Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn

Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn đóng vai trò “chìa khoá” cho công cuộc phát triển toàn diện nông thôn, nó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, làm tăng năng suất lao động, tạo việc làm tăng thu nhập mở rộng các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam không thể diễn ra một cách suôn sẻ tốt đẹp mà nó gặp phải vô số vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ.

pdf74 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất là những DN có tham gia xuất khẩu. Cụ thể hoá những biện pháp về chế độ thuế và tín dụng cho từng mặt hàng cụ thể. Về hỗ trợ tài chính đối với một số mặt hàng xuất khẩu khó khăn bộ đã đề nghị Chính Phủ chỉ đạo ngành tài chính và ngân hàng cho hưởng chế độ vay với lãi xuất tiền lãi. Để mở rộng thị trường hàng của Việt Nam đã xuất sang rất nhiều thị trường trên thế giới: ASEAN, EU, Mỹ, SNG, Đông âu, và một số nước Châu Phi. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng đàm phán với Mỹ để ký hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ và Mỹ dành cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc. Khi đó hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ chỉ phải chịu thuế suất như hàng của các nước khác xuất khẩu vào Mỹ. Thị trường Mỹ tương lai sẽ là thị trường đầy hứa hẹn của các DN Việt Nam. II. Giải pháp về phía nhà nước. 1. Biện pháp kích cầu của nhà nước Năm 1999 tình hình hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ, hơn nữa DNVN lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam ở khu vực Đông Nam á giảm do sự giảm giá của một số đồng tiền của các nước Đông Nam á nên hàng hoá của các nước đó rất rẻ, tràn sang thị trường Việt Nam thông qua con đường nhập lậu làm hàng hoá trong nước ứ đọng, còn xuất khẩu thì hàng Việt Nam thiếu tính cạnh tranh. Trong thời gian qua Việt Nam đã thực hiện các biện pháp kích cầu (xây dựng các công trình nhà ở, khu giải trí..) để tăng tiêu thụ ở thị trường trong nước. Trong năm qua Ngân Hàng cũng xem xét điều chỉnh tỷ giá hối đoái 3 lần, lần cuối cùng đã hạ lãi suất từ 1,15% xuống còn 1,05% để kích thích mạnh việc vay vốn đầu tư sản xuất nhất là khu vực nông thôn. nhưng xem ra mãi đến cuối năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 mới nhích lên sau thời kỳ giảm phát liên tục, như vậy chính sách kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên chủ trương kích cầu của Chính Phủ chỉ là biện pháp tình thế. Trong tình hình hiện tại: cần kích cầu để làm suy giảm triệu chứng trì trệ của nền kinh tế nhưng phải có giải pháp đồng bộ để đảm bảo duy trì một áp lực đủ lớn buộc sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng hoạt động của mình, đặc biệt là khu vực DNNN, vì chỉ kích cầu hiện tại, chỉ giải toả hàng hoá ứ đọng, tăng quy mô sản xuất chứ không mang lại kết quả tích cực đối với việc thúc đẩy nền kinh tế thay đổi về chất. Về cơ bản và lâu dài cần phải cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiệu quả tránh tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả như hiện nay. 2. Xúc tiến thương mại Môi trường thương mại quốc tế ngày nay đã có những thay đổi căn bản so với thời gian trước. Quy mô và mức độ toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc. những điều kiện mới nổi nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất khẩu nói riêng. Để các DNVN có thể khai thác tốt các cơ hội thị trường mới, nâng cao thị phần xuất khẩu ra thị trường thế giới, cần thiết phải có một chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Hiện nay ở hầu hết các nước đang phát triển, Việt Nam không phải là ngoại lệ, các DN vừa và nhỏ (DNVVN) là lực lượng chủ yếu tham gia xuất khẩu: chiếm 40% thu nhập xuất khẩu và thị phần này có xu hướng ra tăng mạnh mẽ dưới tác động thuận chiều của hiệp định của WTO đã tạo ra khuôn khổ pháp lý mới tự do hơn cho thương mại thế giới, sự phát triển của công nghệ thông tin viễn thông, toàn cầu hoá về thương mại đầu tư và sản xuất tạo ra những thay đổi lớn về lợi thế so sánh giữa DN lớn và DNVVN các DNVVN phần lớn đều ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, yếu kém về trình độ quản lý trong khi cơ sở hạ tầng của các nước đang phát triển lại rất thiếu và đắt đỏ. Các ĐN lớn với danh tiếng của mình cùng với kinh nghiệm và hiệu quả hoạt động trên thương trường quốc tế thường dễ ràng có nguồn tài trợ cần thiết. Các DN lớn thường tự chịu trách nhiệm về vấn đề xúc tiến thương mại, hầu hết các DN này đều thiết lập các kênh marketing, hệ thống thông tin thương mại và các văn phòng đại diện của riêng họ. Trong khi các DNVVN khó có khả năng tự tìm nguồn tài trợ cần thiết, nếu không có một tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ vì đối với các thể chế tài chính, những khoản tài trợ cho các DNVVN có mức độ rủi do rất cao khó mà lường trước được. Các DNVVN thường thiếu kiến thức về Marketing hoặc khônh thể xâm nhập được vào các thị trường đã được an bài. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạch tranh về giá của hàng xuất khẩu của các DNVVN. Một chiến lược xúc tiến xuất khẩu (ở đây hiểu xúc tiến theo nghĩa rông: là toàn bộ các hoạt động của các thể chế hỗ trợ, đặc biệt là của tổ chức xúc tiến xuất khẩu quốc gia nhằm đẩy mạnh xuất khẩu) cần thiết phải xác định được phương thức tối ưu để giúp đỡ các DN đặc biệt là DNVVN khai thác tốt nhất mọi cơ hội và vượt qua những thách thức. Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua chi thấy xuất khẩu là động lực để phát triển kinh tế. Nhà nước đã tập trung nhiều nỗ lực để đẩy mạnh xuất khẩu. Những hoạt động xúc tiến xuất khẩu dồn dập của Chính Phủ đặc biệt là Bộ Thương Mại phải kể tới các cố gắng trong đàm phán với liên minh Châu Âu về việc chuyển Việt Nam sang nhóm nước thứ nhất được quyền xuất khẩu thuỷ sản vào EU..