Luận văn Mối quan hệ giữa viện kiểm sát nhân dân tỉnh và cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự

Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta nói chung và tỉnh Phú Yên nói riêng đã dành được những kết quả nhất định, trong đó có sự đóng góp tích cực của VKSND và CQCSĐT thông qua việc thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa hai cơ quan trong quá trình ĐTVAHS. Điều này xuất phát từ mục đích chung của hoạt động TTHS là phát hiện, xử lý, nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội, do đó dù các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng xuất phát từ mục đích chung này mà có mối quan hệ với nhau. Từ đó, giữa VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ phối hợp, chế ước và ràng buộc lẫn nhau, nhằm một mục đích chung là bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình điều tra, xử lý VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án mà còn phát huy được tinh thần, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương. Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ nhận thức chung về ĐTVAHS, trong đó đã làm rõ được khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh. Đồng thời, đã phân tích, làm rõ bản chất, nội dung, hình thức mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đó là mối quan hệ phối hợp và chế ước trong ĐTVAHS nhưng cùng chung mục đích là giải quyết đúng đắn vụ án, bảo vệ pháp luật, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội mang lại cuộc sống bình yên cho mọi người. Qua đó, luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong từng nội dung như trách nhiệm của VKSND và CQCSĐT trong tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố VAHS, khởi tố bị can; trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; trong các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, luận văn đã đưa ra một số nhận xét về kết quả đạt được, tìm ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu cho101 thấy, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS ngày càng có hiệu quả, chất lượng điều tra, xử lý tội phạm và chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ngày càng được nâng cao, tạo chuyển biến tốt trong hoạt động điều tra, truy tố, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quan hệ vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, tồn tại, hạn chế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đây là những kết luận mới, rất quan trọng, là cơ sở lý luận cho những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS.

pdf115 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa viện kiểm sát nhân dân tỉnh và cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
; VKS có quyền trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong giai đoạn điều tra khi thấy cần thiết mà không nên hạn chế như quy định hiện hành chỉ khởi tố trong trường hợp: huỷ bỏ quyết định không khởi tố VAHS của CQĐT và khi có yêu cầu của Hội đồng xét xử; chỉ được khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện còn có người khác thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa được khởi tố (Điều 104 và Điều 126). Bảy là, nhằm đảm bảo nhận thức thống nhất về thẩm quyền hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, cần thực hiện đúng quy định tại khoản 2 điều 94 BLTTS năm 2003 và khoản 1 điều 125 BLTTHS năm 2015: “Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKSND phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế do VKSND quyết định” và bỏ quy định tại khoản 6 điều 120 BLTTHS “Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”. Bởi lẽ, khi đã hết thời hạn tạm giam thì hiệu lực của lệnh tạm giam không còn nữa, phải trả tự do cho người bị giam giữ. Tại khoản 4 Điều 81 BLTTHS năm 2003 và quy định tại khoản 6 điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định: “VKSND phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người. Trường hợp cần thiết, KSV phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”. Cùng đó, Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND trong thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 83 cũng quy định rất cụ thể tại Mục 3 về căn cứ và hồ sơ bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Quy định trên là cần thiết nhằm đảm bảo tính khách quan, thận trọng trước khi quyết định. Tuy nhiên hai ngành cần có quy định hướng dẫn thế nào là “cần thiết” để tránh việc điều tra trùng lặp giữa ĐTV và KSV, gây lãng phí thời gian và công sức. Theo tác giả cho rằng, trường hợp cần thiết là qua nghiên cứu hồ sơ hoặc kiểm sát trực tiếp thấy người bị bắt kêu oan hoặc có khiếu nại về việc bắt khẩn cấp; chứng cứ có mâu thuẫn; vụ việc phức tạp khó đánh giá thống nhất về tính chất hoặc liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành; vụ việc liên quan loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Trong trường hợp này KSV phải thông báo trước về thời gian tiến hành, để CQCSĐT chủ động trong công tác điều tra, tạo điều kiện cho KSV thực hiện nhiệm vụ hoặc phối hợp trong quá trình lấy lời khai của người bị bắt. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do KSV lập phải chuyển cho CQCSĐT và đưa vào hồ sơ vụ án. Tám là, Điều 31 BLTTHS năm 2003, điều 32 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do BLTTHS quy định. Tuy nhiên trên thực tế, khi khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn điều tra sẽ liên quan đến không chỉ CQCSĐT mà cả VKSND, bởi vì các quyết định của CQCSĐT thường được VKSND phê chuẩn. Từ đây phát sinh mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND. Để thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS, Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 của VKSNDTC, TAND tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS năm 2003 về khiếu nại, tố cáo. Trong thông tư này đã quy định rõ 84 quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong giai đoạn giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, khi có đơn khiếu nại quyết định của VKSND hoặc CQCSĐT, hai ngành cũng phải chủ động bàn bạc, xác định tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định và có phương hướng giải quyết theo quy định BLTTHS. Những vấn đề liên quan đến thực hiện Thông tư này trong giải quyết khiếu nại cần thực hiện với thời gian nhất định. Các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung phải tiến hành sơ kết, tổng kết để có thể đề xuất chính xác được vấn đề. - Sửa đổi và hoàn thiện một số quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND trong thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 Thông tư liên tịch số 05 đã hướng dẫn cụ thể nhiều nội dung trong hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong giải quyết vụ án. Tuy nhiên xét về mặt lý luận, tên gọi của Thông tư này chưa phù hợp với các nội dung trong Thông tư, còn có sự nhầm lẫn giữa quan hệ chế ước với quan hệ phối hợp như: việc thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng CQĐT; việc thay đổi ĐTV; Trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKSND. Tuy nhiên, có những hoạt động vừa mang tính phối hợp, vừa mang tính chế ước, nhưng khi trình bày nội dung Thông tư phải đảm bảo tính khoa học, đưa các hoạt động đặc trưng của quan hệ phối hợp lên trước, các hoạt động đan xen cả phối hợp và chế ước xuống sau. Mặt khác, một số quy định của BLTTHS về tạm giữ như Điều 86 không quy định khi cơ quan có quyết định tạm giữ phải gửi các tài liệu cho VKSND để kiểm sát việc tạm giữ, trong khi đó Thông tư số 05 chỉ quy định CQCSĐT cung cấp hồ sơ cho VKSND khi phê chuẩn, không hướng dẫn vấn đề này nên KSV làm công tác kiểm sát tạm giữ không có đầy đủ tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ. Do đó, cần nghiên cứu để bổ sung nội dung: khi tạm giữ CQCSĐT phải gửi các tài liệu liên quan để VKSND kiểm sát việc tạm giữ trong BLTTHS và Thông tư liên tịch số 05. 85 Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều trường hợp KSV đề ra yêu cầu điều tra rất hợp lý nhưng ĐTV không thực hiện hoặc CQCSĐT đề nghị phê chuẩn trong trường hợp có đủ căn cứ để phê chuẩn nhưng KSV đề xuất không phê chuẩn dẫn đến việc xử lý vụ án còn chậm và gặp nhiều khó khăn nhưng không có chế tài để xử lý. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng quy định về chế tài xử lý đối với các ĐTV, KSV không thực hiện đúng quy định về mối quan hệ được quy định trong BLTTHS và Thông tư liên tịch số 05. Ngoài ra cần hoàn thiện các văn bản pháp luật chuyên ngành về đất đai, tài chính, chứng khoán, các hình thức sở hữu tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, chức vụ, và các vụ án tham nhũng. Hoàn thiện cơ chế giám định trong các lĩnh vực, nhất là giám định ma túy, kế toán, tài chính, môi trường, xây dựng cơ bản để xác định tính chất, mức độ thiệt hại làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm các đối tượng phạm tội. 3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án hình sự Để quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS ngày càng được nâng cao và đạt chất lượng tốt nhất thì cần thiết phải có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, quy định cụ thể nội dung và hình thức quan hệ giữa hai cơ quan này nhằm giúp cho VKSND, CQCSĐT thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình. Trong đó cần chú ý các nội dung sau: Một là, trước xu thế phát triển của xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi các điều luật phải cụ thể, hợp lý, một số loại tội phạm mới xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, công nghệ thông tin đòi hỏi phải được dự báo và cập nhật kịp thời. Hơn nữa, thực tiễn công tác điều tra, xử lý tội phạm trong thời gian qua cho thấy, mặc dù BLHS và một số văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định và hướng dẫn cụ thể về một số loại tội phạm, tuy nhiên hiện nay trong quá trình toàn cầu hóa đất nước về mọi mặt của đời sống xã hội cũng đã xuất hiện nhiều hành vi 86 mới hoạt động dưới nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội như: tội phạm về ma túy, kinh tế, tham nhũng, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mua bán người, tội phạm về môi trường, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia... Trước tình hình đó đòi hỏi cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm bổ sung và thực hiện thống nhất giữa các cơ quan chức năng, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, xử lý vụ án, trong đó có VKSND và CQCSĐT. Hai là, cần hoàn thiện văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của BLTTHS về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Một số quy định trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 chỉ đề cập đến quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS một cách chung chung, chưa có những quy định cụ thể nào thể hiện rõ vị trí, trách nhiệm của VKSND và CQCSĐT trong việc phối hợp, chế ước, không quy định rõ chủ thể nào cụ thể trong các cơ quan này được thực hiện những hành vi tố tụng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau giữa VKSND và CQCSĐT. Trong khi đó, việc ĐTVAHS là một giai đoạn phức tạp có khi giữa hai bên cơ quan xảy ra những quan điểm khác nhau khi giải quyết VAHS. Thế nên, cần ban hành một văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ về cơ chế thực hiện quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT (thậm chí cả TAND). Nội dung văn bản cần thể hiện rõ: nội dung mối quan hệ, cách thức thực hiện mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, trách nhiệm cá nhân khi có hành vi sai phạm Điều này được đặt ra để đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội, khi