Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả họat động gia công xuất khẩu của công ty may Minh Trí

Gia công hàng may mặc xuất khẩu đang là vấn đề sôi động trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Hiện nay hiệu quả gia công về mặt xã hội là vô cùng to lớn. Bên cạnh đó thì lợi ích thu được chưa nhiều, đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa. Đó là việc đầu tư trong quá trình sản xuất, đầu tư về việc nghiên cứu mẫu mã thị trường may mặc thế giới, cải tiến cách quản lý, mối quan hệ giữa các đối tác sao cho phù hợp giữa điều kiện sản xuất trong nước và các điều kiện quốc tế. Phải đa dạng hoá thị trường, bạn hàng và sản phẩm, hướng vào việc gia công theo chiều sâu . Chắc chắn hiệu quả gia công hàng may mặc xuất khẩu sẽ đem lại ngày càng nhiều, đóng góp ngày càng nhiều hơn trong sự nghiệp CNH-HĐH.

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả họat động gia công xuất khẩu của công ty may Minh Trí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững hạn chế trong hoạt ddộng của mình. Công ty nên xem xét và chú ý hơn nữa để có những biện pháp hữu hiệu hơn khẵc phục để hoạt động kinh doanh gia công xuất khẩu ngày càng có hiệu quả cao hơn nữa bằng những phương hướng pháp triển Công ty. Nội dung chi tiết được thể hiện trong chương III của chuyên đề. Chương III Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu của công ty May Minh Trí I. Phương hướng và mục tiêu phát triển hoạt động gia công xuất khẩu của ngành công nghiệp Dệt May nói chung và công ty May Minh Trí nói riêng 1. Định hướng của Chính phủ về xuất khẩu hàng dệt may Để có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng mục tiêu, định hướng phát triển từ nay đến năm 2010, ngành Dệt May Việt Nam đã xác định một số quan điểm phát triển như sau: Thứ nhất, công nghiệp dệt may là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước cần ưu tiên phát triển trong thời kỳ dài và phải được coi trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Thứ hai, phát triển công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại về công nghệ, trang thiết bị và đa dạng hóa về sản phẩm. Thứ ba, phát triển công nghiệp dệt may theo mục tiêu hướng về xuất khẩu gắn với việc thay thế hàng nhập khẩu một cách hợp lý. Thứ tư, phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung ưu tiên phát triển các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ phủ hợp với trình độ tổ chức và quản lý ở nước ta. Thứ năm, phát triển công nghiệp dệt may gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp và các ngàng kinh tế khác, đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Theo quy hoạch tổng thể “Phát triển ngành công nghiệp Dệt - May đến năm 2010” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4/9/1998, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp Dệt – May đến năm 2010 là hướng gia công xuất khẩu sang xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp Dệt – May, trong đó bao gồm công nghiệp may mặc Việt Nam trở thành công nghiệp mũi nhọn góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỷ USD năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010; đưa nước ta trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực và trên thế giới. Sau đây là một số bảng thể hiện mục tiêu ngành may mặc Việt Nam trong thời gian tới. Bảng 18. Chỉ tiêu sản xuất gia công và xuất khẩu năm 2010 của ngành dệt may Việt Nam Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2005 2010 Kim ngạch XK - trong đó: Triệu USD 2000 3000 4000 -Hàng may Triệu USD 1630 2200 3000 -Hàng dệt Triệu USD 370 800 1000 Sản lượng - trong đó: -Vải lụa thành phẩm Triệu mét 800 1330 2000 -Sản phẩm dệt kim Triệu mét 70 150 210 -Sản phẩm may Triệu mét 350 480 720 -Sản phẩm may quy chuẩn Triệu mét 580 780 1200 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 của Việt Nam – Bộ Công Nghiệp) Bảng 19. Cơ cấu thị trường xuất khẩu vào năm 2005 của ngành May Việt Nam. Thị trường KNXK TT (%) EU và Thuỵ Sĩ 1- 1,2 tỷ USD 27 SNG và Đông Âu 0,3 tỷ USD 7 Nhật Bản 0,8- 1 tỷ USD 25 Các nước châu á khác 1-1,2 tỷ USD 27 Bắc Mỹ 0.5 tỷ USD 10 Thị trường khác 0.2 tỷ USD 4 (Nguồn: quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 của Việt Nam – Bộ Công Nghiệp) Bảng 20. Diện tích và sản lượng nguyên liệu của ngành dệt may đến 2010 Nguyên liệu Đơn vị 2000 2010 Diện tích: -Trồng bông. -Dâu tằm Ha Ha 37.000 25.000 100.000 40.000 Sản lượng: -Bông xơ Tấn 18.000 60.000 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 của Việt Nam - Bộ Công Nghiệp) Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam năm 2010 là hướng ra xuất khẩu, nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, tái sản xuất mở rộng, từng bước xây dựng ngành dệt may Việt Nam trở thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn, chủ lực, chiếm lĩnh thị trường thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động, thực hiện triệt tiêu để thực hiện đường lối CNH - HĐH đất nước Để đạt được mục tiêu này, từ nay tới năm 2005 ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, từ năm 2005 trở đi tăng trưởng 14%/năm. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam dự kiến phấn đấu năm 2010 là 2 tỷ mét vải các loại, dùng bông Việt Nam khoảng 60-70%, xuất khẩu khoảng 4-5 tỷ USD tưăng 2,5 lần so với năm 2000, sản phẩm xuất khẩu bằng vải chiếm 60-70%, thoả mãn 30-35% nhu cầu bông cho sản xuất và theo dự kiến có thể sản xuất trên 100 ngàn tấn bông xơ, 8-10 ngàn tấn tơ tằm phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Đồng thời đảm bảo đến năm 2010 công nghệ sản xuất sẽ tương đương HongKong, Thái Lan, tạo việc làm cho khoản 2,76 triệu người (gồm lao động dệt, may, sản xuất bông vải và dâu tơ tằm)với mức thu nhập bình quân trên 100USD /người/ tháng. Mặt khác ngành công nghiệp dệt may sẽ tập trung phát triển ở ba vùng lớn: TP Hồ Chí Minh - Huế - Hà Nội. 2. Phương hướng sản xuất kinh doanh của công ty May Minh Trí Trên cơ sở những kết quả thực tế đạt được trong các năm qua, đứng trước những khó khăn và thuận lợi như đã phân tích, đồng thời để góp phần thực hiện mục tiêu chung của ngành dệt may Việt Nam, công ty đã đề ra những phương hướng phát triển cụ thể từ nay đến năm 2010 như sau:  Về kim ngạch xuất khẩu: Phấn đấu không ngừng tăng qua các năm, dự kiến đến năm 2010 đạt được giá trị kim ngạch nhập khẩu là 10 triệu USD.  