đặc biệt là đàm phán ký tắt và tiến tới ký kết chính thức hiệp định thương mại Mỹ- Việt. Thực tiễn trên chứng minh rằng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu của Chính Phủ Việt Nam đối với các doanh nghiệp rất quan trọng và hoạt động này cần đựoc tăng cường hơn nữa trong thời gian tới để đẩy mạnh sản xuất của nước nhà. Chính Phủ nên xem xét thành lập (quỹ bảo hiểm xuất khẩu hay các ngân hàng xuất nhập khẩu...) để cải thiện điều kiện tiếp cận nguồn tài trợ xuất khẩu, đặc biệt vấn đề củng cố hệ thống Marketing thông qua thành lập hay kiện toàn các thể chế xúc tiến cung cấp thông tin thương mại và thị trường cho các DNVVN khảo sát thị trường nước ngoài hay tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Khuyến khích các DN lớn ký hợp đồng phụ và bao tiêu sản phẩm cho các DNVVN, thành lập hay có biện pháp khuyến khích các công ty thương mại đảm nhận việc đóng gói bao bì, giao nhận, vận chuyển, cung cấp dịch vụ tài chính, bảo hiểm, quản lý chất lượng, quảng cáo... sẽ là các hoạt động yểm trợ có tác động rất lớn để các DN có thể tham gia XK đặc biệt là các DNVN. 3. Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng nội địa. Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá kinh tế Thương mại tuy mâu thuẫn với bảo hộ sản xuất trong nước nhưng đây chính là tồn tại thực tế mà hầu hết các nước đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện. ở Việt Nam, trước những đòi hỏi bức bách của tiến trình hội nhập nhưng ý thức vươn lên trong cạnh tranh còn yếu, khuynh hướng phổ biến của các ngành, các cấp và các DN còn nặng về ỷ lại hàng rào bảo hộ để tránh sức ép cạnh tranh. Hàng rào bảo hộ cao không những làm mất đi động cơ nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam mà còn làm cho tiêu dùng bị thiệt hại do phải mua với giá cao trong khi thu nhập của dân cư ở nước ta còn thấp Theo ông Trần Đình Thọ- PGĐ Sở Thương Mại Thành phố Hồ Chí Minh: "Bảo hộ phải tuỳ theo từng ngành nghề cụ thể, tuỳ theo mặt hàng chứ không phải mạnh ai tự đề xuất tràn lan, không có tính quốc gia. Khi bảo hộ, các công ty sản xuất theo chủ trương Nhà nước thì mới bảo hộ. Ngược lại việc bảo hộ sẽ làm lá chắn khiến cho những ngành nghề được bảo hộ liên kết thành một khu vực lợi ích cản trở chính sách hội nhập của Nhà Nước, Chẳng hạn như bảo hộ ngành đường trong nước, bảo hộ nông dân trồng mía, các nhà máy đường có thể sống được nhưng còn 80 triệu người tiêu dùng thì sao? Vì vậy Đảng và Chính phủ cần phải có chủ trương điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng có lựa chọn, có thời hạn và có điều kiện. Về bảo hộ có sự lựa chọn:Bảo hộ sản xuất trong nước bao gồm xây dựng và củng cố các hàng rào thuế và phi thúê để ngăn cản sự tấn công của hàng hoá ngoại nhập và các biện pháp hỗ trợ, điều chỉnh và nâng đỡ sản xuất trong nước. ở Việt Nam, chỉ nên bảo hộ sản xuất trong nước đối với các ngành và lĩnh vực sau: +Các ngành công nghiệp non trẻ mũi nhọn thuộc hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển của đất nước như: công nghiệp điện tử- tin học, công nghệ sinh học và công nghệ sản xuất vật liệu mới...vì vào thời kỳ đầu, sản xuất đang ở mức chi phí cao hơn so với giá cả các sản phẩm cùng loại nhập khẩu. +Các ngành nghề truyền thống ở các làng nghề như đồ gốm, thảm, đồ gỗ chạm khảm, sơn màu...để bảo vệ giá trị văn hoá Quốc gia, bảo vệ truyền thống dân tộc. +Các ngành nghề sử dụng lực lượng lao động lớn và mật độ tập trung quá cao như: dệt may, mía đường, chế biến thực phẩm... để tránh hậu quả nghiêm trọng do tỷ lệ thất nghiệp cao. +Các mặt hàng thuộc nhu cầu quốc tế dân sinh như an toàn về lương thực, về nguyên liệu cho các ngành sản xuất quan trọng, về an ninh quốc gia. +Các mặt hàng có sự chênh lệch lớn giữa sản xuất và tiêu dùng mà nhà sản xuất và kinh doanh không đủ khả năng dự trữ hoặc dự trữ phải chi phí quá cao sẽ gây ra các đột biến lớn về giá cả trên thị trường. Về mức độ và thời hạn áp dụng chính sách bảo hộ: Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia AFTA, APEC và đang chuẩn bị để gia nhập vào VVTO, do vậy trước hết chúng ta phải thực hiện các cam kết trong các quy định của chương trình CEPT về cắt giảm thuế, hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Đồng thời, phải thiết lập công khai hoá và từng bước thực hiện lộ trình cắt giỏam thuế và phi thuế của VVTO. Để khuyến khích đẩy mạnh chương trình "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" Nhà nước nên có chương trình thưởng cho người tiêu dùng trong trường hợp người tiêu dùng phát hiện hàng giả, hàng lậu để đảm bảo uy tín, chất lượng cho hàng hoá của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời các cơ quan quản lý phải phối hợp đồng bộ để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh " Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng ". Có như vậy người tiêu dùng mới tin tưởng vào chất lượng, uy tín của hàng nội địa". 4. Biện pháp tài chính, giá cả Trong khi hàng hoá còn ứ đọng quá nhiều thì việc kích thích tiêu thụ quả là khó khăn. Doanh nghiệp cần phải hạ giá bán hàng hoá đang ứ đọng (hạ đến mức có thể bán được) để kích thích tiêu dùng, nhất là kích cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước phải có biện pháp xử lý tài chính về thua lỗ do hạ giá bán gây ra đối với doanh nghiệp nhà nước và có những biện pháp phòng, ngăn chặn sự lợi dụng việc cho phép hạ giá để cho phép chuyển lỗ sang Nhà nước (Ngân sách) một mặt làm thiệt hại ngân sách, mặt khác làm mất đi áp lực buộc các DN phải tự xem xét lại chính mình. Tỷ giá hối đoái: cần phải điều chỉnh ở mức độ cần thiết để tăng cầu với nước ngoài nhưng có bước đi thận trọng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và các thể chế tài chính khác, đồng thời kiểm soát được sự ổn định của kinh tế vĩ mô phù hợp với sự biến động của giá cả trong nước và thế giới. Hiện nay, giá cả đang có xu hướng giảm, đây là thời cơ thuận lợi cho việc giữ ổn định giá cả khi điều chỉnh tỷ giá góp phần kích cầu, điều này cũng phù hợp với tinh thần NĐ.08 của Chính phủ "Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường trong và ngoài nước để điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, bảo đảm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ". Hạ lãi xuất đối với vay đầu tư ở nông thôn và vay đầu tư chiều sâu, đồng thời kiểm soát ngặt nghèo vay đầu tư mới. Vừa qua ngân hàng đã hạ lãi xuất từ 1,15% xuống 1,05% nhưng xem ra vẫn chưa "đủ độ" so với chỉ số lạm phát và so với tỷ xuất lợi nhuận mang lại của nền kinh tế và vì vậy chưa có khả năng kích thích mạnh việc vay vốn để đầu tư nhất là khu vực nông thôn. Để động viên kịp thời tinh thần, vật chất cho những đóng góp về trí tuệ sáng tạo, về hiệu quả của doanh nghiệp vào sự nghiệp đẩy mạnh XK, Bộ Thương Mại đã dùng đòn bẩy kinh tế "Thưởng xuất khẩu ". Nếu đợt I mới có 10 DN được thưởng theo 2 tiêu chuẩn và 90% nằm ở tiêu chuẩn 5.1(Xuất khẩu mặt hàng mới, mở thị trường xuất khẩu mới ) thì thưởng đợt II có 62 DN đặc biệt đã "phủ sóng" toàn bộ 5 tiêu chuẩn khen thưởng đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy "Thưởng xuất khẩu " tuy là một công cụ mới mẻ nhưng cũng đã phát huy tác dụng và có hiệu quả cao. Njững phần thưởng khuyến khích xuất khẩu đã hướng DN sáng tạo mặt hành mới, mở thêm thị trường xuất khẩu, ssản xuất mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao, ưu tiên hàng hoá gia công chế, biến chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước, có kim ngạch xuất khẩu cao và những mặt hàng ngoài hạn ngạch hoặc ngoài chỉ tiêu được phân giao. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thức được rằng thưởng xuất khẩu là một hình thức trong cả một hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thực hiện chiến lược hướng mạnh nền kinh tế vào XK được thể hiện qua các văn bản như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại VN, luật thuế XNK, thuế VAT, thúe thu nhập, NĐ 57/CP...Trong thời gian tới, Bộ Thương mại tiếp tục đưa ra những giải pháp nhằm giải phóng năng lực của các DNXK. Chính Phủ cũng cần phải xem xét thành lập ngân hàng XNK để hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng góp phần thúc đẩy hoạt động XK cho các DN. 5. Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn Cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nền nông nghiệp (NN) ở nước ta còn đang bị phân tán, manh mún, bị chia cắt, xé nhỏ, chưa hình thành đồng bộ các vùng chuyên canh tập trung với khối lượng hàng hoá, nguyên liệu lớn, nước ta hiện nay chưa tạo đủ các cơ sở công nghiệp để chế biến các sản phẩm có giá trị cao phục vụ thị trường trong và ngoài nước. Nên mặc dù sản phẩm nông sản hàng năm kim ngạch XK tăng 16-17% đạt 2,8-3,1 tỷ USD chiếm 30-32% giá trị xuất khẩu cả nước, nhưng nông sản phẩm đã qua chế biến, nhất là chế biến tinh, chiếm tỷ trọng nhỏ có loại chỉ chiếm 20-25%, còn lại hầu hết là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Vì thế các cơ sở chế biến nhỏ sẽ tận dụng được tối đa nguyên liệu tại chỗ, không phải vận chuyển đi xa trong điều kiện cở hạ tầng nônh thôn yếu kém, có thể làm tăng tỷ lệ hư hỏng, thất thoát, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi thế cạnh tranh trên các loại thị trường, làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Về quy mô: Tuỳ theo năng lực sản xuất thực tế khối lượng nông sản hàng hoá vốn có, tuy nhiên không manh mún, tản mát dễ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và "chết yểu" mà có các hình thức khác nhau. Về công nghệ: các cơ sở chế biến nhỏ phải dùng loại công nghệ thích hợp, nhỏ không đồng nghĩa với thô sơ, thủ công và chắp vá, tuỳ năng lực tài chính, có thể sử dụng công nghệ từ thô sơ đến hiện đại. Cùng với các cơ sở chế biến nhỏ này, phải xây dựng cho bằng được các trungg tâm chế biến nông sản hàng hoá hiện đại, sử dụng nguyên liệu đã qua sơ chế từ cơ sở sản xuất nhỏ, để cho ra đời sản phẩm tinh, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn và đúng thị hiếu của người tiêu dùng. III. Biện pháp từ phía DN. Hiện nay các DNVN đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và có nhiều rủi do. Việt Nam đã gia nhập AFTA và sẽ phải thực hiện lộ trình giảm thuế CEPT (đối với việt nam: đến năm 2006 thuế nhập các loại hàng hoá vào việt nam chỉ còn 0%- 5%) nên áp lực cạnh tranh ngày càng ra tăng và con đường đi lên phía trước của các DN có nhiều chướng ngại và nhạy bén là xuống vực phá sản. Ngoài ra đối với một đất nước đang phất triển như Việt Nam, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu cơ sở vật chất yếu kém, trình độ khoa học công nghệ và trình độ lao động, trình độ quản lý còn chịu ảnh hưởng của nếp sống “cũ” của thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì việc mắc sai lầm trong chỉ đạo, điều hành của Chính Phủ là khó tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những nỗ lực cố gắng vượt bậc của Đảng và Nhà Nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các DN. Một đất nước phát triển phải cần sự nỗ lực vượt bậc, sự đóng góp của toàn dân toàn xã hội mà các DN là thành phần trọng yếu. Vì vậy các DN phải tự xem xét mình đã chủ động tự vươn lên đỉnh cao trong thương trường chưa? ở nhiều cônh ty thay vì tìm lối thoát ra khỏi khó khăn bằng chính sự nỗ lực của bản thân, bằng việc động viên tối đa nội lực thì lại đi theo con đường mòn là “xin” Nhà Nước cấp vốn mặc dù biết rõ Nhà nước không có vốn để cho. Vì vậy TTSP của DN sẽ ngày càng khó khăn nếu như DN không đề ra những chính sách, chiến lược cạnh tranh hợp lý thì hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ là điều khó tránh khỏi mà hàng hoá ứ đọng đồng nghĩa với việc không thực hiện được mục tiêu của DN đặc biệt là lợi nhuận, không có hoặc ít lợi nhuận DN không đủ trang trải chi phí, bị lỗ và phá sản DN là khó tránh được. Vậy để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trong tiêu thụ sản phẩm thì DN cần thực hiện các biện pháp sau: 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay người Việt Nam có thú “xính đồ ngoại” đây là kiểu “chơi sang” tầng lớp thượng lưu nhưng không ít khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm của DN đặc biệt là đồ tươi sống, thuốc..nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ thậm chí cả tính mạng của người tiêu dùng vậy các DNVN nghĩ gì? Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không có nghĩa là hướng mọi nỗ lực của mình vào việc sản xuất ra sản phẩm thật tốt. Nừu vậy DN đã quên đi một yếu tố vô cùng quan trọng là “nhu cầu có khả năng thanh toán và khách hàng không mua sản phẩm mà họ không có nhu cầu. Một sản phẩm có chất lượng tốt khách hàng rất hài lòng về nó nhưng liệu họ có mua không? Rất có thể là không vì sản phẩm chất lượng tốt thì giá phải đắt tuy nhiên không phải khách hàng nào cũng đủ tiền để mua sản phẩm đó. “khả năng thanh toán” liên quan tới thu nhập và phân bổ thu nhập cho các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng. Vậy thì thế nào là một sản phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản phẩm có “chất lượng vừa đủ”. Nghĩa là với tiềm lực của mình DN sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Nâng cao chất lượng sản phẩm liên quan đến rất nhiều vấn đề: công nghệ,vốn, con người... Trước hết về vốn, công