Luận văn Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin

Trong quãng đường hình thành và phát triển, Công ty cổ phần than Đèo Nai đã cho thấy hình ảnh của một Công ty lớn mạnh, không chỉ thực hiện thành công phương châm “Nắm to, buông nhỏ; giữ chính, thả phủ; phối hợp hành động thống nhất“ mà Tập Đoàn ra chỉ thị, tác giả đã phản ánh khá rõ nét tình hình quản lý, sử dụng vốn và cơ cấu vốn theo tài sản cũng như theo nguồn hình thành từ đó thấy được những điểm hạn chế, tồn tại từ đó có thể đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đảm bảo khả năng sử dụng vốn có hiệu quả. Từ đó tác giả đã xây dựng phương trình phát triển bền vững, mô hình nguồn tài trợ hợp lý đối với việc áp dụng cho ngành mỏ, nên lựa chọn đầu tư hay mua ngoài đến phương trình tối ưu hóa cơ cấu nguồn vốn nhằm giúp Công ty có thể sử dụng vốn có chi phí thấp mà vẫn đảm bảo an toàn về tài chính. Tác giả cũng nhận thấy rằng việc sử dụng vốn có hiệu quả không chỉ là việc đầu tư nâng cao tính đồng bộ trong cơ cấu tài sản mà còn phụ thuộc vào sự chủ động, linh hoạt của Công ty.

doc125 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2567 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó hợp đồng thuê phải đảm bảo yêu cầu chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn với quyền sở hữu tài sản từ bên cho thuê sang bên thuê. Hình thức thuê tài sản có điều kiện thuận lợi hơn hình thức tín dụng trung hạn và dài hạn của ngân hàng, thường hay đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp. Tuy nhiên cũng giống như mua trả chậm, nó có hạn chế là có chi phí cao hơn so với vay vốn để mua. Vay vốn Ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ thường khó tiếp cận nguồn vốn này ngay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như ở Mỹ, Anh. Vay vốn ngân hàng có những ưu điểm sau: - Vay vốn thường có lãi suất thấp hơn mua trả chậm. - Việc huy động nhanh và đơn giản nếu doanh nghiệp có uy tín và tình hình tài chính lành mạnh. - Các doanh nghiệp được chủ động sử dụng vốn vay để chọn lựa đầu tư thích hợp. Tuy nhiên, nguồn vốn tín dụng ngân hàng có những hạn chế sau: - Trường hợp vay trung và dài hạn, doanh nghiệp cần trình bày các số liệu tài chính, phương án kinh doanh và khả năng trả nợ. - Ngân hàng giám sát việc sử dụng tiền vay có đúng mục đích không, việc giải ngân có thể tốn thời gian và các thủ tục. - Những đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ hoặc đang yếu về tài chính khó được cho vay. Phát hành trái phiếu: Là hình thức vay trực tiếp của các nhà đầu tư với thời hạn trả vốn được quy định trong trái phiếu, lãi suất có thể cố định hoặc linh hoạt. Việc vay nợ thông qua phát hành trái phiếu có những ưu điểm sau: - Cho phép huy động huy động vốn một cách trực tiếp với một khối lượng lớn và vốn huy động được là vốn trung và dài hạn. - Lãi suất thường thấp hơn mua trả chậm. - Các doanh nghiệp được chủ động sử dụng vốn huy động để lựa chọn đầu tư thích đáng theo mục đích sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. - Các doanh nghiệp có thời gian dài để trả lãi và vốn gốc. Tuy nhiên, khi huy động vốn qua phát hành trái phiếu vẫn có nhược điểm là các doanh nghiệp vửa và nhỏ chưa có uy tín khó sử dụng phương án này; chi phí phát hành có thể cao khiến cho tổng chi phí sẽ tăng cao. 2. Chọn lựa các công cụ huy động vốn vay: Phần trên tác giả đã trình bày một số công cụ huy động vốn vay chủ yếu, mỗi công cụ có những mặt ưu và hạn chế, do vậy tuỳ theo tình hình của doanh nghiệp và mục đích sử dụng vốn mà chúng ta có thể lựa chọn công cụ huy động vốn thích hợp. Dưới đây là nhận xét một số tình huống để