Về thị trường: Tiếp tục giữ vững các thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng thêm các thị trường mới như; Mỹ, Canađa, Nhật bản,... Đa dạng hoá các quan hệ thị trường, đối tác trong và ngoài nước. Chú trọng hơn vào các thị trường không hạn ngạch để tránh tình trạng bị lệ thuộc vào Quota do Bộ Thương Mại cấp. Đồng thời mở rộng quan hệ với các Xí nghiệp may trong nước để có thể uỷ thác, nhận uỷ thác, thuê thầu phụ,... khi cần thiết.  Về mặt hàng: Tăng tỷ trọng hàng cao cấp như bộ đồ trượt tuyết, giữ vững và phát triển các mặt hàng chủ lực như: áo jacket, áo sơmi, ... đồng thời tiến tới đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh.  Về cơ cấu tổ chức và quản lý: Tiến tới hoàn thiện và mở rộng thêm bộ phận kinh doanh và các dịch vụ bán hàng để tận dụng nguồn vật tư dư thừa cũng như nguồn vật tư trong nước. Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý. Đội ngũ cán bộ cần phảI biết quản lý sản xuất kinh doanh, biết thu thập và xử lý các thông tin cần thiết một cách khoa học, biết xác lập và xác định mục tiêu, ra các quyết định hợp lý và kịp thời. Mở rộng và đào tạo cán bộ trên các lĩnh vực: chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,...  Về lao động: Tổ chức cải tiến sản xuất để đạt năng suất lao động cao, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật thích ứng với cơ chế thị trường, với trình độ CNH-HĐH. Công nhân phải có trách nhiệm bảo quản máy móc thiết bị mà mình phụ trách, có tác phong công nghiệp trong sản xuất dây chuyền, vận hành máy móc.  Về máy móc thiết bị: Tiếp tục đầu tư hoàn thiện dần máy móc, thiết bị theo hướng CNH-HĐH để có khả năng sản xuất các sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, thích ứng với các thị trường khó tính nhất.  Về loại hình kinh doanh: Từ trước đến nay công ty chỉ thực hiện gia công theo loại hình nhận nguyên liệu giao thành phẩm, tức là công ty chỉ đảm nhận các công đoạn trong quá trình sản xuất, chịu trách nhiệm làm thủ tục nhập nguyên phụ liệu và xuất thành phẩm. Với loại hình này, lợi nhuận mang lại không cao song đây là bước đi không thể thiếu được của bất kỳ công ty may nào. Mục tiêu cuối cùng của công ty là tiến hành sản xuất, xuất khẩu trực tiếp sản phẩm để thu được lợi ích kinh tế cao nhất. Do vậy trong các năm tới, công ty sẽ đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng đặt gia công theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu của công ty Minh Trí. 1. Hình thành bộ phận nghiên cứu thị trường cho doanh nghiệp. Thị trường có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Nó là nơi mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm các yếu tố đầu vào, đồng thời cũng là nơi tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp có được là trên cơ sở thoả mãn các nhu cầu của thị trường. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều diễn ra trên thị trường có quan hệ mật thiết với các yếu tố của thị trường như cung và cầu,giá cả… và do đó, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không trước tiên phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường nhằm có được những tín hiệu thông tin cần thiết đẻ phục vụ cho hoạt động của mình. Từ sự phân tích cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và thực trạng hiệu quả hoạt động ngập khẩu trong những năm qua cho thấy, hoạt động kinh doanh,đạc biệt là nhập khẩu đạt hiệu quả chưa tương xứng với tiềm nâng của công ty. Sở dĩ như vậy là vì công ty vẫn còn chịu ảnh hưởng của lối làm việc cũ,chậm chạp trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh. Điều đố một phần do việc nghiên cứu thị trường được đặt tại từng phòng mạnh ai nấy làm, thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau trong làm ăn làm cho thông tin và phán đoán thiếu chính xác nên làm giảm hiệu quả trên góc độ toàn doanh nghiệp. Để thống nhất công tác nhiên cứu thị trường và chuyên môn hoá, tập trung về một đầu mối trên phạm vi toàn công ty, cần thiết phải thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường phòng kế hoạch. Ngoài bộ phận kế hoạch ra, bước đầu định biên lao động bộ phận này gồm 5 người, bao gồm: 1 Phó phòng phụ trách bộ phận nghiên cứu thị trường. Bộ phận nghiên cứu thị trường gồm 2 nhân viên nghiên cứu thị trường đầu vào. Công việc lựa chọn, sắp xếp tuyển mộ, tuyển dụng nhân viên do phòng quản lý nhân sự đảm nhiệm trên cơ sở các tiêu chuẩn, chế độ lao động của nhà nước. Hiện tại công ty đã có phòng kế hoạch, để tiết kiệm chi phí và hợp lý hoá khâu tổ chức, các nhân sự còn thiếu thì bổ sung từ các phòng kinh doanh hoặc tuyển thêm (nếu cần thiết) với yêu cầu là tất cả phải có trình độ đại học tương ứng với chức năng hoạt động củ nhân viên đó. Ngoài ra phải có thêm trình dộ sửu dụng thành thạo ngoại ngữ thường là tiếng Anh, Trung , Pháp và máy tính để phục vụ tốt hơn công việc. Nếu biện pháp này được thực hiện và hoạt động tốt thì phòng sẽ tư vấn cho ban giám đốc, các chi nhánh về tình hình thị trường trong và ngoài nước, giúp cho các đơn vị này có được những cái nhìn, đúng đắn của đơn vị mình, do đó hoạt động kinh doanh sẽ hoạt động có tính định hướng hơn và do đó hiệu quả sẽ được ổn định và có kinh doanh nâng cao. Để có thể thực hiện được biện pháp này đòi hỏi phải có sự đồng tình của ban giám đốc và cán bộ công nhân viên trong công ty. Thời gian đầu mới đi vào hoạt động đòi hỏi có sự chỉ bảo nhiệt tình của các nhân viên trong công ty đã từng làm hoặc có liên quan đến công việc của phòng, trình độ của các nhân viên sẽ được nâng cao lên. 2. Huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động gia công xuất khẩu Vấn đề vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp nhất là đối với những doanh nghiệp tư nhân mới thành lập như công ty. Để huy động vốn, công ty phải tìm các nguồn vay có lãi suất mềm, thời hạn dài tạo điều kiện thuận lợi cho công ty làm ăn có hiệu quả. Cùng với việc huy động nguồn vốn, Công ty phải luôn chú ý tới việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó. Để giải quyết vấn đề thiếu vốn cho hoạt động gia công xuất khẩu công ty có thể chủ động tạo nguồn vốn kinh doanh thông qua:  Huy động nguồn vốn trong nước: - Huy động từ các ngân hàng thông qua hình thức vay, mặc dù tiếp cận nguồn vốn này khá khó khăn nhưng đây là nguồn vốn quan trọng nhất cần khai thác và hiện nay nhiều ngân hàng có chế độ cho vay khá mở, cộng với sự hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của Chính phủ. - Huy động từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty. - Huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được - Thúc đẩy hợp tác liên kết liên doanh với các Công ty khác để tăng thêm vốn cho kinh doanh xuất khẩu. - Tận dụng nguồn vốn từ Công ty Tài chính của Tổng công ty. - Tiến tới cổ phần hoá, để kiểm soát Công ty tiến hành cổ phần theo hướng các thành viên trong Công ty mua 51% cổ phiếu. Nhưng trước hết Công ty phải có chiến lược kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, có uy tín và có tiềm lực phát triển.  