nghệ: hiện nay hầu hết các DNVN sản xuất với công nghệ được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã sử dụng hàng chục năm, không thích hợp với cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng, bến bãi, nhà kho, thiết bị...thường quá lớn,cồng kềnh đồ sộ nhưng công suất thấp nên hoạt đông kém hiệu quả vì phải chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu thường rất cao mà sản phẩm sản xuất ra chất lượng lại thấp không cạnh tranh được với sản phẩm ngoại nhập khó có khả năng xuất khẩu. Trong mấy năm gần đây tuy một số DN đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thường là đầu tư chắp vá, không đồng bộ do thiếu vốn. Công suất vẫn chưa cao nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN còn thấp. Vẫn biết thiếu vốn là vấn đề nan giải của các DN Việt Nam hiện nay nhưng trong sự cạnh tranh gay gắt thì hoặc là DN tồn tại và phát triển hoặc là phá sản.Tất nhiên không DN nào muốn phá sản, vậy thì DN phải tự cứu lấy mình trước khi chờ đợi vào các chính sách ưu đãi củaNhà nước. Việc đổi mới công nghệ là rất cần thiết. Nó cho phép DN sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với khách hàng. Đáp ứng với nhu cầu thị trường, tiết kiệm nguyên vật liệu, làm giảm giá thành sản xuất. DN hạ được giá bán, góp phần tăng tính cạnh tranh của sản phẩm DN. Vậy thì đổi mới công nghiệp bằng cách nào trong khi đa phần các DN Việt Nam đang thiếu vốn? Thiếu vón, các DN có thể huy động bằng nhiều cách:Vón vay ngân hàng, ODA, phát hành cổ phiếu (công ty cổ phiếu )...Đặc biệt là Nhà nước huy động vốn từ dân chúng trong nước cho DN vay. Hiện nay, lượng tiền vốn tồn tại trong dân chúng khá lớn, khoảng 4-6 tỷ USD sã hầu như là sự lãng phí 100% nếu số vốn đó tồn tại dưới hình thức xe máy, đất, vàng...mà không đưa vào sản xuất bởi bản thân các hình thức đó không tạo ra của cải cho xã hội, mà chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội. “Cái gốc của sự giầu có là sản xuất”.Người dân không hề có lỗi, bởi vì bất kỳ ai cũng muốn đem những đồng vốn chắt chiu của mình vào hoạt động có thể sinh lãi đem lại thu nhập cho bản thân. Về thực chất Việt Nam thiếu cơ hội đầu tư. Trong 3 đợt đIều chỉnh lãi xuất ngân hàng của nhà nước vừa qua nhưng xêm ra các DN vẫn chưa mạnh dạng đầu tư vào sản xuất. Việc huy động vốn từ dân cư phải thông qua hệ thống ngân hàng, mặt khác DN cũng có thể tự huy động vốn trong dân bằng cách bán cổ phiếu công ty (công ty cổ phân) cho dân chúng nhưng một khó khăn không phảu nhỏ là hình thức đầu tư hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam vì vẫn đề cổ phần hoá DN còn gặp nhiều rắc rối về xác định giá trị tài sản DN..trong khi trình độ hiểu biết của dân cư còn thấp nên họ chưa giám mạnh dạn mua cổ phiếu. Vậy muốn bán được cổ phiếu công ty phải có chính sách quản cáo, giới thiệu công ty, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu quy định, lợi ích của việc mua cổ phiếu công ty cho đại bộ phận dân chúng để tạo lập ra uy tín cho công ty. Tuy nhiên uy tín này phải được minh chứng bằng số lượng sản phẩm bán ra trong nước và quốc tế. Và một khi DN đã có uy tín trên thương trường, được nhiều người biết đến thì việc bán cổ phiếu để thu hút vốn đổi mới công nghệ cũng rễ ràng hơn. khi đã có vốn thì việc nhập công nghệ cũng phải thận trọng. DN cần phải xem xét xem nhập công nghệ nào phù hợp với DN, trong những trường hợp chưa đủ vốn để đổi mới đồng bộ thì xem xét ưu tiên đổi mới công nghệ ở bộ phận sản xuất nào là vô cùng quan trọng. Sau đó DN phảichọn đối tác để nhập công nghệ. Một thực trạng là trong những năm vừa qua các DN (đặc biệt là DNNN) đã đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại đắt tiền nhưng khi đưa vào vận hành sản xuất mới thấy là các công ty của chúng ta đã bị lừa vì công nghệ đó không phải là mới, hiện đại, mà là hàng “second- hand” mà chúng ta không biết. Điều này do trình độ của cán bộ công ty còn yếu kém, chưa đủ trình độ để kiểm tra được chất lượng của công nghệ nhập, không phát hiện được những khiếm khuyết của công nghệ. Chỉ khi nhập xong đưa vào sản xuất mới rõ, lúc đó thì “việc cũng đã rồi” và Việt Nam trở thành “bãi thải công nghiệp” cho các nước trên thế giới. Do vậy để cẩn thận hơn thì DN nên nhập khẩu qua việc thuê trung gian nước ngoài có uy tín, trình độ kiểm tra công nghệ. Chính vì vậy mà DN cần phải đầu tư đào tạo lại cán bộ để nâng cao trình độ hiểu biết, bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Và một điều vô cùng quan trọng là việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. Chúng ta lại mắc sai lầm trong việc kiểm tra các điều khoản trong hợp đồng đã chặt chẽ, phù hợp chưa? tránh tình trạng khi nhập khẩu về nhưng lại thiếu một chi tiết nào đó. Khi đó buộc chúng ta phải nhập khẩu chi tiết đó của nước xuất khẩu với giá “cắt cổ” do yêu cầu của tính đồng bộ của công nghệ. Nếu như việc nhập khẩu công nghệ là quá đắt thì DNVN có thể thuê thiết bị toàn bộ của nước ngoài (vừa tiết kiệm vốn lại không bị lạc hậu về công nghệ, chống phải nộp thuế nhập khẩu) mà hiện nay dịch vụ thuê và cho thuê thiế bị toàn bộ là rất phát triển trên thế giới (thiết bị toàn bộ là một hệ thống máy móc gắn với quy trình công nghệ để sản xuất ra một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ nào đó). Đặc biệt đối với DN thiếu vốn nhưng lại chỉ cần sử dụng thiết bị toàn bộ trong một thời gian ngắn thì DN nên đi thuê. Vừa tiết kiệm vốn, không lãng phí, tránh tình trạng sau khi hoàn thành một hợp đồng sản xuất cung ứng hàng hoá rồi thì hệ thông máy móc lại “thất nghiệp”. Việc thuê thiết bị toàn bộ có thể thuê dài hạn (Leasing), thuê ngắn hạn (Renting/Hiring) hoặc thuê mua(Leas purchase) việc lựa chọn hình thức thuê mua là do điều kiện sản xuất khả năng tài chính của DN. Nhưng nếu trong trường hợp thiếu vốn mà DN cần sử dụng thiết bị toàn bộ lâu dài thì DN có thể thuê theo hình thức thuê mua. Vì sau khi hết thời hạn thuê, DN có khả năng tích luỹ đủ vốn có thể mua lại thiết bị toàn bộ đó với giá phải chăng. Tóm lại cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, DN cũng cần phải có chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ thích hợp để tăng tính cạnh tranh của sanr phẩm DN. Về con người: Nếu như giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ quyyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm thì DN không thể thiếu chiến lược