làm cơ sở cho chúng ta có thể lựa chọn một công cụ phù hợp: Mua trả chậm hay vay vốn: - Trong phần lớn trường hợp thì phương thức mua trả chậm – trả góp tỏ ra không có lợi về mặt hiệu quả tài chính bằng sử dụng vốn vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Khi bán trả chậm, trả góp, người cung cấp sẽ cộng thêm phần lãi suất trả chậm, lãi suất này ít nhất cũng bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng. Ngoài ra chúng ta sẽ khó trả giá thấp, buộc phải mua giá cao hoặc thiếu chủ động lựa chọn hàng hoá, thiết bị thích hợp. - Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chọn hình thức mua trả chậm thiết bị thay vì tìm cách vay ngân hàng để chủ động mua. Phương thức này đơn giản cho doanh nghiệp và theo tâm lý sẽ có tính an toàn cao vì các doanh nghiệp nghĩ rằng nhà cung cấp không thể cung cấp hàng hoá, vật tư, thiết bị kém phẩm chất. Tuy nhiên, nhiều trường hợp vì thụ động trong việc đầu tư trang bị mà doanh nghiệp bị nhận những máy móc thiết bị lạc hậu hoặc có giá quá cao. Trường hợp này cũng gần tương tự với việc chọn phương thức gia công thay vì chủ động sản xuất kinh doanh. Ban đầu, phương thức gia công có vẻ an toàn cho việc sản xuất kinh doanh, nhưng dần dần các doanh nghiệp nhận ra hoạt động này rất kém hiệu quả và doanh nghiệp khó có khả năng phát triển. - Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp đã chủ động lựa chọn hàng hoá, vật tư, thiết bị phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình, xác định được giá mua hợp lý thì việc mua trả chậm cho phép thực hiện nhanh hơn phương án vay, đặc biệt thích hợp với các doanh nghiệp nhỏ chưa được các ngân hàng tin cậy. Do vậy, việc chấp nhận phương án này với một chi phí cao hơn so với vay vốn ngân hàng cũng là điều hợp lý. Vay vốn bằng ngoại tệ hay VND: - Khi vay vốn trung - dài hạn, chúng ta có thể lựa chọn giữa việc vay ngoại tệ (ở đây tác giả lựa chọn USD để nghiên cứu vì nó là ngoại tệ có tính chất điển hình) hay VND, vay USD sẽ có lãi suất thấp hơn vay VND, do vậy chi phí sẽ thấp hơn. Tuy nhiên, vì vay trung - dài hạn nên trong trường hợp sau đó tỷ giá biến động tăng thì doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ thiệt hại lớn, còn ngược lại doanh nghiệp sẽ có lợi. - Hiện nay, các doanh nghiệp thường chọn vay bằng VND một phần do khó tiếp cận nguồn vốn vay USD, mặt khác các doanh nghiệp vẫn lo sợ sự tăng tỷ giá do tính thiếu ổn định của tỷ giá như trong những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX tại Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 1995 trở lại đây, doanh nghiệp nào vay vốn bằng USD có lợi hơn nhiều so với vay bằng VND do tỷ giá USD cũng như các ngoại tệ khá ổn định và có xu hướng giảm. - Rõ ràng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thu bằng USD và các loại ngoại tệ mạnh thì việc vay bằng ngoại tệ tỏ ra thích hợp. Nó cho phép các doanh nghiệp chỉ phải trả lãi thấp và dù có xảy ra tăng tỷ giá sẽ không làm ảnh hưởng nhiều tới nguồn thu chi. Tuy nhiên, nếu đứng trên quan điểm hiệu quả tài chính có chấp nhận rủi ro, việc dự báo tỷ giá ngoại tệ tăng cao hơn mức chênh lệch lãi suất cho vay giữa VND và USD thì chọn vay bằng VND sẽ giúp giảm chi phí hơn nếu dự đoán đúng. Vay vốn hay phát hành trái phiếu: - Đối với doanh nghiệp có uy tín thì việc vay vốn từ tổ chức tín dụng hay phát hành trái phiếu đều khả thi và thuận lợi, vấn đề là doanh nghiệp nên chọn hình thức nào. - Về mặt lý thuyết thì phát hành trái phiếu thường có chi phí thấp hơn vay ngân hàng do lãi suất trái phiếu sẽ thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng và lớn hơn lãi suất tiền gửi, do