Luận văn Mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.

pdf52 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2363 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm qua của cách mạng Việt Nam, mà còn có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam hiện nay. Trước những biến động mới và phức tạp của thế giới ngày nay, khi mà nhiều luận đề cũ tưởng như là chân lý bất di bất dịch đã trở nên lạc hậu và cản trở sự phát triển, thì những luận điểm trên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cách đây 84 năm vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc và đầy đủ hơn. 4. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong Hiến pháp năm 1946. Như chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và nền lập hiến Việt Nam. Những quan điểm, tư tưởng mà Người để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân loại là vô cùng to lớn và quý báu, thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và luôn mang tính thời sự sâu sắc mà trong đó tư tưởng về Nhà nước và pháp luật là một trong những cống hiến vĩ đại mà Người đã để lại cho nhân loại. Việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng, quan điểm của Người trong giai đoạn hiện nay đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước và mỗi công dân Việt Nam, được Nhà nước hết sức quan tâm Bản chất giai cấp nhà nước là vấn đề cốt lõi của mỗi bản Hiến pháp, có ý nghĩa quyết định đến nội dung những quy định của Hiến pháp. Trong Hiến pháp năm 1946, bản chất giai cấp nhà nước được quy định tại Điều 1: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước luôn mang tính giai cấp, tồn tại vì lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Không thể có nhà nước phi giai cấp, nhà nước của mọi giai cấp. Nhưng với Hiến pháp 1946, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được xác định là Nhà nước của nhân dân không phân biệt giai cấp. Quy định này thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam lúc đó là Nhà nước mới giành được độc lập, chính quyền non trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức quản lí, thù trong giặc ngoài không từ một âm mưu nào nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Để giữ vững nền độc lập của dân tộc, yếu tố quyết định là phải huy động sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc. Do vậy, Hiến pháp năm 1946 xác định Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nhà nước của mọi giai cấp. Tính giai cấp và tính dân tộc hoà quyện với nhau là một. Trong khi đó Nhà nước Xô Viết được thành lập sau Cách mạng tháng Mười là nhà nước công - nông - binh. Tính chất của nhà nước được xác định rõ trong Hiến pháp Nga. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của nhân dân là Nhà nước được thành lập bằng con đường bầu cử dân chủ, trực tiếp. Nhân dân là người trực tiếp bầu ra người đại diện để thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề về quyền lực nhà nước vì lợi ích của nhân dân. Nhân viên các cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra để thực thi, thừa hành quyền lực của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 14 ngày 8/9/1945 mở cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội. Với sự kiện trọng đại này, dân tộc Việt Nam sau khi là dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trở thành dân tộc đầu tiên thiết lập nhà nước với hình thức dân chủ nhân dân cao nhất là phổ thông đầu phiếu. Đây có thể xem như sự kiện hiếm có trong lịch sử. Sau cuộc tổng tuyển cử hoàn toàn tự do, dân chủ (ngày 6/1/1946), Quốc hội khoá I ra đời. Đây là Quốc hội của khối đại đoàn kết dân tộc, là khoá Quốc hội đã thông qua hai bản trong số bốn bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay. Nhà nước Việt Nam ra đời sau cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 là Nhà nước hợp hiến và hợp pháp, là sự liên minh các giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị - mô hình nhà nước độc đáo trong lịch sử. Điều này còn được thể hiện thông qua tên gọi của các cơ quan nhà nước như Chính phủ (Chính phủ liên hiệp kháng chiến), Nghị viện được tổ chức theo cơ cấu một viện, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước và Chính phủ nhưng do Nghị viện bầu ra với tỉ lệ phiếu 2/3 và phải là nghị viên… So với mô hình nhà nước mà Hồ Chí Minh đưa ra trong Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 có sự đổi mới cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của cách mạng. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là sự cụ thể hoá tư tưởng về "Nhà nước phương đông" của Người. Cho đến nay thực tiễn lịch sử đã khẳng định mô hình nhà nước mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cách đây hơn 50 năm là phù hợp cho dù lịch sử đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm. Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh được kết tinh ở đỉnh cao là Hiến pháp năm 1946. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước kiểu mới mà ở đó các tầng lớp nhân dân đều có người đại diện của mình Nhà nước không phân biệt giai cấp. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào hoạt động của Nhà nước thông qua người đại diện do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc bằng chính công việc mà công dân trực tiếp thực hiện. Để không ngừng phát huy bản chất nhà nước, Hồ Chí Minh đã giáo dục cán bộ, viên chức Nhà nước phải thương yêu dân, dựa vào dân, lắng nghe học hỏi nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh và Người là mẫu mực cho phẩm chất đó. Theo Người, quan điểm về nhà nước của dân thật dễ hiểu. Đó là nhà nước mà nhân dân là chủ đất nước chứ không phải là vua. Chính quyền từ cơ sở đến trung ương đều do dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi ích nhân dân. Cán bộ nhà nước là người "đầy tớ" của nhân dân chứ không phải là ông quan cách mạng. Nhà nước của dân còn đồng nghĩa với nhà nước của dân tộc Việt Nam. Một nhà nước được ra đời từ hình thức mặt trận, nhà nước của mọi giai cấp với tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường bảo vệ chủ quyền dân tộc. Ý tưởng về nhà nước của dân trong Người mạnh mẽ và liên tục, thể hiện sâu sắc từ khi thành lập Đảng, đến sự ra đời của Mặt trận phản đế, Mặt trận Việt minh, Chính phủ liên hiệp kháng chiến, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với khẳng định: "Tất cả quyền bính trong nước đều thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam". Ở Hồ Chí Minh, tính dân tộc, tính giai cấp, tính nhân dân kết hợp hài hoà với nhau, hoà quyện với nhau. Chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng con người. Cách mạng dân tộc gắn với cách mạng vô sản. Khẩu hiệu Người đưa ra: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" đã tập hợp sức mạnh của cả dân tộc trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại hiện nay, thực hiện tốt khẩu hiệu đó của Người sẽ là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân không chỉ thành lập ra nhà nước mà còn giám sát toàn bộ hoạt động của nhà nước, bãi miễn các đại biểu do nhân dân bầu ra. Điều 20 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra theo Điều 41 và 61" vì theo Người, các đại biểu chỉ là người thừa hành, người phụ trách, người gánh vác công việc được nhân dân giao cho. Chính vì vậy, khi nhận chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người đã trả lời trước các nhà báo: "Tôi tuyệt đối không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức vụ chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải cố gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận". Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân… Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết đấu tranh được chính quyền, uỷ thác tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục cố gắng là vì mục đích đó". Có được như vậy vì ở Người luôn có lòng tin sâu xa, tuyệt đối vào nhân dân, vì Người hiểu rằng nhân dân là lực lượng hùng hậu. Người khẳng định: "Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân","Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ phải đoàn kết với nhân dân là một". Đó là quan điểm về nhà nước do dân của Hồ Chí Minh. Nhà nước ra đời không phải làm thay nhân dân, thay xã hội vì không nhà nước nào có thể làm được việc đó mà nhà nước tồn tại với vai trò là người cầm lái dẫn đường. Nhà nước muốn làm bất kì việc gì cũng phải dựa vào sức dân, thông qua việc huy động sức mạnh của nhân dân. Nhà nước do nhân dân thực chất là huy động và sử dụng sức dân. Niềm tin của Người đối với nhân dân không trừu tượng vì Người hiểu rõ sức mạnh của quần chúng. Đã là nhà nước của nhân dân, do nhân dân thì đương nhiên sự tồn tại của nhà nước đó cũng vì lợi ích của nhân dân. Mọi chính sách, pháp luật của nhà nước đều hướng về lợi ích của người lao động. Do vậy, trong "Thư gửi các uỷ ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện, làng…" Người viết: "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chính phủ ta hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc". Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 với bản chất giai cấp quy định tại Điều1 Hiến pháp năm 1946 là đỉnh cao tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Thêm bạn, bớt thù, đại đoàn kết là tư tưởng chiến lược nhất quán trong nhận thức và việc làm của Người. Tư tưởng đó được đúc kết trong 14 chữ nổi tiếng: " Đoàn kết ,đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công". Tinh thần đoàn kết đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam được kết tinh ở đỉnh cao là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chính Người là hiện thân của truyền thống đó. Tư tưởng đó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn vượt ngoài phạm vi lãnh thổ. Tư tưởng của Người là sự kết tinh của nhiều nền văn hoá Đông - Tây cũng như kinh nghiệm đấu tranh của loài người. Cơ sở đặc biệt quan trọng của tư tưởng đại đoàn kết ở Người là những nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, chiến lược, sách lược của Quốc tế cộng sản. Vận dụng sáng tạo tư tưởng đó Người đã đề ra chủ trương thành lập Mặt trận đoàn kết quốc tế gồm: Mặt trận công nhân thống nhất (Đại hội III tháng12/1921), Mặt trận nhân dân chống phát xít (Đại hội VII tháng 8/1935). Với chủ trương đó năm 1941 cùng với trung ương Đảng, Người thành lập Mặt trận Việt minh nhằm đoàn kết sĩ, nông, công, thương gồm già trẻ, gái trai, lương giáo, giàu nghèo thành phong trào cứu quốc sôi nổi từ Bắc chí Nam chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Như vậy, tư tưởng thêm bạn, bớt thù, đại đoàn kết của Hồ Chí Minh xuất phát từ việc đánh giá khoa học khả năng cách mạng của quần chúng, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết của dân tộc trong lịch sử, nhờ đó mà giai cấp công nhân Việt Nam đã "lôi kéo" các giai cấp khác vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời cũng tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới vì sự nghiệp hoà bình của mỗi quốc gia và nhân loại. Ở nước ta, mỗi hình thức mặt trận tương ứng với thắng lợi của cách mạng trong mỗi thời kì. Đoàn kết trong Mặt trận Việt minh, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt để đánh đuổi hoàn toàn thực dân Pháp, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam gắn với thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mặt trận tổ quốc Việt Nam là trung tâm của khối đại đoàn kết các dân tộc góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ở Người, đoàn kết các dân tộc cũng như đoàn kết quốc tế là công việc thường xuyên, liên tục. Do vậy, trong các thời kì cách mạng, mặt trận luôn là lực lượng rộng lớn đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, cá nhân yêu nước mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Tiếp tục thực hiện lời căn dặn của Người "Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta. Đế quốc Mĩ, bọn tay sai của Mĩ, bọn phản cách mạng là kẻ thù của ta". Tư tưởng đó đã được Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện hơn 60 năm qua và Hiến pháp năm 1992 ghi nhận đó cũng là đường lối đối ngoại của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta không ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân mà hình ảnh của nó là Mặt trận Tổ quốc, Việt Nam không ngừng lớn mạnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 1992 xác định: "… Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…" (Điều 9) cũng như chính sách đối ngoại của Nhà nước: "Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau…" (Điều 14). Việc Quốc hội khoá X thông qua Luật mặt trận tổ quốc Việt Nam ngày 12/6/1999 và việc ban hành Quy chế dân chủ trong các cơ quan nhà nước và cơ sở là sự kế thừa tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nội dung, sức mạnh và những thành công của công cuộc đổi mới được mở ra từ Đại hội VI của Đảng ta chính là kết quả thắng lợi của sự kế thừa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trong thời kì mới. Đại đoàn kết là cơ sở tư tưởng cần được quá triệt sâu sắc trong việc hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội của Nhà nước. Độc lập về chính trị phải đi liền với độc lập về kinh tế, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ về lợi ích giữa các giai tầng, các đơn vị hành chính, các thành phần kinh tế, cá nhân trong xã hội. Kinh tế nhiều thành phần có thể dẫn đến sự phân hoá giai cấp do lợi ích có sự chênh lệch đáng kể. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa vô cùng to lớn mà Đảng, Nhà nước, mỗi người dân đều phải nghiên cứu, học tập và thể hiện qua chính sách, pháp luật và bằng hành động cụ thể của mỗi người. Để động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, xây dựng chính quyền vững mạnh thì không chỉ giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích kinh tế mà đi đôi với nó là sự nghiệp chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân vì sự thống nhất về chính trị có ý nghĩa quyết định các yếu tố khác. Công cuộc đổi mới có giành được thắng lợi toàn diện hay không, ở mức độ nào, thời gian bao lâu điều đó phụ thuộc phần lớn vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Việc không ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, tạo nhiều hình thức phù hợp mà trong đó đặc biệt coi trọng quyền làm chủ trực tiếp và có cơ chế phù hợp không nằm ngoài mục đích củng cố, tăng cường khối đại đoàn toàn dân. Muốn hoàn thành nhiệm vụ của nhà nước dân chủ nhân dân, vấn đề đặt ra phải có cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp, công cụ mà thông qua đó nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Hiến pháp năm 1946 với mô hình nhà nước dân chủ nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước tập trung chủ yếu vào Nghị viện. Điều 22 Hiến pháp quy định: "Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà". Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc do Nghị viện thành lập ra và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Với mục đích đề cao quyền làm chủ của nhân dân, Hiến pháp quy định: "Với những vấn đề quan trọng phải đưa ra toàn thể nhân dân phúc quyết" (Điều 32) và "Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe, báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và biểu quyết của Nghị viện" (Điều 30). Đây là những quy định hết sức tiến bộ thể hiện tính dân chủ rộng rãi mà Nhà nước thừa nhận cho mỗi công dân chỉ có thể có trong Hiến pháp năm 1946 là biểu hiện bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là sự phát triển từ hình thức nhà nước công, nông, binh ở Nga đến nhà nước của dân, do dân, vì dân với những đặc thù riêng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó là Nhà nước không phân biệt giai cấp (Hiến pháp năm 1946), Nhà nước chuyên chính công - nông (Hiến pháp năm 1959), Nhà nước chuyên chính vô sản (Hiến pháp năm 1980), Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Hiến pháp năm 1992) và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Hiến pháp năm 1992 sửa đổi). Như vậy, trong lịch sử lập hiến Việt Nam thì những quy định về bản chất nhà nước tuy có khác nhau về thuật ngữ sử dụng nhưng về bản chất không thay đổi, điều đó thể hiện tính nhất quán về quan điểm tư tưởng, lập trường, - Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người: “Chỉ có giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiêp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân 5. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người có ý nghĩa chiến lược. Đó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Điều này được thấy rõ qua tình hình lịch sử của nước ta ngay sau khi dành được độc lập dân tộc, khi đó trong ngân hàng nước ta chỉ có 2 vạn đồng tiền rách, tình trạng dân số thì có đến 98% là mù chữ, các tổ chức cách mạng thì mới bắt đầu được hình thành, 2,5 triệu dân chết đói, thực dân Anh thì nhăm nhe vào nước ta để giải rác vũ khí, Pháp quay lại xâm lược, Tưỏng vào giải rác vũ khí, Mỹ chống phá, Nhật chống phá, trong nước thì việt quốc, việt cách nổi dậy. Một chính phủ mới thành lập mà đã vấp phải nhiều khó khăn và đặc biệt là không được sự thừa nhận của thế giới., tình hình nước ta đang rơi vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Trước hoàn cảnh đó Hồ Chí Minh đã ký 2 hiệp ước quan trọng 14-9 và 6-3, với 2 hiệp ước này thì dân tộc việt nam đã có được điều kiện để chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại được bớt được kẻ thù là Mỹ, Anh và Tưởng. Độc lập dân tộc là bất biến và tất cả những hiệp ước hay tạm ước chỉ là những sách lược để phục vụ cho một tư tưỏng cơ bản xuyên suốt đó là độc lập dân tộc và đại đoàn kết toàn dân. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh cứ khi nào dân tộc Việt Nam đoàn kết thì ta dành độc lập và khi nào nước ta đánh mất sự đoàn kết thì sẽ bị mất chủ quyền. Hồ Quý Ly là một trong những ông vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng cũng là người lãnh đạo cuộc kháng chiến thất bại nhanh nhất trong lịch sử Việt Nam khi quân Minh xâm lược, bởi ông đã không đoàn kết được toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng khác nhau. Tức là đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhưng trong từng giai đoạn thì phải có cách thức đoàn kết khác nhau. Ví dụ như trứớc năm 1945 chúng ta có khẩu hiệu: “Đánh đổ thực dân, phong kiến dành độc lập dân tộc chia ruộng đất cho dân cày”, nhưng đến năm 1945 khi Bác Hồ đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến : “Đánh đuổi thực dân dành độc lập cho dân tộc” ,vốn dĩ có sự khác biệt đó là vì khi này ta cần phải lôi kéo thêm tầng lớp phong kiến ủng hộ cho cách mạng để vừa bớt kẻ thù đồng thời thu hút được của cải để có tiền để làm cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất chân lý về đoàn kết. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. a. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc :”Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là : “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ : Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi . Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là : “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà ”. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người . b. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. “đoàn kết toàn dân tộc”. Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người theo tín ngưỡng với người không theo tín ngưỡng…. “ ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao động trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niêm dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng, người dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất việt”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc;ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì ta phải. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc. Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng. Người Việt Nam ta có truyền thống “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ chạy lại”. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến và khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn nhưng tất cả đều nằm trên cùng một bàn tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi.Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa thì khối đại đoàn kết dân tộc cũng sẽ mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở “ Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước.Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn : Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân. Phải tin ở nhân dân, yêu dân. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi mờ che mắt, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi thì lòng yêu nước lại bộc lộ Dân tộc, toàn dân thì là một khối rất rộng lớn gồm hàng chục triệu con người vì vậy phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” Người chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” về sau Người có nêu thêm :lấy liên minh công nông –lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc . c. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả dân tộc, toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, và được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thế thì quần chúng dù đông nhưng cũng chỉ là số đông không có sức mạnh.Thất bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này. Ngay từ khi tìm thấy con đường cức nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, tưng ngành nghề và lứa tuổi, tôn giáo và phù hợp với các bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó là hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay phụ nữ…bao trùm lên tất cả là Mặt trận dân tộc thống nhất, đó là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con người Việt Nam không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt Nam … Tuỳ theo từng giai đoạn thời ký mà Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau như: Hội phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ, Mặt trận việt minh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Nhưng thực chất chỉ là một đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái…phấn đấu vì một mục tiêu chung là độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông (sau đó là liên minh công- nông- lao động trí óc), dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Để có thể đại đoàn kết thì cần phải làm sao để mọi người thuộc bất cứ tầng lớp nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc có được đảm bảo thì lợi ích của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện. Mỗi bộ phận, mỗi con người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích chính đáng và phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc cần được tôn trọng. Ngược lại ngững gì riêng biệt không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc. Mặt trận cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí .Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt;mặt khác Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”.Tự nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt để củng cố đoàn kết nội bộ. Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ đượ; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận. Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc. Đảng cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận xây dựng khối đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận, điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất chặt chẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnhđạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân, sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn dết của dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thăng lợi cuối cùng của cách mạng. V. BIỆN CHỨNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêunước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị. Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ: Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh. Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận. Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác. Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO. (a) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t 1, tr 416 (b) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 20 (c) Hồ Chí Minh truyện, Bản dịch Trung văn, Bán nguyệt xã, Thượng Hải, tháng 6- 1949 (d) Hồ Chí Minh: Sđd, t 1, tr 464 - 465 (e) Hồ Chí Minh: Sđd, t 12, tr 554 (f) Xem: Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb Lao động - Quân đội nhân dân, 1992 (g), (h) Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr 292, tr 13 (1) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 1, tr 94. (2) Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 1, tr. 127. (3) Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 2, tr. 256. (4) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 12, tr 108. (5) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 3, tr. 123. (6) Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 10, tr. 591. (7) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 217. (8) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 10, tr. 639. (9) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 3, tr. 198. (10) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 418. (11) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 5 – 6. (12) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 3, tr. 557. (13) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 161. (14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 560. (15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466. (16) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466. (17) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466-467. (18) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.468-469. (19) Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.91. (20) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 91. (21) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 91. (22) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 80. (23) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.467. (24) Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Sđd., tr. 91. (25) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464. (26) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464. (27) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464. (28) Xem: Song Thành. Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.116. (29) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467. (30) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467. (31) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467. (32) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 469. (33) Xem: Song Thành. Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc. Sđd., tr.118.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- MỐI QUAN HỆ GIỮA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI CHỦ NGHĨA MÁC.pdf
Luận văn liên quan