Huy động vốn từ nước ngoài - Vay từ các nhà nhập khẩu nước ngoài là khách hàng của Công ty, đặc biệt là khách hàng quen có mối quan hệ làm ăn lâu dài. - Tận dụng nguồn vốn của bạn hàng khi xin ứng trước vốn để xuất hàng.  Sử dụng hiệu quả nguồn vốn - Tăng nhanh vòng quay của vốn bằng cách nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, khuyến khích đội ngũ kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn để tăng doanh số. - Tiết kiệm chi phí, sử dụng hợp lý tài sản. - Tăng cường công tác quản lý tài chính: hạch toán, theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu tài chính của Công ty, quản lý chặt chẽ nguồn vốn, chống lãng phí…  Nâng cao hiệu quả trong quản lý chi phí-vốn-lợi nhuận - Công ty tiếp tục phát huy những thành công đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề cho những hoạt động của những năm kế tiếp. Bảo toàn và phát triển vốn bằng cách thường xuyên đánh giá lại kết quả hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để có sự hỗ trợ, hạn chế việc không thu hồi vốn hoặc bị chiếm dụng vốn giúp cho việc quay vòng vốn nhanh. Thường xuyên trích lợi nhuận để phát triển vốn chủ động tạo nguồn vốn, tranh thủ vốn bên ngoài để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Thứ hai: Giải quyết những hạn chế còn tồn tại. Mặc dù số các chỉ tiêu trên vận động theo hướng tích cực nhưng bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại do cuộc khủng hoảng kinh tế gây nên làm giảm doanh lợi của Công ty , Công ty cần áp dụng các biện pháp một cách hợp lý và hiệu quả. 3. Phát triển nguồn nhân lực Con người là nhân tố quyết định sự thành bại của hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu như Công ty Xuất Nhập khẩu Dệt May thì điều tiên quyết thì phải có đội ngũ cán bộ ngoại thương lành nghề. Một đội ngũ cán bộ ngoại thương mạnh phải có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác, kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước, đồng thời phải nắm bắt thông tin một cách chính xác về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó. Khả năng tiếp thị tốt cũng là một trong những tiêu chuẩn không thể thiếu được đối với đội ngũ cán bộ ngoại thương. Khi tiếp cận với thị trường quốc tế, các đòi hỏi và tiêu chuẩn cao hơn hẳn thị trường trong nước, vì thế các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phải có khả năng tiếp thị tốt hơn. Mặc dù khá chú trọng đến vấn đề nguồn nhân lực song đây vẫn là một vướng mắc của Công ty trong hoạt động xuất khẩu trực tiếp, vì thế trong thời gian tới, để có đội ngũ làm việc thực sự có hiệu quả, Công ty cần áp dụng các giải pháp sau về nhân lực :  Khuyến khích cán bộ theo học các khoá học dài hạn như Đại học tại chức, văn bằng hai khối kinh tế về nghiệp vụ ngoại thương đối với những người chưa qua đại học hoặc tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác đang làm việc liên quan đến xuất nhập khẩu.  Mở lớp đào tạo ngắn hạn về ngoại ngữ, tin học, Marketing xuất nhập khẩu cho đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại thương. Tạo điều kiện cho những cán bộ này tham gia theo học các khoá học ngắn hạn do các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam hoặc các chuyên gia nước ngoài tổ chức giảng dạy về nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh thương mại quốc tế, các lớp chuyên đề về các thị trường trọng điểm. Các khoá học này được Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, trường Đại học Kinh tế quốc dân, trường Đại học Ngoại thương… tổ chức.  Có chế độ khen thưởng, khuyến khích động viên kịp thời đối với những cán bộ năng động, thiết lập nhiều mối quan hệ kinh doanh ở các thị trường.  Thực hiện đúng quy chế tiền lương (3 tháng một lần điều chỉnh hệ số lương mềm nhằm khuyến khích kịp thời), có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ chủ chốt trong Công ty, tuyển chọn người kịp đáp ứng nhu cầu công việc, chăm lo đời sống của cán bộ công nhân viên... 4. Tích cực tham gia dự thầu hạn ngạch. Dựa vào kết quả kinh doanh của năm trước mà công ty được Bộ Thương Mại cấp cho lượng hạn ngạch để tiến hành sản xuất trong năm tiếp theo. Ngoài ra công ty cũng có thể đầu thầu thêm hạn ngạch do Bộ Thương Mại dành ra 20% tổng hạn ngạch để gọi thầu. Công ty nên tận dụng cơ hội này nhằm tăng thêm hạn ngạch mở rộng sản xuất. Việc trúng thầu hạn ngạch là hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng sản xuất kinh doanh của công ty để có giá bỏ thầu hợp lý. Thực tế thì công ty cũng có những lần trúng thầu song nhìn chung việc tham gia dự thầu là rất hạn chế, công ty chưa chú trọng tới phần hạn ngạch có thể có thêm này. Trước những cơ hội to lớn từ phía môi trường kinh doanh, đó là những thị trường đầy tiềm năng mà công ty chưa tận dụng hết khả năng đáp ứng, đặc biệt là những thị trường có hạn ngạch như: EU, Canađa, Mỹ,...Để có thể mở rộng xuất khẩu sang những thị trường này thì vấn đề có được hạn ngạch là rất quan trọng, do đó công ty cần khẳng định năng lực cạnh tranh của mình thông qua: cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên,...để hiệu quả sản xuất ngày càng tăng, đủ khả năng để bỏ giá thầu thuyết phục. Hơn nữa nếu chỉ đơn thuần dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh của năm trước để nhận cấp hạn ngạch cho năm sau thì việc mở rộng quy mô sản xuất là rất khó khăn vì nó luôn ổn định với mức hạn ngạch cho phép. Do vậy, tích cực tham gia dự thầu hạn ngạch và phát huy hết thế mạnh khả năng của mình để trúng thầu, tăng thêm hạn ngạch là điều kiện quan trọng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. 5. Quan hệ hợp tác tốt với các tổ chức cung cấp các yếu tố đầu vào. Quan hệ, hợp tác với các cơ sở dệt và các cơ sở sản xuất phụ liệu. Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu của công ty vẫn chủ yếu là được nhập từ nước ngoài bởi vì vải và các nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và chủng loại đa dạng của khách hàng, vừa thiếu lại vừa yếu. Do đó trước hết công ty cần có mối quan hệ chặt chẽ với cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu của nước ngoài nhằm tạo cho công ty có nguồn nguyên phụ liệu đảm bảo chất lượng và ổn định hơn cho việc sản xuất và xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc. Điều đó đòi hỏi công ty phải thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường quốc tế để đảm bảo có những thông tin cần thiết về cơ sở đó, tránh cho công ty phải mua qua các tổ chức trung gian hay những thiệt hại do không hiểu biết về thị trường. Tuy nhiên đó chỉ là một bước tình thế vì nếu chỉ dựa vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài thì công ty sẽ bị phụ thuộc vào nước ngoài, thiếu tính chủ động trong sản xuất kinh doanh, giảm hiệu quả của hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Bởi vậy, ngay từ bây giờ công ty cần phải phối hợp một cách chặt chẽ với các cơ sở nguyên phụ liệu hiện đang cung cấp cho công ty cho ở trong nước. Điều đó sẽ cho công ty tạo lên một sức mạnh tổng hợp cho một chu trình khép kín, đồng bộ từ nguyên liệu phụ cho đến sản phẩm cuối cùng. Từ đó công ty chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh mà cụ thể là kế hoạch đẩy nhanh quá trình chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của công ty đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.  Quan hệ hợp tác với các xí nghiệp cơ khí may. Cơ khí may là một bộ phận quan trọng của may mặc. Thời gian qua các xí nghiệp cơ khí may đã có nhiều cố gắng sản xuất được một số máy móc cho ngành may như máy cắt vòng, dao cắt, bàn, chân máy may, phụ tùng thay thế. Song nhìn chung ngành cơ khí còn nhỏ bé, lạc hậu và chưa được quan tâm đầu tư phát triển để đáp ứng được yêu cầu ngày càng hiện đại của ngành công nghiệp. Trong khi đó công ty cũng như nhiều doanh nghiệp may mặc khác đứng trước nhu cầu to lớn về đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị máy móc phục vụ cho may xuất khẩu buộc các Công ty phải nhập chúng từ nước ngoài, kể cả phụ tùng thay thế. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp như hiện nay thì đó là một vấn đề khá nan giải đối với công ty. Vì vậy công ty cần phải hợp tác tốt với các công ty cơ khí may, cung cấp cho họ những thông tin về những nhu cầu đổi mới, thay thế, sửa chữa máy móc thiết bị của Công ty. Thậm chí công ty có thể hỗ trợ một phần kinh phí cho họ có thể sản xuất ra các máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế với giá rẻ và chất lượng đảm bảo, giúp cho công ty tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn mà vẫn đảm bảo cho hoạt động sản xuất hàng gia công và xuất khẩu trực tiếp. Đồng thời nếu chưa sản xuất được thì họ cũng có thể tư vấn thông tin kịp thời cho công ty trong việc đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ một cách có hiệu quả. Ngoài hợp tác với các cơ sở trong nước, Công ty cũng cần chú ý trong việc phối hợp với các hãng nước ngoài cung cấp phụ tùng, thiết bị cho công ty, trọng tâm là phối hợp với các hãng Juki (Nhật Bản) là hãng sản xuất, bảo trì và cung cấp phụ tùng máy may Juki- loại máy công nghiệp đang được sử dụng nhiều nhất ở Công ty.  Quan hệ hợp tác với các cơ sở đào tạo. Đây chính là nơi sẽ đào tạo và cung cấp cho công ty những công nhân kỹ thuật lành nghề, những cán bộ có năng lực giúp cho công ty vượt qua khó khăn không ngừng vươn lên để khẳng định mình trên thị trường may mặcthế giới bằng những sản phẩm có chất lượng cao. Sự phối hợp của công ty với các cơ sở đào tạo sẽ giúp việc đào tạo gắn liền với nhu cầu sử dụng, đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh của công ty. Côg tác này có thể thực hiện dưới các hình thức tổ chức các cuộc kiểm tra tay nghề công nhân, tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn cho cán bộ công nhân viên để nâng cao trình độ…Những người được đào tạo sẽ cóc những kiến thức và phẩm chất cho nghề nghiệp và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của công ty trong việc thực hiện chuyển đổi từ gia công đơn thuần sang gia công mua đứt bán đoạn.  Quan hệ hợp tác tốt với các trung tâm nghiên cứu mẫu mốt. Ngoài ra công ty cũng cần có quan hệ với các trung tâm nghiên cứu mẫu mốt, đặc biệt là Viện thiết kế thời trang Việt Nam để có những thông tin về mẫu mốt đang được thịnh hành nhất là ở nước ngoài hay có được nhưng cơ hội để thử nghiệm những mẫu mới nhất của các trung tâm này ra thị trường nước ngoài từ đó tăng khả năng cạnh tranh của công ty, vấn đề này đã được đề cập ở trên.  Quan hệ hợp tác tốt với các tổ chức tín dụng. Quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng có thể nhanh chóng tiếp cận với những nguồn vốn cho vay ưu đãi giúp công ty giải quyết vấn đề nan giải hiện nay là thiếu vốn. Họ cũng có thể hỗ trợ công ty kịp thời những lúc nhu cầu vốn lên cao.  Mở rộng quan hệ hợp tác với khách hàng qua gia công mới. Việc mở rộng quan hệ với bạn hàng có thể thông qua: Công ty trung gian nước ngoài. Thông qua bộ thương mại, các cơ quan trong ngành dệt may. Thông qua các khách hàng quan hệ làm ăn lâu năm với công ty. Mở rộng quan hệ với khách hàng gia công mới trên cơ sở củng cố mối quan hệ làm ăn với khách hàng cũ, điều này giúp cho quá trình sản xuất gia công được ổn định và phát triển, giảm thiểu sức ép trong kinh doanh. Hiện nay quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước đông Âu được cải thiện đáng kể, mặc dù trong những năm qua có một số vấn đề xảy ra trong khu vực thị trường này, nhưng quan hệ giữa ta với các nước đó vẫn ổn định và tiến triển tốt đẹp: việc áp dụng quy chế tối huệ quốc đối với Việt Nam trong tương lai sẽ là một lợi thế đối với Việt Nam khi sản xuất gia công sang các thị trường này. Do vậy công ty cần tìm kiếm khách hàng làm gia công các thị trường này với mục đích nâng cao hiệu quả gia công của công ty. Công ty cần có những giải pháp củng cố thêm những quan hệ cũ vừa mở rộng thêm bạn hàng mới bằng chất lượng, uy tín và các hoạt động xúc tiến để công ty có thể kiếm thêm các hợp động dễ dàng. 6. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong bất cứ một môi trường kinh doanh nào, chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu, sản phẩm đảm bảo chất lượng thì người tiêu dùng mới chấp nhận, bạn hàng mới tìm đặt. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Đối với công ty, sự thành bại trên thị trường cũng phụ thuộc vào sự thích hợp của chất lượng sản phẩm, sự phù hợp của giá cả và điều kiện mua bán giao nhận. Trong đó cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là cạnh tranh mạnh mẽ và quan trọng nhất. Bởi vì sản phẩm may mặc mà khách hàng bỏ tiền ra mua không chỉ để thoả mãn nhu cầu bảo vệ mà quan trọng hơn và giá trị hơn nhiều là nhu cầu làm đẹp, nhu cầu khẳng định giá trị phẩm cách, địa vị nên họ sẵn sàng chấp nhận một mức giá cao hơn để có được điều đó. Do vậy tạo uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường may mặc thế giới thì chất lượng sản phẩm luôn là nội dung quan trọng cơ bản trong chiến lược sản phẩm của bất cứ doanh nghiệp may mặc xuất khẩu nào. Chỉ có tạo ra sản phẩm có chất lượng cao thì mới tạo được uy tín vững chắc, uy tín thực sự là sức cạnh tranh lâu bền cho sản phẩm của doanh nghiệp. Giải pháp quan trọng quyết định sự thành công của gia công hàng may mặc là bản thân chất lượng sản phẩm của Công ty. Để thoả mãn kịp thời các yêu cầu về chất lượng, phẩm cấp, mẫu mốt, kiểu dáng, tính đa dạng của hàng may mặc trên thị trường thế giới công ty cần thực hiện đồng bộ các biện pháp thiết thực hợp lý sau:  Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, đồng bộ, có trọng điểm nhằm tạo sự thay đổi căn bản về chất lượng sản phẩm của Công ty. Điều này đảm bảo được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại phù hợp, đó là yếu tố then chốt nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, thực sự mang lại sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới. Tuy nhiên cần tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt tạo lên sự mất cân đối về cơ cấu, các thiết bị chuyên dùng, nhập nhiều nhưng vẫn thiếu về chủng loại, có loại quá thừa, có loại cần nhưng lại thiếu. Sự dư thừa giả tạo có thể gây ứ đọng vốn đầu tư, làm giảm hiệu suất sử dụng năng lực tài sản. trong việc nhận công nghệ nói chung, thiết bị máy móc nói riêng công ty cần nắm được thông tin khoa học công nghệ nhằm đầu tư dây chuyển công nghệ một cách thích hợp, tìm cơ hội đầu tư một cách có hiệu quả. Việc nhập công nghệ nói chung, máy móc thiết bị nói riêng phải được cân nhắc kỹ lưỡng về đặc điểm kỹ thuật cũng như các chỉ tiêu kinh tế thương mại, tránh hiện tượng nhập thiết bị lạc hậu, thiết bị tân trang và giả giá đầu vào. Công ty cũng cần tập trung nguồn lực để đầu tư các thiết bị hiện đại thuộc thế hệ mới nhằm nâng cao năng suất tạo ra sản phẩm may mặc cao cấp, có giá trị cao, đa dạng phong phú về chủng loại nhằm đáp ứng mọi khu vực thị trường. Cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may khác, đầu tư đổi mới trang thiết bị là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, song khó khăn đối với công ty hiện nay là vấn đề vốn. Do vậy việc huy động có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước là giải pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn đó.  Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng để quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm phải được tiến hành tốt thì mới hạn chế được những tổn thất do những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng phải trả lại, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường may mặc thế giới. Quan trọng hơn nữa là giữ được chữ tín của công ty trên thị trường, đó là tài sản vô hình rất quý báu để đảm bảo cho công ty chỗ đứng vững chắc và ngày càng phát triển trên thị trường may mặc thế giới góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của công ty. Đúng vậy, dù công ty cố gắng bao nhiêu về mặt thời gian giao hàng nhưng nếu sản phẩm không đáp ứng những quy định tiêu chuẩn thị trường nhập khẩu cũng không được thị trường chấp nhận và chỉ là sự lãng phí vô ích. Chất lượng không đạt tiêu chuẩn cao của nước nhập khẩu chính là sự tồn tại đang cản trở khả năng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của công ty. Do vậy trước hết nhận thức công ty cần coi trọng công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, phải xem xét nó là một bộ phận không thể thiếu trong chiến lược sản phẩm của công ty. Trước mắt công ty phải đảm bảo đáp ứng tốt hơn những quy định tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu thông qua các khách hàng của doanh nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở để công ty phấn đấu nâng cao trình độ sản xuất và chất lượng sản phẩm của mình. Để làm được điều đó công ty cần chú trọng công tác chăm lo đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm để họ không chỉ là những người có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm mà còn là những trợ thủ đắc lực cố vấn trong việc tham gia sáng kiến cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó, cần tăng cường hệ thống đo lường, hệ thống thông tin về tiêu chuẩn chất lượng.  Tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng (ISO 9001) tiêu chuẩn quốc tế. Để cho sản phẩm may mặc (cả sản phẩm may gia công đơn thuần và sản phẩm gia công mua NL bán TP) của công ty chiếm lĩnh thị trường và phát triển trên thị trưòng thế giới gắn liền với các biểu tượng uy tín chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam thì việc tiến tới áp dụng ISO 9001 phải trở thành yêu cầu bức xúc đối với công ty. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn quy tụ kinh nghiệm của quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở việc phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp. Đây là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện mà bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định về sản xuất và chất lượng trước khi tiến hành ký hợp đồng. Bộ tiêu chuẩn ISO có 3 loại tiêu chuẩn cao là: ISO 9001, ISO 9002, ISO 9003. Chứng nhận phù hợp với ISO 9001 là chứng minh thư chất lượng cao tạo ra sự tin cậy của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty trên thị trường quốc tế. Đặc biệt công ty muốn làm ăn với các nước, nhất là Mỹ, Nhật Bản và EU thì chứng nhận ISO 9001 sẽ minh chứng cho chất lượng đáng tin cậy của sản phẩm. Để có thể áp dụng ISO 9001 thì công ty cần coi trọng vấn đề con người, coi yếu tố này là động lực để phát triển và hoàn thiện chất lượng. Vì vậy công ty cần có một chương trình phổ biến, tuyên truyền về lợi ích của việc áp dụng ISO 9001. Tạo ra sự nhất trí, cam kết về chất lượng, phát huy sáng tạo của mọi thành viên, có chính sách khuyến khích vật chất huy động mọi người tham gia vào phong trào chất lượng tạo lên văn hoá chất lượng trong công ty. Bộ tiêu chuẩn ISO đã được rất nhiều nước trên thế giới chấp nhận như là tiêu chuẩn công nghiệp của họ, đặc biệt ISO/EN 29000 đã được cả Châu âu công nhận. Như vậy có nghĩa là nếu hàng hoá của công ty đã đạt tiêu chuẩn ISO 9000 thì coi như chúng đã được cấp giấy thông hành đỏ đến mọi thị trường. áp dụng ISO tức là vận hành một hệ thống chất lượng. Hệ thống là toàn bộ việc tổ chức, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp, phương tiện cần thiết để quản lý chất lượng. Thông qua việc xây dựng, chấp nhận và áp dụng những quy định của hệ thống chất lượng, mỗi khâu trong hoạt động của một doanh nghiệp đều đảm bảo được thực hiện một cách logic và hệ thống. Kết quả là sẽ làm tăng đáng kể hiệu quả của việc thực hiện làm đúng ngay từ đầu, tránh những sai lệch trong việc thực hiện hợp đồng, giảm lãng phí xuống mức tối thiểu, tránh sửa chữa lại và cung cấp đúng thời hạn hợp đồng. III. Một số kiến nghị đối với nhà nước Chúng ta đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH đất nước với chủ trương của Đảng và nhà nước là tận dụng những thế mạnh của ta để phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng , công nghiệp chế biến và các ngành công nghiệp nhẹ khác sử dụng nhiều lao động . Để tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, phát triển ngành may được xem là một trong những ngành mũi nhọn trong công cuộc CNH- HĐH . Do đó Nhà nước cũng như các tổ chức tài chính cần chú trọng đầu tư vốn , ưu đãi về thuế ,... để khuyến khích phát triển ngành nghề này , từ đó góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế , tăng thu ngoại tệ cho đất nước và giải quyết việc làm cho người lao động. Các thủ tục về phân cấp hạn ngạch , thủ tục hải quan xuất nhập khẩu nguyên phụ liệu , hàng hoá cần đơn giản , gọn nhẹ hơn , tránh tình trạng chậm chạp ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất , thời gian giao hàng . Nhà nước cần chỉnh sửa để hoàn thiện hệ thống luật kinh tế , nhất là luật buôn bán quốc tế và ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành để cán bộ công ty dễ dàng nắm bắt, học hỏi để tích luỹ kinh nghiệm khi quan hệ với các đối tác nước ngoài, biết cách giải quyết, thương lượng đối với những tranh chấp xảy ra, đem lại lợi ích cho công ty cũng như cho đất nước nói chung. Bên cạnh đó, đề tài này đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu của công ty như sau: 1. Đầu tư phát triển có sự cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Ngành dệt trong nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu ngành may. Các doanh nghiệp may hầu như phải nhập khẩu nhất là với các mặt hàng cao cấp, mặt hàng có chất lượng cao. Đặc biệt đối với các mặt hàng gia công xuất khẩu thì 100% các loại vải là do nhập khẩu. Còn vải trong nước sản xuất chất lượng thấp , chưa đồng bộ, chưa đạt tiêu chuẩn cho xuất khẩu. Mặc dù, Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam ra đời với phương châm “May là lối ra cho dệt” nhưng vẫn chưa đem lại hiệu quả, vẫn còn tồn tại “Dệt đi đường dệt và May đi đường may”. Lượng hàng dệt nhập khẩu vào Việt Nam vẫn là một con số lớn. Vì vậy phương châm “May là lối ra cho dệt” cần được thực hiện một cách triệt để và việc đầu tư cho dệt cần được làm theo chiều sâu, hình thành một số cụm sản xuất dệt, in, nhuộm hoàn tất có công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng vải cho may xuất khẩu.. Điều đó vừa tạo cho sự phát triển cho cả may và dệt của Việt Nam. Hơn nữa, Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng cần phải tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa dệt và may. Ngành dệt hiện nay cần phải có những hoạt động cụ thể: Có quy hoạch phát triển hàng dệt may theo chiều sâu nhằm đảm bảo cân đối giữa hai ngành dệt và may. Có quy hoạch sắp xếp lại ngành dệt: để có thể phối hợp phát huy năng lực hiện có bổ sung trang thiết bị mới để dệt ra vải mà người tiêu dùng trong nước ưa thích và tạo nguồn cho ngành may xuất khẩu. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp may sử dụng nguồn nguyên liệu phụ liệu trong nước. Trên đây là một số giải pháp nhằm tạo đà cho phát triển ngành dệt, qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp may trong quá trình sản xuất khẩu. 2. Ban hành những chính sách, chế độ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đứng trước xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế xã hội, các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp thuận các cuộc cạnh tranh không khoan nhượng. Hơn nữa, cùng với việc gia nhập khối AFTA Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) sự cạnh tranh bình đẳng lúc đó không chỉ đối với các nước trong khu vực mà mở rộng ra với các nước trên thế giới tham gia WTO. Đứng trước sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt đó, để có thể giúp cho các doanh nghiệp bước đầu làm ăn có hiệu quả trên thương trường và có thể nâng cao uy tín hơn nữa đảm bảo sự thành công của mình cũng như giúp cho các doanh nghiệp chưa có hiệu quả chuyển sang có lãi và bước đầu tạo được uy tín và chỗ đứng trên thị trường thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Thứ nhất: Nhà nước cần ban hành chính sách giúp cho các xí nghiệp có quy mô nhỏ có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng để mua sắm máy móc thiết bị hiện đại phù hợp, xây dựng nhà xưởng mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời căn cứ vào mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật về loại máy móc thiết bị, Thứ hai: Nhà nước có các giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường mới, nếu cạnh tranh bình đẳng thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không có lợi. Nhà nước tham gia đàm phán, ký kết mở rộng hạn ngạch may mặc cho Việt Nam và EU, hướng vào thị trường rộng lớn nhưng khó tính như Bắc Mỹ, Nhật Bản. Đồng thời nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tham gia vào việc gia công hàng may mặc cho các nước thuộc khu vực này. nhà nước xem xét việc cấp thêm hạn ngạch cho doanh nghiệp vào EU để tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Thứ ba: Do đặc điểm ngành may mặc, số lượng lao động chiếm tỷ lệ tương đối cao, do đó nhà nước cần ban hành các chính sách chế độ ưu đãi cho lao động nữ nhằm khuyến khích họ nhiệt tình sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cụ thể như vấn đề đề bạt cán bộ trong doanh nghiệp (tức vấn đề thăng tiến cuả phụ nữ mà vốn xưa nay không công bằng với nam giới), vấn đề nâng bậc lương, độ tuổi nghỉ hưu, vấn đề bảo hộ lao động, bảo vệ sức khoẻ cho người lao động phòng trừ các bệnh nghề nghiệp như: bệnh về đường hô hấp... Thứ tư: Quản lý vĩ mô đối với tất cả các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu trên phạm vi cả nước, nhằm hướng các doanh nghiệp ở bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng theo định chế lợi ích chung của ngành may Việt Nam để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, dẫn tới việc khách hàng ép giảm giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp, người lao động... Tránh tình trạng hiện nay, Tổng công ty dệt may Việt Nam chỉ hỗ trợ về các mặt cũng như chỉ có chính sách quản lý vĩ mô chung. Ngoài ra các doanh nghiệp may mặc khác không nằm trong Tổng công ty thì vẫn phải cạnh tranh quyết liệt, không có sự hỗ trợ ở tầm vĩ mô. 3. Củng cố vai trò của hiệp hội dệt may. Hiện nay tất cả các vấn đề đều thuộc sự quản lý của Bộ Thương Mại và một phần của Tổng công ty dệt may. Như vậy, chưa có được sự phân định rõ ràng trong từng lĩnh vực. Việc Bộ Thương Mại quản lý là đúng nhưng phạm vi quá rộng nên không thể đảm bảo hoạt động của nó luôn tốt. Do đó để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tránh thua thiệt do không nắm được các thông tin cần thiết về thị trường cần phải củng cố lại vai trò của hiệp hội dệt may, một phần của hiệp hội nên hoạt động chủ yếu về lĩnh vực gia công xuất khẩu và thông qua hiệp hội này các doanh nghiệp cũng như công ty sẽ nắm bắt được thị trường gia công hàng xuất khẩu, nắm được giá cả gia công mặt hàng tránh bị ép giá, giá thấp do không nắm được thông tin về mức giá gia công với những vấn đề khác nữa mà chỉ khi hiệp hội được thành lập và đi vào hoạt động mới xuất hiện. Để có thể ban hành những chính sách mang lại hiệu quả cao hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi nhà nước phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ, các ngành để đảm bảo cho các chính sách mang tính khả thi cao. Tóm lại: để tạo ra hành lang thuận lợi nhằm thúc đẩy hoạt động gia công hàng may mặc xuất khẩu nói chung và tại công ty nói riêng thì những giải pháp từ phía công ty và phía nhà nước là chưa đủ mà hoạt động cần có sự phối hợp, sự liên kết giữa các công ty với nhau hoặc giữa các giải pháp của công ty với các chính sách của nhà nước. Điều đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển ngành dệt may Việt Nam và của công ty trong phương thức may gia công và tiến tới phương thức xuất khẩu trực tiếp trong tương lai. 4. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho doanh nghiệp. Để giữ vững vị trí và giữ vững thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập các thị trường khác một cách suôn sẻ và hiệu quả, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà Nước một cách thích đáng. Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với các nước để giảm thuế nhập khẩu của các nước này đối với hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng, nhằm mở rộng hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Thắt chặt và quan tâm các mối quan hệ song phương và đa phương đã xây dựng được nhằm tạo cơ hội cho ngành. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng như hội chợ triển lãm hàng may mặc Việt Nam tại các thị trưòng nước ngoài nhằm giới thiệu hàng dệt may Việt Nam với các thị trường đó. Tổ chức nghiên cứu thị trường, giá cả, hỗ trợ và tư vấn cho các công ty may xuất khẩu thông qua việc hỗ trợ như: phát huy chức năng Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, thành lập một Trung tâm giao dịch và xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may, đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, thu thập xử lý thông tin về thị trường về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường...Bên cạnh đó, khẩn trương tham gia hệ thống “Thông tin ngành hàng dệt may khu vực Châu á Thái Bình Dương” của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may Việt Nam tìm được chỗ đứng vững chắc và phát triển trên thị trường này. 5. Cải tiến thủ tục xuất, nhập khẩu. Một khó khăn đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay là những rườm rà trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, mỗi một lô hàng trước khi được nhập vào hay xuất ra khỏi biên giới một quốc gia đều phải tiến hành khai báo thủ tục hải quan. Để có thể quản lý lượng hàng hoá ra vào một nước, việc làm đó là tất yếu, song Việt Nam là một trong những nước có quy chế về thủ tục rườm rà trên thế giới mặc dù trong những năm gần đây vấn đề này vẫn được lưu tâm và đã có phần cải thiện so trước. Trong môi trường quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân, nhu cầu hội nhập với thế giới đã là một điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế đất nước thì việc khai thông các thủ tục chồng chéo một cách hợp lý nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh tế nước ngoài tiếp xúc và tiến tới hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Việc làm này không chỉ có lợi ích như vậy mà kéo theo đó là cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài , tạo động lực phát triển nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính trong ngành sẽ được thu gọn tránh tình trạng cồng kềnh. Một điều quan trọng nữa của việc đơn giản một cách hợp lý các thủ tục giấy tờ, đó là hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu của các cán bộ Hải quan, tránh tình trạng chậm chạp ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và thời gian giao hàng . Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, trước khi tiến hành xuất nhập khẩu, phải có được hạn ngạch do Bộ Thương Mại cấp. Và đây lại là một vấn đề nữa trong việc hoàn thành thủ tục xin hạn ngạch. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành công việc này một cách đơn giản hơn, dành thời gian và sức lực cho nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp góp phần trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, chính phủ cũng cần làm gọn hơn thủ tục này. Một số thủ tục cụ thể đặc trưng đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong quá trình thực hiện hợp đồng: Đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cải tiến và đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về. 6. Đầu tư để phát triển ngành vận tải (đặc biệt là vận tải biển). Hiên nay các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhập khẩu băng giá CIF, nhường quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cbo bên bán. Việc mua bảo hiểm cho hàng nhập khẩu không còn khó khăn vì bây giờ ngoài vác công ty bảo hiểm trong nước đã có các công ty bảo hiểm của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam như Prudential, Chifon, Aia … doanh nghiệp sẽ tiến dần đến nhập khẩu theo giá CFR, rồi đến FOB để được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vấn đề ở đây là ở chỗ chúng ta chưa phát triển ngành vận tải biển, chưa có một đội ngũ tàu biển hoạt động trong lĩnh vực chuyên chở hàng hoá quốc tế. Chúng ta chủ yếu là thuê tầu của đại lý tầu biển quốc tế chúng ta chủ yếu là thuế tự vận chuyển được thì chi phí sẽ giảm đi đáng kể từ đó tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho ngành vận tải biển để có thể đáp ứng nhu cầu chuyên chở hàng hoá nhập khẩu bằng đường biển. Đồng thời có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ đi biển, thuỷ thủ có tình đáp ứng được nhu cầu hiện tại và tương lai. Làm được như vậy không chỉ có công ty mà cac doanh nghiệp khác cũng sẽ thu được hiệu quả kinh doanh cao hơn rất nhiều đông thời mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho đất nước. Kết luận chương III Tóm lại, để tạo ra một hành lang thuận lợi nhằm thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc tại các doanh nghiệp may mặc nói chung cũng như tại Công ty May Minh Trí thì những giải pháp từ phía công ty là chưa đủ mà cần phải có sự kết hợp với các chính sách của Nhà nước, sự hỗ trợ từ phía nhà nước cho các doanh nghiệp. Sự kết hợp này sẽ tạo ra một môi trường hành lang thuận lợi cho sự phát triển ngành dệt may Việt nam và của Công ty May Minh Trí trong hoạt động gia công hàng dệt may. Kết luận Gia công hàng may mặc xuất khẩu đang là vấn đề sôi động trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Hiện nay hiệu quả gia công về mặt xã hội là vô cùng to lớn. Bên cạnh đó thì lợi ích thu được chưa nhiều, đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa. Đó là việc đầu tư trong quá trình sản xuất, đầu tư về việc nghiên cứu mẫu mã thị trường may mặc thế giới, cải tiến cách quản lý, mối quan hệ giữa các đối tác sao cho phù hợp giữa điều kiện sản xuất trong nước và các điều kiện quốc tế. Phải đa dạng hoá thị trường, bạn hàng và sản phẩm, hướng vào việc gia công theo chiều sâu…. Chắc chắn hiệu quả gia công hàng may mặc xuất khẩu sẽ đem lại ngày càng nhiều, đóng góp ngày càng nhiều hơn trong sự nghiệp CNH-HĐH. Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam sẽ tham gia APEC và WTO, tăng trưởng trong nước đòi hỏi duy trì 6-8%/ năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 10-12% vào năm 2001- 2005. Trước những khó khăn và thách thức của giai đoạn mới, với khả năng của mình, công ty sẽ cố gắng phát triển hoạt động kinh doanh gia công hàng may mặc xuất khẩu của mình đi xa hơn nữa và chuyển dần sang hình thức xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả cao hơn góp phần phát triển ngành dệt may, nâng cao uy tín và vị thế của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong thời gian thực tập tại công ty May Minh Trí em đã có những tổng hợp đánh giá hoạt động gia công xuất khẩu của công ty. Bài viết này của em đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả gia công xuất khẩu của công ty May Minh Trí qua đó em đã nêu ra các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động gia công của công ty. Do sự hạn chế trong hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, chắc chắn chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và của các cán bộ công nhân viên công ty May Minh Trí để chuyên đề này được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Danh mục tài liệu tham khảo I. Sách 1.PGS. TS Nguyễn Thị Hường (chủ biên)- Giáo trình Kinh doanh quốc tế- NXB Thống Kê- 2001 2.PGS. Vũ Hữu Tửu- Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Giáo dục – 1998 3.GS. TS Tô Xuân Dân – Giáo trình Kinh Tế Học Quốc Tế – NXB Thống Kê - 1998 4.PGS. TS Phạm Ngọc Kiểm – Giáo trình Thống kê doanh nghiệp – NXB Thống kê- 2002 5.TS Mai Văn Bưu – Giáo trình hiệu quả và quản lý nhà nước – NXB Khoa học kỹ thuật -1998 II. Tạp chí: 1.Tạp chí Thương mại: + Lê Văn Đạo – Thị trường hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trước những cơ hội và thách thức – Tạp chí Thương mại – số 4/2001. + Lê Phương Dung - Để xuất khẩu hàng dệt may tăng trưởng bền vững – Tạp chí Thương mại – số 36/2002 2.Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam + Phi Hổ – Ngành dệt may và những biện pháp hoá giải thách thức – Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam – Số 6/2001. 3.Tạp chí Công nghiệp Việt Nam : + Hải Tùng – Ngành Dệt - May Việt Nam với những thách thức trên thị trường xuất khẩu - Tạp chí Công nghiệp Việt Nam – Số 13/2001. + Dương Đình Giám – Thử tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành Công nghiệp Dệt - May Việt Nam – Tạp chí Công nghiệp Việt Nam – Số 4/2001. 4.Tạp chí Phát triển kinh tế : + Tiến sĩ Võ Phước Tấn - Để hàng dệt may Việt Nam chiếm lĩnh thị trường thế giới. – Tạp chí Phát triển kinh tế – Số 119 tháng 9/2000. III. Báo: 1.Báo Thương mại: + Báo Thương Mại – số 43(1077) Thứ năm 10/4/2003- Những “rào cản” hạn chế tăng kim ngạch xuất khẩu. 2.Thời báo Kinh tế Việt Nam : + Đức Vương – Thách thức dệt may _ Thiết bị, công nghệ vẫn là khâu yếu nhất – Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số 138 (18/11/2002). IV. Các trang Web: 1. + Vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2001/05/3B9B0532 + Vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2001/12/3B9B72A7 2. + Vietrade.gov.vn/display.news.detail.asprild=529 3. + vir.com.vn/so32/32-3html. Báo cáo tổng kết cuối năm 2000, 2001, 2002 của công ty May Minh Trí Một số luận văn các khoá 39, 40 trường Đại học Kinh tế quốc dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf100740_7767.pdf
Luận văn liên quan