đó có thể thu hút các nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức kinh doanh. Tuy nhiên, nếu cộng với chi phí phát hành thì tổng chi phí cho việc huy động trái phiếu thường cao hơn vay ngân hàng, đặc biệt là với công ty có triển vọng phát triển thì ngân hàng sẽ cho vay với lãi suất thấp hơn những công ty bình thường. - Tuy nhiên, ngân hàng thường giám sát việc giải ngân vốn vay chặt chẽ, đúng mục đích sử dụng theo phương án xin vay chứ không đưa tiền trực tiếp cho doanh nghiệp, trong khi với phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể tuỳ nghi sử dụng số tiền huy động, miễn sao trả vốn và lãi đúng quy định. Ngoài ra, khi huy động vốn vay trung - dài hạn cho đầu tư thì khi cho vay ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp trả vốn đều suốt thời gian cho vay, trong khi với trái phiếu doanh nghiệp chỉ tập trung vốn hoàn trả vào năm đáo hạn, trong một thời gian dài doanh nghiệp không phải lo trả vốn. - Như vậy, với nhu cầu sử dụng vốn bình thường thì việc sử dụng vốn vay ngân hàng sẽ tiện lợi và thường giảm chi phí hơn so với phương án phát hành trái phiếu. Khi cần nguồn vốn trung - dài hạn lớn cho việc đầu tư những dự án có vòng đời dài, giai đoạn đầu chưa phát huy tác dụng ngay mà tác dụng sẽ tăng dần thì phương án phát hành trái phiếu tỏ ra thích hợp hơn. Ở các nước phát triển, việc phát hành trái phiếu cũng là công cụ huy động vốn quan trọng như vay ngân hàng, còn tại Việt Nam thì phương án phát hành trái phiếu còn rất mới mẻ và chưa phổ biến. Nguyên nhân là do các DNNN có tên tuổi và giàu tiềm lực để phát hành trái phiếu thì thích chọn vay ngân hàng do thuận tiện hơn, còn các doanh nghiệp tư nhân thì thực lực còn yếu nên khó có khả năng sử dụng phương án này. Một nguyên nhân quan trọng là thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa phát triển như kỳ vọng của các nhà hoạch định, làm cho trái phiếu chưa trở thành mặt hàng hấp dẫn với các nhà đầu tư. Phát hành trái phiếu lãi suất cố định hay thả nổi: - Thông thường phương án phát hành trái phiếu sẽ có hiệu quả đối với doanh nghiệp nếu thời gian trái phiếu dài từ 5 năm trở lên. Tuy nhiên, các trái phiếu có thời gian đáo hạn dài sẽ làm các nhà đầu tư e ngại vì thời gian hoàn vốn lâu và dễ gặp rủi ro về lãi suất. - Để giảm sự e ngại của nhà đầu tư và tăng tính hấp dẫn của trái phiếu, doanh nghiệp có thể chọn hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi (lãi suất thay đổi), theo đó lãi suất hàng năm của trái phiếu sẽ bằng với lãi suất tiền gửi của ngân hàng cộng thêm một khoảng chênh lệch. Với trái phiếu này, nhà đầu tư không phải lo sợ sự biến động về lãi suất làm ảnh hưởng đến hiệu quả. Nhưng trái phiếu có lãi suất điều chỉnh đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp về lãi suất thì lại làm giảm tính hấp dẫn về khả năng thu hút vốn cao so với hình thức trái phiếu có lãi suất cố định khi lãi suất ngân hàng giảm. Trái phiếu có lãi suất cố định sẽ là hàng hoá hấp dẫn trong việc mua bán trên thị trường chứng khoán hơn là trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, do vậy cũng là yếu tố thu hút nhà đầu tư. Qua một số nhận xét trên thì phương án trái phiếu có lãi suất thả nổi chỉ nên áp dụng trong trường hợp tình hình lãi suất và lạm phát đang có biến động lớn trong thời gian dài, hoặc là mức huy động vốn trái phiếu lớn và thời gian huy động dài, còn trong những trường hợp thông thường chúng ta nên sử dụng trái phiếu có lãi suất cố định. 3.1.2. Sử dụng vốn có hiệu quả phải đảm bảo an toàn về mặt tài chính. Khi tăng hệ số nợ trong cơ cấu nguồn vốn, chi phí sử dụng vốn có thể giảm xuống song khả năng