con người. Bởi nếu công nghiệp dù có hiện đại đến đâu nhưng trình độ công nhân, trình độ quản lý kém thì không vận hành được công nghệ hiện đại đó và tất nhiên hiệu quả sản xuất kém. Trình độ quản lý của lãnh đạo công ty được thể hiện qua các quyết định kinh doanh đúng đắn, qua chiến lược kinh doanh của công ty, ý chí đề ra mục tiêu và quyết tâm thực hiện mục tiêu. Trong khi kế hoạch được triển khai từ những dữ kiện tương đối ổn định thì việc hành động theo chiến lược lại trong môi trường biến động. Mục tiêu của kế hoạch mang tính kết quả,còn mục tiêu của chiến lược thể hiện rõ cái đích mà DN phải hướng đến,thể hiện rõ ý chí của DN. Trong khi đó hầu hết các DN Việt Nam đều chưa xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh(CLKD).CLKD là định hướng hoạt động có mục tiêu của DN cho thời kỳ dài và hệ thống các chính sách, biện pháp, điều kiện để thực hiện mục tiêu đề ra mà lại kinh doanh theo kiểu “chụp giựt”, hết thương vụ này đến thương vụ khác không có một định hướng phát triển lâu dài.Mặc dù DN đã từng bước biết gắn kết kinh doanh của mình với thị trường, với điều kiện môi trường kinh doanh, song nhìn chung cách quản lý của DN về cơ bản chưa thoát khỏi lối quản lý theo kế hoạch truyền thống để tiếp cận với phương thức quản lý kinh doanh hiện đại. Điều này phần lớn là do trình độ hiểu biết của cán bộ lãnh đạo về CLKD còn hạn chế, lý thuyết về CLKD chưa phổ biến ở Việt Nam. Các DN Việt Nam chưa thấy được sự cần thiết của quản trị kinh doanh theo chiến lược. Mà một trong các ưu thế của nó là DN sẽ tận dụng tốt nhất tất cả nguồn lực của mình, phát huy tốt nhất tiềm năng của DN trong kinh doanh góp phần tăng ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nhất là trong môi trường mà tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt thì yêu cầu công ty phải thực thi cách thức quản trị chiến lược ngày càng trở nên bức thiết và nghiêm túc hơn, nếu không DN luôn rơi vào tình trạng lúng túng, bị động, sớm muộn sẽ bị loại khỏi cuộc chơi trước các đối thủ cạnh tranh có kinh nghiệm Vì vậy trong xu thế phát triển và hội nhập, tính chất phát triển và mức độ gay gắt của công cuộc cạnh tranh thị trường đang đặt các DN Việt Nam phải có sự chuyển biến về chất trong ứng dụng lý thuyết hiện đại về quản trị kinh doanh, chuyển từ lối quản trị theo kế hoạch truyền thống sang quản trị kinh doanh chiến lược với sự biểu hiện trước hết là ở khả năng xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược kinh doanh? Muốn vậy DN cần phải nhanh chóng thực hiện việc đào tạo đội ngũ những nhà quản trị chiến lược. Nhà quản trị chiến lược là nhà kinh doanh nhưng phải luôn biết xem xét đầu tư như thế nào, cần những nguồn lực gì để có hiệu quả nhất, làm thế nào để đạt được ưu thế cạnh tranh, cơ cấu tổ chức của công ty cần thiết kế và xây dựng như thế nào để phù hợp với chiến lược kinh doanh của DN. Trình độ của lực lượng lao động của DN đặc biệt là công nhân sản xuất thể hiện ở kỹ năng kỹ xảo, sử dụng máy móc công nghệ hiện đại thành thạo sao cho có hiệu quả nhất, tímh sáng tạo trong công việc, quy trình làm việc khoa học hợp lý. Hiện nay sự mất cân đối trong chính sách đào tạo giữa bậc đại học và học nghề đã gây ra tình trạng “thừa cử nhân, hiếu thợ lành nghề”. Mới đây viện khoa học lao động Nhật Bản phối hợp với viện khoa học lao động Việt Nam đã mở cuộc điều tra về nhu cầu sử dụng lao động ở 300 DN tại Hải Phòng, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, kết quả cho thấy có 88,6% số DN có nhu cầu tuyển công nhân kỹ thuật lành nghề, nhưng trên thực tế mới chỉ đạt gần 50,5% nhu cầu, thậm chí có nơi mới chỉ đạt 3,9%. Khu công nghiệp Đồng Nai là một ví dụ điển hình. Theo tính toán mỗi năm, khu công nghiệp này cần khoảng 50.000 lao động có tay nghề trong đó 10% là trung cấp kỹ thuật, 60% thợ lành nghề và 25% lao động phổ thông. Song cho đến nay mới chỉ đáp ứng được 9,2% số lao động là công nhân lành nghề...Đây chưa kể đến số lao động có tay nghề tương đối về chuyên môn để phục vụ cho DNVVN ở các địa phuương, các DN tư nhân và các hợp tác xã sản xuất công nghiệp. Tình trạng này do chính sách đào tạo mất cân đối của nhà nước. Tuy nhiên DN cũng phải đặt câu hỏi tại sao có tình trạng này? Phải chăng chế độ tiền lương của công nhân còn thấp không thu hút được lực lượng lao động trong xã hội, điều kiện học tập và nghiên cứu để nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân còn hạn hẹp, khả năng thăng tiến là quá khó khăn mà trong sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì DN phải luôn thích ứng để đuổi kịp trình độ phát triển của thế giới. để thu hút được lực lượng lao động trong xã hội DN phải có chính sách đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân,cán bộ, kỹ sư, để nâng cao tay nghề thích ứng với công nghệ hiện đại. DN có thể cử một số công nhân lành nghề có tính sáng tạo trong công việc đi học tập ở các DN đơn vị bạn thậm chí cho đi du học ở nước ngoài để học tập, nghiên cứu tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ mới hiện đại, sau đó trở về DN truyền thụ lại kiến thức, kinh nghiệm cho công nhân của DN. đặc biệt lãnh đạo DN phải biết liên kết các thành viên trong DN hướng toàn bộ nỗ lực của mình vào mục tiêu chung của DN, tạo ra “một bầu không khí DN” đoàn kết, quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu DN đề ra, kích thích sự học hỏi, nâng cao trình độ tay nghề trở thành phong trào thi đua trong toàn DN. DN có thể mời các chuyên gia giỏi trực tiếp đào tạo cho công nhân DN mình. DN phải xây dựng một chế độ tiền lương, tiền thưởng thoả đáng để kích thích công nhân quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đề ra. DN có thể sử dụng biện pháp kích thích lợi ích vật chất, tinh thần đối với con cái cán bộ công nhân viên của DN nếu học giỏi đao đức tốt vì như thế vô hình chung DN không nhữnglàm cho công nhân yên tâm để gia đình mà rất có thể trong tâm trí lớp trẻ một “hình ảnh đẹp” về DN.có thể sau khi học xong sẽ quay trở lại làm việc phục vụ trong DN. Để phù đắp sự thiếu hụt lao động lành nghề, DN có thể liên kết với một số trường đại học kỹ thuật, trường dạy nghề và hỗ trợ đào tạo cho ngành mà DN cần (DN có thể trích một phần lợi nhuận để cấp học bổng cho những sinh viên đạt kết quả cao trong học tập, hỗ trợ cho những sinh viên nghèo vượt khó). Đồng thời DN cũng nên có một chính sách quảng bá về DN, giới