mà sắp tới đây BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 được sửa đổi và có hiệu lực thi hành thì việc khẩn trương xây dựng văn bản mang tính thực thi về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS là cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Ba là, cần hoàn thiện cơ chế pháp lý về công tác phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị 87 khởi tố. BLTTHS năm 2015 đã luật hóa định hướng tăng cường trách nhiệm công tố và gắn công tố với điều tra. Do đó, quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có rất nhiều quy định về phối hợp, gửi hồ sơ, văn bản, thông báo giữa VKSND và CQCSĐT nhưng muốn thực hiện được phải có văn bản pháp lý xác định quy trình, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan. Thực tiễn áp dụng Thông tư liên tịch số 06 về phối hợp giữa CQCSĐT và VKSND trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong thời gian qua cũng cho thấy việc phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong cập nhật tin báo, tố giác, phân loạicần thiết phải được quy định bằng văn bản pháp lý mới đảm bảo hiệu quả và đạt được yêu cầu đề ra. Đồng thời, cùng với những nội dung mới của BLTTHS năm 2015, những nội dung của Thông tư liên tịch số 06 đã không còn phù hợp. Do đó, cần thiết phải xây dựng Thông tư liên ngành để hướng dẫn pháp luật, xác định cơ chế phối hợp, trách nhiệm thực hiện và các chế tài để việc phối hợp thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đạt hiệu quả. Trong đó cần chú ý quy định các vấn đề sau: cách thức phối hợp để cập nhật sổ quản lý tố giác, tin báo tội phạm; trách nhiệm phối hợp rà soát, phân loại tố giác, tin báo về tội phạm; trách nhiệm giải quyết tranh chấp trong việc xác định thông tin có phải là tin báo, tố giác hay không; các chế tài áp dụng xử lý vi phạm về thời hạn chuyển hồ sơ, thông báo, ra quyết định tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo tội phạm. Bốn là, cần xây dựng và ban hành Quy chế về quan hệ TTHS giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQCSĐT là một hệ thống yếu tố liên kết phức tạp giữa VKSND và CQCSĐT trong TTHS, trong đó BLTTHS, Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh tổ chức CQĐT hình sự chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, do vậy các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn và thể chế hóa những quy định của luật để chi tiết, cụ thể hóa mối quan hệ này nhằm đảm bảo nhận thức thống nhất và hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, 88 các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên đã có nhiều quy chế, quy định phối hợp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp và chế ước giữa hai ngành nhưng nội dung quy chế quy định rất nhiều giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nên chưa có quy chế đặc thù giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong giai đoạn ĐTVAHS. Do vậy, việc các cơ quan có thẩm quyền như BCA, VKSNDTC cần ban hành quy chế phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong hoạt động TTHS có ý nghĩa quan trọng và cần thiết để các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp vận dụng, áp dụng thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tạo cơ chế gắn mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra. Theo tác giả việc nghiên cứu xây dựng quy chế này nên theo từng nội dung tương ứng với các công việc cụ thể mà VKSND và CQCSĐT cần tiến hành, như: - Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc phát hiện, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố. - Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can. - Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. - Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ. - Quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong hoạt động kết thúc điều tra. Trong mỗi phần của quy chế nêu trên cần quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của mỗi cơ quan, của những chủ thể tiến hành tố tụng; trong từng nội dung cần quy định rõ mối quan hệ phối hợp trong từng chế định nào; mối quan hệ chế ước trong chế định nào cũng như mối quan hệ đan xen giữa phối hợp và chế ước để việc thực hiện đạt kết quả cao nhất. Ngoài ra, trong mối quan hệ tại địa phương giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên cần xây dựng một văn bản cụ thể quy định mối quan hệ trực tiếp giữa VKSND và CQCSĐT trong công tác điều tra, truy tố các VAHS trọng điểm và định ra những nguyên tắc cơ bản trong họp liên ngành, nội dung, hình thức họp liên ngành nhất là những vấn đề có liên quan đến việc xác định phương hướng điều tra 89 và xử lý các VAHS cụ thể trên cơ sở vừa đảm bảo các nguyên tắc của TTHS vừa phát huy vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan trong công tác điều tra, khám phá tội phạm, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương. 3.2.4. Tăng cư ng ngu n nhân lực của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự 3.2.4.1. Nâng cao chất lượng Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là thực hiện chiến lược cải cách tư pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đánh giá: Chất lượng công tác tư pháp nói chung trong đó có hoạt động của VKSND chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của Nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, vi phạm quyền tự do dân chủ, làm giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Đồng thời Bộ Chính trị khẳng định: “Những tồn tại khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trước hết là do một số nguyên nhân chủ quan cơ bản sau đây: công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức” [2, tr.12]. Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng sai sót trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử” [3, tr.7]. 