mất an toàn về mặt tài chính lại tăng. Vấn đề đặt ra là cần xác định giới hạn an toàn cho phép về mặt tài chính đối với doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này chúng ta nghiên cứu một số vấn đề sau: 3.1.2.1. Phát triển bền vững Thông thường khi mở rộng sản xuất kinh doanh, doanh thu tăng sẽ cần gia tăng các loại tài sản để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, điều này làm nguồn vốn cũng phải tăng theo tương ứng. Để nguồn vốn tăng một cách ổn định và hợp lý cần phải đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Nếu lợi nhuận giữ lại không đủ cân đối với nhu cầu vay thì công ty cần phát hành thêm những cổ phần thường để tăng vốn chủ sở hữu. Tại mức doanh thu mà nếu công ty không huy động thêm vốn cổ đông để đáp ứng nhu cầu kinh doanh đồng thời đảm bảo tỷ lệ cân đối nguồn vốn, chính là mức trần của sự phát triển công ty có thể đạt được mà không mất an toàn về tài chính. Chừng nào công ty còn phát triển mà chưa đạt đến mức trần thì công ty đang phát triển bền vững. Như vậy, công ty sẽ có những trạng thái phát triển bền vững khác nhau. Mỗi khi vượt qua một giai đoạn sụt giảm để phát triển trở lại thì công ty đã ở một trạng thái phát triển bền vững mới. Quản lý phát triển thành công là luôn luôn đưa trạng thái phát triển mới có mức phát triển cao hơn trạng thái phát triển bền vững đó. 3.1.2.2. Phương trình phát triển bền vững Phát triển bền vững thể hiện sự cân đối của mối quan hệ giữa doanh thu, lợi nhuận và nguồn vốn. Để luôn đạt trạng thái phát triển bền vững, nếu doanh thu thay đổi thì các yếu tố kia cũng phải thay đổi tương xứng. Xây dựng được phương trình về mối quan hệ giữa các nhân tố này sẽ giúp cho quản lý quá trình phát triển luôn đạt trạng thái an toàn. Để xây dựng phương trình phát triển bền vững, cần đặt phương trình trong những yêu cầu của công ty như sau: (a) Cần an toàn về cấu trúc tài chính tức là luôn đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. (b) Tỷ lệ doanh lợi vốn chủ sở hữu càng cao càng tốt, điều này dẫn đến hệ quả là hạn chế phát hành thêm cổ phiếu mới trừ khi không thể huy động được vốn từ nguồn khác. (c) Tỷ lệ chia lợi nhuận cho cổ đông cần ổn định và tránh giảm sút trừ khi bức bách về vốn cần phải giữ lại không chia để tăng cường vốn. Trong các yêu cầu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó yêu cầu a có tính quyết định chi phối 2 yêu cầu còn lại. Trong mỗi thời kỳ công ty có thể chú trọng vào yêu cầu này cao hơn yêu cầu khác, thí dụ trong giai đoạn muốn thu hồi vốn thì yêu cầu c là quan trọng nhất. Tuy nhiên, với quan điểm quản lý và phát triển bền vững thì yêu cầu a luôn luôn được coi trọng, không phá vỡ. Phương trình phát triển bền vững được xây dựng dựa trên sự tôn trọng và đảm bảo yêu cầu a là chủ yếu. * Dạng cơ bản của phương trình phát triển bền vững Chúng ta giả sử tài sản và nguồn vốn cân đối nhau đáp ứng doanh thu trong thời điểm hiện tại đạt trạng thái vững chắc. Khi doanh thu tăng thì tài sản phải tăng theo tỷ lệ tương ứng và kéo theo nguồn vốn tăng. Khoản vốn tăng này nếu vẫn đạt cơ cấu về vốn chủ sở hữu và nợ như ban đầu thì công ty vẫn trong trạng thái phát triển bền vững. Rõ ràng, tài sản có thể tăng theo doanh thu không giới hạn, nhưng nó sẽ đòi hỏi nguồn vốn tăng. Vấn đề ở chỗ nguồn vốn phải tăng sao cho vẫn giữ được cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ (điều kiện a), như vậy tỷ lệ tăng của vốn chủ sở hữu sẽ giới hạn tỷ lệ phát triển của doanh thu đề có sự tương thích vững chắc. Qua mối quan hệ doanh thu-tài sản-nguồn vốn kết hợp với 3 yêu cầu trên (đặc biệt là yêu cầu a), có thể nói tỷ lệ phát triển