủ cho các doanh nghiệp, hoạt động theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, mở cửa và tạo cho nhiều thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực ICT. Chính sách phải tạo điều kiện cho họ tâm thế cạnh tranh không chỉ trong nước mà cả trên thị trường quốc tế với các doanh nghiệp nước ngoài. -143- Thứ tư, đổi mới chính sách, đi thẳng vào công nghệ mới nhất. Đó là bài học nước ta rút ra trong quá trình phát triển công nghệ thông tin trong những năm qua. Phải coi đây là chính sách mang tính đột phá. Từ chính sách này, đặt ra yêu cầu lựa chọn chuyên gia, nhân tài hoặc thu nhận nhân tài Việt kiều hoặc chuyên gia nước ngoài để thực hiện ngay các công nghệ hàng đầu thế giới. Thứ năm, Chính phủ xây dựng khung pháp lý về cơ chế huy động vốn cho phát triển công nghệ thông tin, thậm chí cho phép thực hiện cơ chế tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ICT tận dụng được nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng cần vốn lớn. Tóm lại, các giải pháp cơ bản vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại có bước phát triển vượt bậc tạo điều kiện cho các yếu tố của nền kinh tế tri thức ra đời và phát triển. Đối với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay về thực chất là các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó coi trọng những ngành công nghệ cao mà trước hết là công nghệ thông tin. Nhằm tạo ra tốc độ tăng trưởng cao dựa vào tri thức và công nghệ hiện đại. Các giải pháp cần tập trung vào nguồn nhân lực và chính sách về khoa học - công nghệ. Trước hết là giáo dục đào tạo, chúng ta phấn đấu để giáo dục cùng với khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua đổi mới toàn diện về giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể cần tập trung vào đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá phát huy trí tuệ sáng tạo, khả năng vận dụng thực hành của người học. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay theo mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập thường xuyên, suốt đời. Đào tạo liên thông giữa các bậc học. Đổi mới đào tạo, nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học. Gắn đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ với sử dụng trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng hiện đại. Nước ta cơ bản phấn đấu đến 2015, năng lực khoa học - công nghệ đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng (công -144- nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới, tự động hoá). Trong đó đẩy mạnh chọn lọc việc nhập công nghệ, mua bằng sáng chế, phát minh khoa học kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, phát triển công nghệ cao. Về cơ chế quản lý khoa học - công nghệ cần tập trung theo hướng nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư, huy động các thành phần kinh tế tham gia và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học - công nghệ. Có chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Thu hút các nhà khoa học - công nghệ giỏi trong và ngoài nước và trong cộng đồng kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. -145- Kết luận Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời 142 năm trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị và trở thành phổ biến ở các nước châu Â. Trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng kinh tế của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, phát triển những nhân tố khoa học và trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân. Chỉ ra cho nhân loại con đường phát triển tất yếu của lịch sử, hướng tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai, mọi người đều có quyền bình đẳng, được tự do đóng góp sức lực, trí tuệ để phát triển. Trong điều kiện của thế giới ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, một số nước tư bản phát triển đang phát huy, tận dụng để phát triển kinh tế tri thức, nhiều hình thức biểu hiện mới, nếu nhìn hình thức bên ngoài thì dường như nhiều luận điểm trong học thuyết của Mác, mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư đã lỗi thời, không phù hợp, không phản ánh được thực tế khách quan. Đồng thời, nhiều quan điểm, tư tưởng hoài nghi, mơ hồ nhằm mục đích xuyên tạc học thuyết Mác. Đề tài: "Học thuyết giá trị thặng dư trong được của thế giới hiện nay" với nghiên cứu bước đầu những vấn đề mà thực tế cần luận giải, làm rõ. Các vấn đề mà đề tài tập trung phân tích khẳng định tính khoa học và tính thời sự của học thuyết giá trị thặng dư. Đặc biệt, nghiên cứu bước đầu về những luận điểm của học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện của nền kinh tế tri thức. Trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đồng thời với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Những nội dung trên đây dựa trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống phân tích những luận điểm đã, đang được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Những nghiên cứu phân tích hoàn thiện, bổ sung trên đây chỉ là những vấn đề nghiên cứu ban đầu phác thảo, gợi mở những vấn đề của nhóm tác giả nghiên cứu, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học có nhiều hiểu biết về vấn đề này. -146- Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (2001), Liên kết giữa nghiên cứu và triển khai với đào tạo sau đại học ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 2. Chương trình KX08 (2001 - 2004), Xu thế chủ yếu của sự phát triển khoa học và công nghệ, sự hình thành và vai trò của kinh tế tri thức trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. 3. Chu Văn Cấp (2003), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, Tài liệu phục vụ lớp bồi dưỡng kiến thức "toàn cầu hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam" cho giảng viên Kinh tế chính trị, tập 1, tr.33 - 56. 4. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 6. Phan Xuân Dũng (2004), Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Phạm Tất Dong (2003), Tác động của kinh tế tri thức và sự phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Lê Cao Đoàn (2003), Kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 12. Hoàng Ngọc Hoà (2003), Kinh tế tri thức và tác động của nó đến quá trình -147- hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Tài liệu phục vụ lớp bồi dưỡng kiến thức "toàn cầu hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam" cho giảng viên Kinh tế chính trị, tập 1, tr.84 - 101. 13. Học viện Hành chính quốc gia (2003), Thương mại điện tử, Nxb Lao động, Hà Nội. 14. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Tri thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức - thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 17. Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với khoa học (2000), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội, (6) (Sách lưu hành nội bộ). 18. Vương Liêm (2004), Kinh tế học Internet từ thương mại điện tử tới chính phủ điện tử, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. 19. Hồ Ngọc Luật (2004), Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ từng bước phát triển kinh tế tri thức, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, t.46, Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, Phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Nguyễn Văn Minh - Trần Hoài Nam (2002), Giao dịch thương mại điện tử, một số vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Trần Thanh Phương (1996), Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đối với nền kinh tế các nước tư bản phát triển - một số gợi mở về thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia -148- Hồ Chí Minh, Hà Nội. 25. Trịnh Ân Phú (2007), Kinh tế chính trị học hiện đại, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 26. Phạm Ngọc Quang (2003), Tác động của kinh tế tri thức đối với quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 27. Trần Cao Sơn (2003, Việt Nam trong xu thế nền kinh tế tri thức lý thuyết - thực tiễn; hướng tiếp cận, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 28. Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2006 - 2007, Hà Nội. 29. Nguyễn Kế Tuấn (2003), Từng bước phát triển kinh tế thị trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 30. Đỗ Thế Tùng (2003), Quan điểm của C.Mác về sự phát triển của hệ thống máy móc và ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế tri thức, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 31. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 32. Nghiêm Đình Vỹ (2003), Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục đào tạo, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội. 33. Mâhthir Mohamad (2004), Toàn cầu hoá và những hiện thực mới, Nxb Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế châu á - Thái Bình Dương. MụC LụC Mở đầu .................................................................................................................... 1 chương 1. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác - Những vấn đề lý luận cơ bản 13 -149- 1.1. Lý luận giá trị lao động cơ sở nền tảng khoa học của lý luận giá trị thặng dư .. 13 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về lý luận giá trị lao động của C.Mác ......................... 13 1.1.2. Sự phát triển lý luận giá trị thặng dư trên cơ sở lý luận giá trị của Mác ........ 22 1.2. Lý luận cơ bản về sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư ..................................... 25 1.2.1. Lý luận cơ bản về hàng hoá sức lao động ..................................................... 25 1.2.2. Lý luận cơ bản về quá trình sản xuất giá trị thặng dư.................................... 33 1.2.3. Về sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến .................. 40 1.2.4. Về vấn đề tiền công trong chủ nghĩa tư bản .................................................. 43 1.2.5. Về tích luỹ tư bản ......................................................................................... 50 CHƯƠNG 2. Những đặc điểm mới về lý luận giá trị thặng dư trong thời đại ngày nay - Bản chất của vấn đề ...................................................................................... 62 2.1. Những đặc điểm mới về sản xuất giá trị thặng dư ............................................ 62 2.1.1. Về lý luận hàng hoá sức lao động ................................................................. 62 2.1.2. Về sự phân chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến............................. 67 2.1.3. Mối quan hệ giữa các loại lao động với việc tạo ra giá trị thặng dư .............. 78 2.1.4. Tác động của kinh tế tri thức tới sản xuất và phân phối giá trị thặng dư ....... 91 2.2. Về phân phối giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay ................ 96 2.2.1. Bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản hiện đại ............................... 96 2.2.2. Vấn đề bóc lột giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .................................................................................... 108 Chương 3. ý nghĩa lý luận của c.mác về giá trị thặng dư đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ..... 122 3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ............................................................. 122 3.2. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư, đề xuất những vấn đề để đẩy mạnh công -150- nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ............................................................................................................. 128 3.2.1. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ cao và phát triển kinh tế tri thức . 128 3.2.2. Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 131 3.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, trước hết là cơ sở hạ tầng cho công nghệ thông tin ............................................................................................. 133 Kết luận ............................................................................................................... 145 Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................... 146

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf76_8177.pdf
Luận văn liên quan