thiệu về DN, các chính sách ưu đãi để thu hút lượng sinh viên trẻ, nhiệt tình, có năng lực về làm việc ở DN. Mọi nỗ lực của công ty về vốn, công nghệ, lao động đều nhằm mục đích sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, giúp DN đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì DN không được quên việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Các DNVN hiện nay chưa nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống quản lý chất lượng nên có DN thì nôn nóng muốn đạt tiêu chuẩn nên đốc thúc nhân viên tập trung quá mức vào xây dựng IS0 9000 mà lơ là các công việc khác của công ty, có DN thì lãnh đạo phó thác công việc xây dựng hệ thống chất lượng cho một vài người trong công ty chẳng hạn như cán bộ trong phòng điều tra chất lượng. Tính đến tháng 11/1998 cả nước có 17 DN được cấp chính chỉ IS0 9000, trong đó hầu hếy là các DN có vốn đầu tư nước ngoài thấp xa so với con số đạt IS0 9000 của các nước trong khu vực có cùng điểm xuất phát như chúng ta. Do nhu cầu áp dụng IS0 9000 chủ yếu do yêu cầu của khách hàng, bởi thế các DN sản xuất hàng cho thị trường nội địa hoặc thị trường quốc tế mà ở đó không đòi hỏi IS0 9000 thì hầu như DN không quan tâm. Các DN mới chỉ biết đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiện tại, mà chưa thấy rằng nếu đạt tiêu chuẩn IS0 9000 hàng hoá của họ sẽ đến được nhiều thị trường mới đó chính là cái đích mà DN cần phải tạo ra, khai thác. Vì vậy muốn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu sang những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, EU. DN cần phải đầu tư nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp, đạt hiêu quả cao nhất. 2. Hoạt động dịch vụ trong tiêu thụ sản phẩm. Một trong các triết lý kinh doanh là “khách hàng không mua hết sản phẩm DN nếu người bán không tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong quá trình TTSP” qua đó ta thấy được phần nào tầm quan trọng của hoạt động dịch vụ trong tiêu thụ sản phẩm Dịch vụ là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm bán, sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, dịch vụ không thể cất giữ trong kho và cũng không là kho đệm dự trữ cho nền KTQD. Phát triển hoạt động dịch vụ nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn tạo uy tín, sự gắn bó của khách hàng với DN, từ đó DN thu hút được khách hàng, bán được nhiều hàng, tăng thế lực của DN và cạnh tranh thắng lợi trên thương trường vì vậy hoạt động dịch vụ trong tiêu thụ sản phẩm là vô cùng cần thiết. Hoạt động dịch vụ phải đáp ứng thuận tiện, văn minh kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng. Có rất nhiều hình thức dịch vụ mà DN có thể áp dụng tuỳ theo chiến lược kinh doanh, năng lực tài chính, quy mô hoạt động, sản phẩm của DN. 2.1. Chào hàng Chào hàng là phương pháp sử dụng các nhân viên giao hàng, đưa hàng đến giới thiệu và bán trực tiếp cho khách hàng. Vì đây là phương pháp bán hàng trực tiếp, có sự giao tiếp giữa người bán (nhân viên giao hàng ) và người mua nên nhân viên giao hàng thông tin kịp thời về sản phẩm, về công ty cho khách hàng, trực tiếp giải đáp thắc mắc và thuyết phục khách hàng mua hàng đồng thời nhân viên giao hàng thu thập được thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Những thông tin naỳ rất quan trọng trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh và đưa ra các quyết định kinh doanh của DN. Cũng chính vì vậy mà trong việc chào hàng, nhân viên giao hàng có vai trò rất lớn trong việc bán hàng cũng như khuếch trương thanh thế của DN. Nên DN muốn thành công khi áp dụng loại hình dịch vụ này phải biết tuyển chọn, bồi dưỡng và đãi ngộ nhân viên chào hàng. 2.2. Quảng cáo Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền đưa thông tin về hàng hoá dịch vụ, danh tiếng và tiềm lực của DN cho người tiêu dùng, mục đích của quảng cáo nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, thuyết phục và dẫn đến quyết định mua hàng của khách hàng. Ngày nay, quảng cáo là một loại hình dịch vụ mà bất kỳ một DN nào bỏ qua. Tuy nhiên, muốn cho hoạt động quảng cáo hiệu quả thì quảng cáo phải đảm bảo chất lượng thông tin cao, quảng cáo phải hợp lý, bảo đảm tính pháp lý, tính nghệ thuật, đồng bộ và đa dạng, phù hợp với kinh phí dành cho quảng cáo và quảng cáo phải trung thực. Quảng cáo sản phẩm hàng hoá, thì “thông điệp quảng cáo” mà DN thể hiện thông qua chương trình quảng cáo là vô cùng quan trọng. Để tạo ra thông điệp quảng cáo ngắn, ấn tượng gợi trí tò mò sự thu hút, hấp dẫn khách hàng thì DN có thể thuê công ty quảng cáo làm chương trình quảng cáo sản phẩm của DN, nếu không DN phải đầu tư nghiên cứu và đưa ra chương trình quảng cáo thích hợp. Phương tiện quảng cáo có vai trò đóng góp không nhỏ vào tính hiệu quả của chương trình quảng cáo. Hiện nay có rất nhiều phương tiện quảng cáo: tivi, đài, báo và tạp chí, panô áp phích, phim quảng cáo ...nhưng việc lựa chọn phương tiện quảng cáo làm sao vừa đảm bảo yêu cầu của quảng cáo mà vẫn còn hợp với khả năng tài chính, sản phẩm của DN. Hiện nay quảng cáo qua tivi là một hình thức phổ biến, kết hợp được hình ảnh, mầu sắc, âm thanh, giọng nói gây sự chú ý và có số lượng người nghe và xem rất lớn nhưng chi phí quảng cáo qua tivi lớn và tính lâu bền không cao như quảng cáo bằng báo và tạp chí. Điều quan trọng đối với quảng cáo qua tivi là DN phải lựa chọn thời điểm thông tin và số lần nhắc lại sao cho hiệu quả nhất. Quảng cáo qua tivi rất phổ biến nhưng hầu hết các chương trình quảng cáo đều ngắn, thônh tin về sản phẩm, vè DN còn hạn chế, còn việc thực hiện chương trình quảng cáo dưới dạng phim quảng cáo thì quá ít. Ưu đIểm của phim quảng cáo ngoài việc khai thác được hình ảnh, mầu sắc, âm thanh còn khai thác được cả quy trình sản xuất, nguyên liệu đóng gói, nhẵn liệu bao bì. tuy nhiên nó chỉ hạn chế về đối tượng xem không rộng rãi nhưng có tác dụng lớn đối với những người quan tâm. Loại phương tiện quảng cáo này đặc biệt có tầm quan trọng đối với hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Các DN Việt Nam cũng nên khai thác phương tiện quảng cáo này vì hiện nay thônh tin về sản phẩm, về công ty, về địa điểm bán đến khách hàng chưa đầy đủ, nhiều khi khách hàng muốn mua hàng nhưng còn do dự, lựa chọn sản phẩm trong vô số các sản phẩm thay thế của các công ty khác nhau. 2.3. Chiêu hàng Chiêu hàng là phương pháp dùng hàng