bền vững của một công ty chính là tỷ lệ phát triển của vốn chủ sở hữu. Phương trình thể hiện như sau: g* = Số tăng (giảm) của vốn chủ sở hữu (3 - 6) Vốn chủ sở hữu đầu kỳ Trong đó: g* là tỷ lệ phát triển bền vững Nhận xét: Trong phương trình trên đưa sự phát triển doanh thu về góc độ tài chính, nghĩa là tỷ lệ mức tăng của vốn chủ sở hữu phải luôn đạt một tỷ lệ hợp lý đó là g*. * Dạng quan hệ và các chỉ tiêu tài chính của phương trình phát triển bền vững: Trong phương trình, việc tăng vốn chủ sở hữu có thể gồm lợi nhuận giữ lại và huy động vốn cổ đông. Do yếu tố hạn chế việc phát hành vốn cổ phần mới (yêu cầu b), nên chúng ta giả định việc tăng vốn chủ sở hữu chỉ gồm lợi nhuận giữ lại. Khi đó phương trình được thể hiện lại như sau: g* = R x lợi nhuận (3 – 7) Vốn chủ sở hữu đầu kỳ Trong đó: R là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại. Gọi tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đầu kỳ là P’cđk = Lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu đầu kỳ, khi đó phương trình được thể hiện lại như sau: Trong mối quan hệ của các chỉ số tài chính, ta có: P’cđk = Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (P) x Hệ số vòng quay tổng tài sản (A) x Hệ số tài sản trên vốn chủ sở hữu đầu kỳ (T^) (3-8) Khi đó phương trình được thể hiện như sau: Nhận xét: Phương trình phát triển bền vững cho thấy tỷ lệ phát triển bền vững là tích của 4 hệ số: R, P, A và T^. Trong đó P và A thể hiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua hệ số vòng quay vốn, còn 2 hệ số R và T^ thể hiện chính sách tài chính của công ty thông qua tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và đòn bẩy tài chính. Qua công thức trên ta thấy g* của mỗi công ty sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào chất lượng kinh doanh và chính sách tài chính của từng công ty. Chúng ta có thể cho g* lớn nếu cho T^ và R lớn. Tuy nhiên T^ không thể vượt quá một mức an toàn về cơ cấu vốn (yêu cầu a), ứng với mỗi ngành và lĩnh vực kinh doanh sẽ có một mức T^ phù hợp. Như vậy, nếu xét yếu tố chủ quan về chính sách tài chính, để đưa trạng thái phát triển bền vững lên một mức mới thì công ty cần phải tăng R, tức là giảm chia lời cho cổ đông, tuy nhiên điều đó có thể vi phạm yêu cầu tránh giảm sút chia lợi nhuận (yêu cầu c). Chúng ta có thể làm tăng g* nếu công ty cải thiện chất lượng kinh doanh, tức là tăng vòng quay vốn kinh doanh (vòng quay tổng tài sản) và tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Tuy nhiên, 2 hệ số này có xu hướng biến động ngược chiều nhau, vì thông thường để tăng hệ số vòng quay tổng tài sản ta phải tăng doanh thu thuần khi đó làm giảm tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Đi sâu vào từng hệ số cho thấy trong điều kiện bình thường, công ty khó mà cải thiện đột biến 2 hệ số này. Công ty chỉ có thể cải thiện hệ số P nếu giảm được chi phí để tăng làm tăng lãi ròng, chứ khó tăng giá bán để tăng lãi gộp trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường. Điều này cho thấy tăng g* thông qua tăng P chính là phải làm tăng hiệu quả quản lý để giảm chi phí. Xét về hệ số vòng quay tổng tài sản (A), con đường tốt nhất là giảm tài sản tồn kho, muốn như vậy công ty phải cải tiến khâu quản lý nguyên vật liệu, hàng hoá để đạt mức dự trữ thấp nhất những vẫn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Điều này cũng sẽ chạm đến vấn đề hiệu quả quản lý. Như vậy để đưa g* lên một mức cao hơn thì chúng ta cần tác động đến 4 chỉ số tài chính R, P, A và T^. Trong đó tăng hiệu quả quản lý điều hành sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng P và A, còn chọn chính