90 Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ được xác định là một nội dung quan trọng tất yếu và quyết định đến chất lượng công tác tư pháp nói chung và công tác của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng. Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát ĐTVAHS của KSV các cấp đã có nhiều tiến bộ và thu được nhiều kết quả quan trọng; KSV các cấp đã thực hành quyền công tố và kiểm sát được khối lượng lớn các VAHS, tỉ lệ oan sai trong quá trình giải quyết các VAHS giảm. Để có được thành công đó phải nói đến cuộc vận động do VKSNDTC phát động từ năm 2012 nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, KSV “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, đã làm cho đội ngũ KSV toàn ngành nói chung và KSV tỉnh Phú Yên nói riêng, nhận thức sâu sắc về chức năng nhiệm vụ, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong việc tu dưỡng, r n luyện, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ và đề cao kỷ cương, kỷ luật trong công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Về đội ngũ KSV hiện nay, đa số có lập trường chính trị vững vàng, tin tường tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; trình độ, năng lực của KSV ngày càng được nâng cao, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đã chủ động phối hợp với ĐTV khám phá nhiều vụ án, góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, đội ngũ KSV vẫn còn một số mặt hạn chế như: không ít KSV chưa nhận thức được đúng đắn, đầy đủ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong hoạt động TTHS nói chung cũng như trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nói riêng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình còn có KSV chưa thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao, không thực hiện đầy đủ các quy định tại quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. KSV không bám sát quá trình điều tra vụ án, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không sâu, không khách quan do đó không nắm được đầy đủ các chứng cứ, tài liệu buộc tội và gỡ tội nên không kịp thời đề ra yêu cầu điều tra bổ sung chứng cứ. Trình độ năng lực của KSV còn có những hạn chế nhất định, không ít KSV chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và 91 TTHS, còn lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, vì vậy, nhiều trường hợp không xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm để đánh giá hành vi vi phạm pháp luật của bị can đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa đủ. Một số KSV thiếu bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc làm tha hóa, biến chất, tiếp tay cho tội phạm. Điều đó dẫn đến tình trạng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thiếu khách quan, chính xác và không đúng pháp luật. Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều tra các VAHS qua đó góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, đòi hỏi khách quan và cần thiết đó là phải nâng cao chất lượng KSV về mọi mặt, trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau: Một là, về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp: Mỗi KSV phải thường xuyên r n luyện phẩm chất, đạo đức nghề Kiểm sát, là yếu tố quan trọng nhất đối với đội ngũ KSV - bởi lẽ họ là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Phẩm chất chính trị được thể hiện là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm, đấu tranh xử lý nghiêm minh, không bị mua chuộc; Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hết lòng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ Nhân dân, có bản lĩnh, ý chí và tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế. Do đặc thù công việc của đội ngũ KSV là thường xuyên phải tiếp xúc và giải quyết những vụ việc xâm hại đến tính mạng, sở hữu, quyền con người, quyền công dânvới những mặt trái của xã hội, những tác động của cuộc sống có thể tác động đến ý chí, tư tưởng của họ bởi lợi ích kinh tế hay vật chất khácVì vậy, phải nâng cao bản lĩnh chính trị của KSV để làm nền tảng vững chắc giúp họ tận tâm với công việc, kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng lệch lạc, giữ vững đạo đức sáng ngời 92 của người cán bộ Kiểm sát mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Hai là, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn điều tra đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới Đội ngũ KSV là lực lượng cán bộ chủ chốt trong đội ngũ công chức của ngành Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND quy định KSV phải có bằng cử nhân Luật trở lên, vì vậy phải đẩy nhanh việc nâng cao trình độ chuyên môn từ cao đẳng kiểm sát lên đại học luật (trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức về nghiệpvụ điều tra) cho KSV ở VKSND các cấp; nâng cao trình độ lý luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước (nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính). Bên cạnh đó, KSV phải có tư duy lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn, sự nhạy cảm về đánh giá tình hình tội phạm, phương thức, thủ đoạn của tội phạm, nhất là những tội phạm mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường, công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế; phải thường xuyên cập nhật kiến thức và hiểu biết về quan điểm đấu tranh chống tội phạm của các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì điều kiện về thời gian bổ nhiệm đối với KSV sơ cấp phải có ít nhất 4 năm làm công tác pháp luật. Quy định như vậy mục đích để cho KSV có thời gian vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn công tác. Vì vậy việc nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn là một giải pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng của KSV; Phát huy được năng lực, kỹ năng của KSV để vận dụng giải quyết trong từng vụ việc cụ thể. Để thực hiện điều này, đòi hỏi KSV