hoá tác động vào khách hàng gây sự thích thú hấp dẫn và làm cho khách hàng nẩy sinh quyết định mua hàng.DN có thể áp dụng một số hình thức chiêu hàng sau: +Chiêu hàng thông qua các yếu tố phi vật chất của hàng hoá (tên gọi, nhãn mác, màu sắc, kích thước...) nó có tác động gây ra hiệu ứng tức thời - khách hàng mua hàng. +Chiêu hàng thông qua catalog: thực chất là bảng thông báo với khách hàng các thông số hàng hoá và hướng dãn cách sử dụng. +Chiêu hàng thông qua trưng bày giới thiệu hàng hoá thông qua cửa hàng, hội chợ triển lãm. +Biếu mẫu sản phẩm cho những nhân vật nổi tiếng. Ngoài ra DN có thể thực hiện dịch vụ bảo hành, sửa chữa, thay thế phụ tùng (đặc biệt là các DN sản xuất), vận chuyển hàng hoá theo yêu cầu cuả khách hàng... 3. Mạng lưới bán hàng. Muốn bán được hàng nhanh, DN cần phải thoả mãn một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng: vè chất lượng, hình dáng, mẫu mã, kích thước, chủng loại, giá cả.. NgoàI ra yếu tố thời gian, địa điểm bán cũng rất quan trọng.Muốn đáp ứng tốt nhất về thời gian và địa đIểm bán, DN cần phảI xây dựng một mạng lưới bán hàng thích hợp, thuận tiện cho khách hàng. Tuỳ tình hình cụ thể của DN (tàI chính, sản phẩm, chiến lược kinh doanh..), mà DN xây dựng mạng lưới bán hàng thích hợp.Nếu sản phẩm của DN là hàng lâu bền, đắt tiền, có giá trị cao thì DN có thể đặt các đại lý tiêu thụ tại các thành phó lớn, các khu trung tâm tỉnh, thành phố, thị xã. Số lượng, dịa điểm đặt các đại lý tuỳ thuộc vào mật đọ dân cư, th nhập, thình độ hiểu biết của khu vực thị trường đó. DN phảI đặc biệt quan tâm tới địa đIểm đặt các đại lý, tránh đặt trên một đường thẳng vì khi khách hàng đI qua một cửa hang thì cũng đI qua cửa hàng khác tạo một sự nhàm chán, DN nên tính toán cụ thể mà lựa chọn các phương án tối ưu. Số lượng dại lý đừng quá ít so với nhu cầu lớn và đừng quá dày đặc so với nhu cầu nhỏ. Trong thường hợp DN muốn tập trung vào sản xuất (đói với DN sản xuất) mà không muốn hoặc không đủ năng lực để tổ chức hệ thống mạng lưới bán hàng hợp lý thì Dncos thể ký hợp đồng với các nhà đại lý ở các tỉnh đẻ thực hiện các hoạt động bán hàng cho DN. 4. Thông tin. Hiện nay thông tin về sản phẩm, về DN, địa điểm bán..đến với khách hàng chủ yếu thông qua các chuơng trình quảng cáo giới thiệu sản phẩm trên tivi, đài, báo.. Nhưng dòng thông tin ngược từ phía khách hàng đến DN còn hạn chế, gần như không được phản ánh đầy đủ. Chính vì vậy mà DN nên tổ chức cuộc hội nghị khách hàng, tổ chức các đợt phỏng vấn trực tiếp khách hàng. Đặc biệt là tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng, nó cho phép DN hiểu được các thắc mắc của khách hàng về sản phẩm, về DN, đồng thời DN cũng thông tin kịp thời về sản phẩm mới, các chính sách mới của DN đến khách hàng. IV. Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam. 1. Một số phương hướng phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam. - Phát triển công nghiệp chế biến nông sản. - Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. - Phát triển vật liệu xây dựng cấu trúc hạ tầng. - Phát triển các ngành dịch vụ. - Phát triển các ngành nghề thu hút nhiều lao động, mang lại hiệu quả thu nhập cho người lao động. - Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế phát triển công nghiệp nông thôn. - Tạo ra các điều kiện thuận lợi cho công nghiệp nông thôn phát triển. - Cần thiết hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp trong công nghiệp nông thôn. 2. Mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam. - Mục tiêu trước mắt: tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và giảm các tệ nạn xã hội ở nông thôn hiện nay. - Mục tiêu lâu dài: tạo chuyển dịch cơ cấu một cách tích cực, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ, từng bước hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đi lên CNXH. - Cơ cấu kinh tế nông thôn: nông nghiệp 40% (trồng trọt 20%, chăn nuôi 20%) công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 30%, dịch vụ 30%. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn 500 - 600 USD/năm (2010) và 1400 USD/năm (2020). - Tăng cường đầu tư phát triển cơ khí phục vụ các ngành sản xuất, chế biến nông lâm sản, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn. Tỷ lệ cơ giới hoá chung toàn ngành đạt 40 - 50D% (d2005), 60% (2010), 80% (2020). - Đổi mới cơ bản công nghệ lạc hậu, nâng cao các lĩnh vực trọng điểm ngang tầm khu vực và thế giới. Tỷ lệ đổi mới công nghệ hàng năm 10 - 12%. - Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp nông thôn đạt 9 - 10%/năm - Lao động dự kiến trong công nghiệp nông thôn đạt 5 triệu (2010), 7-8 triệu người (2020). - Tạo 180.000 - 200.000 việc làm từ tiểu thủ công nghiệp (2020) - Tăng thu nhập ngành tiểu thủ công nghiệp từ 20% lên 70% GDP nông thôn. - Mở rộng thêm 1000 làng nghề mới. - Kim ngạch xuất khẩu từ tiểu thủ công nghiệp đạt (2010) 1 tỷ, 2 tỷ (2020). 3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công nghiệp nông thôn. - Hình thành mạng lưới dịch vụ, thông tin tư vấn hỗ trợ phát triển công nghiệp nông thôn từ tỉnh đến huyện, xã với các hoạt động: tuyên truyền chủ trương chính sách phát triển công nghiệp nông thôn. + Cung cấp thông tin thị trường, giá cả cho cơ sở công nghiệp nông thôn. + Hướng dẫn lựa chọn trang thiết bị, công nghệ. + Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao động. - Tăng cường đầu tư của nông nghiệp cho các chương trình nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hoá. - Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc, giáo dục y tế phù hợp với điều kiện sinh thái. - Xây dựng các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn: + Chính sách về vốn. + Chính sách về thị trường. + Chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. + Chính sách tổ chức sản xuất. - Phát triển các làng nghề truyền thống và các làng nghề có liên quan trong vùng. - Các giải pháp về vốn, thủ tục hành chính. thị trường. - Nâng cao trình độ công nghệ: hướng dẫn tư vấn chuyển giao công nghệ mới, nghiên cứu công nghệ phù hợp. - Xây dựng các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung. - Quy hoạch vùng nguyên liệu khai thác. - Hình thành và mở rộng thị trường của công nghiệp nông thôn: đầu vào và đầu ra. - Thúc đẩy sự hình thành và củng cố các quan hệ liên kết với công nghiệp nông thôn. - Trợ giúp doanh nghiệp công nghiệp nông thôn tạo lập năng lực nội sinh. - Phát triển công nghiệp đô thị hỗ trợ công nghiệp hoá nông thôn. kết luận Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn đóng vai trò “chìa khoá” cho công cuộc phát triển toàn diện nông thôn, nó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, làm tăng năng suất lao động, tạo việc làm tăng thu nhập mở rộng các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam không thể diễn ra một cách suôn sẻ tốt đẹp mà nó gặp phải vô số vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ. Công nghiệp nông thôn Việt Nam còn trong tình trạng manh nha non kém với những thành tựu đã đạt được cùng với việc lộ rõ những khó khăn của quá trình phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn hay chưa có sự phối hợp đồng bộ các bộ phận cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ cho phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn. Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn, nắm bắt học hỏi kinh nghiệm các nước khu vực và nhận biết những khó khăn thách thức bộc lộ trong quá trình, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những mục tiêu định hướng cho sự phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn trong thời gian tới. mục lục lời nói đầu 1 Chương I: vai trò của thị trường đối với phát triển công nghiệp nông thôn ..................................................................... 4 I. Định nghĩa công nghiệp nông thôn............................................................................... 4 1.1. Định nghĩa: ............................................................................................... 4 1.2. Các loại hình tổ chức của CNNT Việt Nam .................................................. 4 1.3. Cơ cấu ngành nghề của CNNT Việt Nam ..................................................... 5 1.4. Một số chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả của CNNT Việt Nam ................ 6 II. Vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn Việt Nam ................................................................................................ 8 1. Công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông thôn. .................................................................................. 8 2. Công nghiệp nông thôn một số nước và lãnh thổ trên thế giới. ................. 11 Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm cho CNNT ở nước ta ......................................................................................... 14 I. Thực trạng ttsp ở thị trường nước ngoài. .................................................................. 14 1. Ngành cà phê................................................................................................. 16 2. Ngành dệt ...................................................................................................... 22 II. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa. ................................................ 28 III. Nguyên nhân ................................................................................................................. 34 1. Nguyên nhân về phía nhà nước. .................................................................. 34 2. Nguyên nhân từ phía DN. ............................................................................ 38 IV. Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam. ......................................................... 43 1. Thực trạng kinh tế nông thôn. ..................................................................... 43 2. Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam - đánh giá tổng quát .......... 44 3. Khía cạnh công nghệ - công nghiệp trong công nghiệp nông thôn Việt Nam. ............................................................................................................... 45 4. Doanh nghiệp - dịch vụ trong công nghiệp nông thôn Việt Nam .............. 46 5. Kết cấu hạ tầng trong công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam. ................... 46 Chương III: Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cho CNNT ....................................................................................... 48 I. Định hướng chung ........................................................................................................ 48 1. Thị trường nội địa: ........................................................................................ 48 2. Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu. ........................................................... 49 II. Giải pháp về phía nhà nước. ....................................................................................... 50 1. Biện pháp kích cầu của nhà nước ............................................................... 50 2. Xúc tiến thương mại ..................................................................................... 51 3. Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng nội địa. ..................................... 53 4. Biện pháp tài chính, giá cả ........................................................................... 54 5. Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn ................................... 56 III. Biện pháp từ phía DN. ................................................................................................. 57 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm.................................................................... 57 2. Hoạt động dịch vụ trong tiêu thụ sản phẩm. ............................................... 64 3. Mạng lưới bán hàng. .................................................................................... 66 4. Thông tin. ...................................................................................................... 67 IV. Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam. .................................................................................................... 67 1. Một số phương hướng phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam. ........ 67 2. Mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam................................ 68 3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công nghiệp nông thôn. ......... 69 kết luận 71

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn.pdf
Luận văn liên quan