phải có khả năng tư duy logic, thu thập, phân tích, đánh giá và xử lý các thông tin, các tài liệu có giá trị chứng minh cho vụ việc đang giải quyết để đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và chất lượng. Hơn nữa KSV phải thể hiện kỹ năng của mình thông qua việc tổng hợp, tham mưu, đề xuất những vấn đề trong vụ án được phân công thực hiện, trình bày quan điểm giải quyết một cách thuyết phục, có căn cứ và khoa học. Điều quan trọng nhất của mỗi KSV khi tiến hành kiểm sát là phải phát hiện được các vi phạm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong suốt quá trình điều tra vụ án để thực hiện việc yêu 93 cầu, kiến nghị kịp thời, đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh trong quá trình điều tra. Ba là, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trên cơ sở nắm vững và vận dụng pháp luật hình sự, pháp luật TTHS; có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ điều tra nhất là phương pháp tiến hành kiểm sát điều tra. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết VAHS. Trên cơ sở chú trọng hoạt động tự đào tạo tại chỗ; bằng nhiều hình thức như tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, các Hội nghị chuyên đề nghiệp vụ. Tạo điều kiện để cán bộ, KSV có điều kiện gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm thực tế nâng cao trình độ chuyên môn, r n luyện kỹ năng nghiệp vụ. Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, KSV học tập nâng cao trình độ, r n luyện kỹ năng, thao tác nghiệp vụ; phát huy tính chủ động sáng tạo, nêu cao tinh thần trách nhiệm, mạnh dạn áp dụng sáng kiến trong công việc nhằm nâng cao chất lượng giải quyết án. VKSNDTC phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát điều tra, thông tin trực tuyến về những vấn đề kiểm sát điều tra trong tình hình mới. Về bản thân KSV phải có sự chủ động phối hợp với ĐTV trong các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm nâng cao chất lượng điều tra, truy tố tội phạm hiện nay. Bốn là, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06- 12-2013 của Viện trưởng VKSNDTC về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”. Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền điều tra trong phát hiện và xử lý tội phạm; bảo đảm việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm; khắc phục tình trạng buông lỏng trách nhiệm, thống nhất một chiều với CQCSĐT trong phân loại, xử lý án; chấn chỉnh việc ra quyết định không 94 khởi tố VAHS, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án không đúng pháp luật. Kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là đơn kêu oan, đơn tố cáo bức cung, dùng nhục hình. KSV được phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, kiểm sát chặt chẽ từ khi kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, xem xét việc phê chuẩn và chủ động đề ra yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ. Kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, đảm bảo thu thập, đánh giá đầy đủ, khách quan các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội để xác định đúng sự thật vụ án; khắc phục việc làm oan người vô tội do hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; chấn chỉnh việc đình chỉ điều tra không đúng pháp luật để tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia các vụ án theo quy định của pháp luật. Bám sát tiến độ điều tra, đề ra yêu cầu điều tra nhằm khắc phục kịp thời những thiếu sót về chứng cứ hoặc vi phạm tố tụng. Phối hợp chặt chẽ với CQCSĐT, đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội và thủ tục tố tụng của vụ án. Khi cần thiết tự mình hoặc phối hợp với CQCSĐT hỏi cung để đánh giá đầy đủ tính chất mức độ phạm tội của từng bị can trong vụ án. Kịp thời lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi liên quan, xem xét dấu vết hiện trường vụ án, vật chứng có phù hợp với thực tế khách quan. Trước khi kết thúc điều tra, KSV chủ động phối hợp với ĐTV nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, rà soát đánh giá lại toàn bộ chứng cứ và thủ tục tố tụng, phát hiện những sai sót để bổ sung, hoàn chỉnh. Sau khi kết thúc điều tra KSV tiếp tục nghiên cứu hồ sơ phát hiện kịp thời những mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, thực hiện việc phúc cung tổng hợp đối với từng bị can, nhất là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, bị can kêu oan, không nhận tội, phản cung hoặc có mâu thuẫn giữa chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ đó đề xuất hướng xử lý vụ án, bị can có căn cứ thận trọng. Năm là, thực hiện nghiêm túc các quy định của BLTTHS; Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT VKSTC-BCA-BQP ngày 07-9-2005 về mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003; Quy chế phối hợp đã ký kết giữa CQĐT - VKSND - TAND như Quy chế 646/QC-LN ngày 25-6-2013 về mối quan hệ phối hợp trong đấu tranh phòng chống 95 tội phạm và giải quyết án hình sự, dân sự, thi hành án của các cơ quan tư pháp tỉnh Phú Yên. Phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2005 kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đối với các quy định mới. Tăng cường mối quan hệ giữa KSV và ĐTV trong quá trình giải quyết án, thống nhất về mặt nhận thức, áp dụng pháp luật cũng như trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đường lối xử lý; nếu có khó khăn vướng mắc, kịp thời báo cáo xin ý kiến của Lãnh đạo liên ngành để thống nhất giải quyết. Trường hợp không thống nhất được thì xin ý kiến chỉ đạo liên ngành tố tụng cấp trên. Sáu là, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Lãnh đạo VKSND tỉnh Phú Yên cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo điều hành công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành trong tiến trình cải cách tư pháp. Luôn sâu sát, kịp thời, tùy theo tính chất của từng vụ án để phân công KSV cho phù hợp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phát hiện sai sót để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Đề cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể đối với các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Xử lý nghiêm đối với người mắc sai phạm để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng; nghiêm túc kiểm điểm tìm ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để thông báo rút kinh nghiệm chung; kiên quyết không xét công nhận các danh hiệu thi đua đối với KSV, đơn vị để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Khuyến khích tạo điều kiện để phát huy sáng kiến, các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra và việc xây dựng mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT đạt chất lượng cao. Rà soát, kiện toàn đội ngũ VKSND cấp tỉnh, bổ sung cán bộ có chức danh tư pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án hình sự. Điều động, bố trí, sắp xếp biên chế phù hợp cho các đơn vị xảy ra nhiều án; giảm bớt các công việc kiêm nhiệm đối với KSV trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra. 96 Đề xuất với VKSNDTC tiếp tục nghiên cứu đề xuất Đảng, Nhà Nước, Quốc Hội, Chính Phủ về các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ KSV, để đảm bảo việc an tâm hoàn thành nhiệm vụ trước trách nhiệm pháp lý to lớn mà mỗi KSV phải đảm nhận khi giải quyết án. Tăng cường kinh phí hoạt động, đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các VKSND. Nhất là đảm bảo cho hoạt động ghi âm, ghi hình trong hỏi cung, thực hiện các biện pháp tố tụng đặc biệt theo quy định của BLTTHS năm 2015. 3.2.4.2. Nâng cao chất lượng Điều tra viên của Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên Trước những đòi hỏi ngày càng cao của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới, với phương châm vừa phát hiện, xử lý kịp thời đối với tội phạm nhưng cũng bảo đảm tính chính xác, khách quan, không làm oan người vô tội hoặc để xảy ra những hạn chế, thiếu sót khác trong giai đoạn điều tra, vấn đề đặt ra bức thiết là phải nâng cao chất lượng của ĐTV. ĐTV là những người có chức danh tư pháp, là chủ thể chủ yếu, trực tiếp trong việc phát hiện, điều tra khám phá tội phạm; hay nói cách khác ĐTV là người đóng vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả ĐTVAHS. Vì vậy, BLTTHS bên cạnh quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT đã quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Luật tổ chức CQĐT hình sự đã quy định tiêu chuẩn ĐTV, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm ĐTV. Những quy định này là sự thể hiện tinh thần đổi mới được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị. Những quy định của pháp luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn của ĐTV là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ ĐTV theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Tuy nhiên, yêu cầu xây dựng đội ngũ ĐTV có chất lượng đáp ứng được tình hình mới còn phải căn cứ vào thực trạng của đội ngũ ĐTV hiện nay. Với lực lượng ĐTV như đã nêu trên, CQCSĐT đã điều tra khám phá nhiều vụ án, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và 97 trật tự, an toàn xã hội. Qua thực tiễn công tác có thể khẳng định: đa số ĐTV của CQCSĐT có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức và ý thức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, kiên quyết tấn công tội phạm. Chất lượng ĐTV đã được nâng lên cả về trình độ nghiệp vụ, năng lực làm việc từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu về trình độ ĐTV còn nhiều bất cập, thể hiện trên các phương diện sau: Về năng lực nghiệp vụ, do trình độ của một số ĐTV còn có mặt hạn chế nên đã ảnh hưởng đến năng lực điều tra, khám phá tội phạm. Trong thực tiễn hoạt động điều tra, bên cạnh những mặt tích cực, một số ĐTV chưa nắm vững những quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và các kiến thức có liên quan; phương pháp điều tra còn hạn chế... Những khuyết điểm nêu trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc điều tra vụ án để kéo dài, vi phạm các nguyên tắc của TTHS, thậm chí dẫn đến oan, sai trong công tác bắt, giam giữ, điều tra, xử lý tội phạm. Về phẩm chất đạo đức, bên cạnh đa số ĐTV có phẩm chất, tư cách tốt, vẫn còn một bộ phận ĐTV chưa đề cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành kỷ luật không nghiêm, vi phạm chế độ công tác, làm sai lệch hồ sơ vụ án... Vì vậy, cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ ĐTV nhằm quán triệt quan điểm “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh” được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, để ĐTV có thể thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong BLTTHS, đáp ứng tiêu chuẩn ĐTV trong Pháp lệnh, Luật tổ chức CQĐT hình sự, cần thực hiện một số vấn đề sau: Một là, trên cơ sở những quy định chung về tiêu chuẩn ĐTV trong Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, phải xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ cho từng chức danh ĐTV cao cấp, ĐTV trung cấp, ĐTV sơ cấp phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ điều tra 98 của CQCSĐT. Đây là cơ sở để xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng ĐTV theo tiêu chuẩn chức danh trong các học viện, các trường đại học Công an. Hai là, thực hiện nghiêm túc quy định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, kiểm tra, sát hạch trước khi bổ nhiệm các chức danh ĐTV. Đảm bảo trong nhu cầu công tác đáp ứng đủ ĐTV; thực hiện ngay việc tuyển dụng cán bộ có trình độ chuyên môn về khoa học, công nghệ, kinh tế, ngoại ngữ, tin học có khả năng làm công tác điều tra đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để bố trí vào những đơn vị thích hợp. Trong việc bố trí, sắp xếp và phân công ĐTV thực hiện nhiệm vụ điều tra phải chú ý đến phẩm chất và năng lực, sở trường của từng ĐTV để phát huy được thế mạnh của từng ĐTV. Ba là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra của ĐTV; gắn công tác này với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần tấn công tội phạm, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có đạo đức trong sạch, tăng cường r n luyện phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cho ĐTV. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQCSĐT cấp tỉnh cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ của CQCSĐT cấp trên với CQCSĐT cấp dưới để phát hiện kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong công tác và phòng ngừa những sai phạm của ĐTV. Để tạo điều kiện cho ĐTV có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, BCA cần có kế hoạch đầu tư các trang thiết bị và phương tiện làm việc cần thiết phục vụ công tác điều tra, đồng thời có chính sách phù hợp khuyến khích, khen thưởng xứng đáng những cán bộ có thành tích trong công tác điều tra, khám phá tội phạm. Bốn là, để tăng cường quan hệ TTHS giữa VKSND và CQCSĐT, CQCSĐT cấp trên một mặt thường xuyên kiểm tra công việc của CQCSĐT cấp dưới, mặt khác phải định kỳ hoặc đột xuất tổ chức các cuộc họp với VKSND, rút kinh nghiệm về công tác điều tra, kiểm sát và xây dựng mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa hai ngành, nhất là khi xảy ra những xung đột liên quan đến định tội danh, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, thực hiện yêu cầu điều tra, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng của CQCSĐT, xử lý tội phạm... 99 Kết luận chương 3 Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS, luận văn đã phân tích làm rõ yêu cầu khách quan và sự cần thiết để tăng cường mối quan hệ giữa hai cơ quan cũng như đề xuất các giải pháp về: nâng cao nhận thức của KSV và ĐTV về vai trò và mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS; tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT cũng như xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; Qua đó đề xuất giải pháp tăng cường nguồn nhân lực của KSV và ĐTV – lực lượng chính yếu đảm bảo điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 100 KẾT LUẬN Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta nói chung và tỉnh Phú Yên nói riêng đã dành được những kết quả nhất định, trong đó có sự đóng góp tích cực của VKSND và CQCSĐT thông qua việc thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa hai cơ quan trong quá trình ĐTVAHS. Điều này xuất phát từ mục đích chung của hoạt động TTHS là phát hiện, xử lý, nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội, do đó dù các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng xuất phát từ mục đích chung này mà có mối quan hệ với nhau. Từ đó, giữa VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ phối hợp, chế ước và ràng buộc lẫn nhau, nhằm một mục đích chung là bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình điều tra, xử lý VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án mà còn phát huy được tinh thần, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương. Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ nhận thức chung về ĐTVAHS, trong đó đã làm rõ được khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh. Đồng thời, đã phân tích, làm rõ bản chất, nội dung, hình thức mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đó là mối quan hệ phối hợp và chế ước trong ĐTVAHS nhưng cùng chung mục đích là giải quyết đúng đắn vụ án, bảo vệ pháp luật, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội mang lại cuộc sống bình yên cho mọi người. Qua đó, luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong từng nội dung như trách nhiệm của VKSND và CQCSĐT trong tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố VAHS, khởi tố bị can; trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; trong các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, luận văn đã đưa ra một số nhận xét về kết quả đạt được, tìm ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu cho 101 thấy, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS ngày càng có hiệu quả, chất lượng điều tra, xử lý tội phạm và chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ngày càng được nâng cao, tạo chuyển biến tốt trong hoạt động điều tra, truy tố, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quan hệ vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, tồn tại, hạn chế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đây là những kết luận mới, rất quan trọng, là cơ sở lý luận cho những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Trên cơ sở xác định yêu cầu khách quan và cần thiết của việc nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong DTVAHS, luận văn đã đề xuất 04 giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS trong thời gian tới, gồm: Nâng cao nhận thức của KSV và ĐTV về vai trò và mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS; Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS; Tăng cường nguồn nhân lực của VKSND và CQCSĐT góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS. Hy vọng với kết quả nghiên cứu của tác giả sẽ có những đóng góp tích cực vào nhận thức và hoạt động của VKSND và CQCSĐT trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian tới./. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các CQĐT theo định hướng cải cách tư pháp”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới. 3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 4. Bộ Công an (2014), Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 7/7/2014 quy định về công tác điều tra hình sự trong CAND. 5. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành quy định BLTTHS về tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 6. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1963), Thông tư liên bộ số 427/TTLT ngày 28/6/1963 quy định tạm th i một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an. 7. Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1984), Thông tư liên bộ số 01/TTLB ngày 23/01/1984 hướng dẫn về công tác điều tra và kiểm sát điều tra. 8. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Công an - Viện kiểm sát - Tòa án tỉnh Phú Yên (2013), Quy chế số 646/QC-LN ngày 25/6/2013 về việc phối hợp trong đấu tranh phòng, 103 chống tội phạm và giải quyết án hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án hình sự của các Cơ quan tư pháp tỉnh Phú Yên. 10. Chính phủ (1959), Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố. 11. Chính phủ (1998), Nghị quyết 09/CP ngày 31/8/1998 của Chính phủ về tăng cư ng công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. 12. Đào Hữu Dân (2006), “Mối quan hệ giữa Cơ quan CSĐT với VKSND trong điều tra vụ án hình sự”, Luận án tiến sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân. 13. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Trần Minh Đạo (2012), “Kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, số 10 (52), tr 17 - 20. 15. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh. 16. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật. 17. TS. Trần Đình Nhã (2001), "Chức năng công tố của VKS, mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử", Tham luận tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động của VKS nhân dân trong tình hình mới" do Ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 4/10/2001. 18. TS. Nguyễn Hải Phong (2014), “Tăng cư ng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. PGS. TS. Đỗ Ngọc Quang (2004), “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với cơ quan tố tụng hình sự”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 104 20. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Quốc hội (1959), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Quốc hội (1980), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Quốc hội (1992), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Quốc hội (2001), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Quốc hội (1960), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Quốc hội (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Quốc hội (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 105 35. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành BLHS, BLTTHS năm 2015. 36. Nguyễn Tiến Sơn (2012), “Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 (23), tr. 29-34. 37. Nguyễn Khắc Thành (2012), “Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan ANĐT và VKSND trong điều tra vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý từ năm 2004 đến nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận án Tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân. 38. TS. Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 39. TS. Lê Hữu Thể (2012), “Vai trò của VKS trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Đề tài khoa học cấp Bộ. 40. TS. Lê Hữu Thể (2011), “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 05 (102), tr. 13-16. 41. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17 tháng 09 năm 2014, về giám định hàm lượng ma túy. 42. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (2005), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 43. Từ điển Luật học (1999), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (2000), Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb. Đà Nẵng 45. Võ Huy Triết (2012), “Kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân là yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Kiểm sát, số 10 (52), tr. 21-23. 46. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 106 47. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 6/12/2013, về tăng cư ng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. 48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công an – Bộ quốc phòng (2005), Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003. 49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, TAND tối cao hướng dẫn về trả h sơ điều tra bổ sung. 50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao- Bộ quốc phòng (2005), Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC- TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 của VKS tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS năm 2003 về khiếu nại, tố cáo.. 51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 07/2008/QĐ- VKSTC ngày 2/1/2008 ban hành kèm theo quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự. 52. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát. 53. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2014), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát. 54. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát. 55. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát. 107 56. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Kiến nghị vi phạm trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. 57. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2014), Kiến nghị vi phạm trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. 58. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Kiến nghị vi phạm trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. 59. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Kiến nghị vi phạm trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. 60. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả mối quan hệ phối hợp liên ngành tư pháp trong giải quyết vụ án hình sự. 108

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_moi_quan_he_giua_vien_kiem_sat_nhan_dan_tinh_va_co.pdf
Luận văn liên quan