sách đầu tư đúng đắn sẽ làm tăng R. Riêng việc tăng T^ thường do tăng tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cũng là một chính sách khá tốt, nhưng nó còn phụ thuộc chủ yếu vào ngân hàng (cho vay) và nhà cung cấp (cho mua chịu) có chấp nhận tăng cơ cấu nợ lên một mức cao hơn mức an toàn trước đây hay không. Điều này phụ thuộc khá nhiều vào uy tín của công ty, rõ ràng một công ty đang làm ăn tốt và phát triển sẽ dễ dàng được vay thêm và mua trả chậm. Như vậy chung quy lại để đưa g* lên một mức cao hơn thì yếu tố quan trọng đầu tiên là công ty phải tăng bằng được chất lượng quản lý điều hành để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh giúp cho tăng P, A và ngay cả chỉ tiêu T^. Trong trường hợp việc cải tiến chất lượng quản lý đòi hỏi một thời gian khá dài nhưng công ty muốn đưa ngay g* lên mức mới cao hơn thì công ty cần huy động thêm vốn chủ sở hữu thông qua con đường phát hành thêm cổ phần mới. 3.1.2.3. Phương trình phát triển bền vững theo giác độ xác định chính sách tài chính trong việc huy động vốn Trong phần trên, tác giả đã xây dựng phương trình phát triển bền vững theo các chỉ tiêu tài chính g* = RPAT^; qua đó chúng ta thấy g* chịu sự tác động của chính sách tài chính công ty (RxT^) và hiệu quả kinh doanh của công ty (PxA). Trong hai yếu tố này, chính sách tài chính của công ty có R phụ thuộc vào chiến lược phát triển nguồn vốn chủ sở hữu trong từng thời kỳ của công ty, nếu trong giai đoạn cần tích luỹ vốn cao thì R sẽ lớn và ngược lại, do vậy R là một con số xác định được trong một giai đoạn. Tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu (T^) dựa trên đặc điểm của từng loại hình kinh doanh chủ yếu và quan điểm về hệ số nợ của công ty. Như vậy, T^ vừa mang tính chủ quan của công ty vừa mang tính khách quan của loại hình kinh doanh và hình ảnh, uy tín của công ty. Thông thường sau một giai đoạn kinh doanh đã có được những vị thế và thị phần ban đầu, công ty cần phát triển nhanh để vượt lên do vậy trong giai đoạn này công ty có thể xây dựng chính sách tài chính với R và T^ đều cao. Tuy nhiên như phần nhận xét ở trên, T^ không chỉ phụ thuộc vào quyết định của công ty mà còn phụ thuộc vào nhà cung cấp tài chính là ngân hàng, các nhà cung cấp và một phần nào đó là của khách hàng (ứng trước tiền mua hàng). Sẽ không khả thi nêu công ty có T^ cao nhưng ngân hàng từ chối cho vay thêm, nhà cung cấp không cho phép mua chịu vượt quá một con số nào đó. Do đó, T^ cũng được xác định như trước phù hợp với một giai đoạn mà trong đó tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sở hữu là khả thi. Như vậy, phương trình phát triển bền vững dưới giác độ chính sách tài chính đã được xác định trong một giai đoạn nào đó thì nó sẽ còn phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh với 2 chỉ tiêu P và A, phương trình được thể hiện lại như sau: (3 – 9) Trong đó: HCSTC là hệ số chính sách tài chính được xác định trước. Trong phương trình trên ta có P = Lợi nhuận/Doanh thu thuần; A = Doanh thu thuần/Tổng tài sản. Do vậy tích số PxA chính là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ký hiệu là ROA). Phương trình được thể hiện như sau: (3 – 10) Với phương trình trên cho ta một đồ thị tuyến tính với trục tung là giá trị của g* và trục hoành là các giá trị của ROA. Vùng thiếu hụt nguồn vốn Vùng thặng dư nguồn vốn g* = HCSTCxROA g ROA Hình 3.5. Biểu đồ biểu diễn phương trình phát triển bền vững Nhận xét: Đồ thị trên thể hiện phương trình tuyến tính g* = HCSTCxROA đã chia đôi hai vùng có tính chất biến động trái ngược nhau về khả năng an toàn của nguồn vốn. Với đồ thị này tỷ lệ phát triển g sẽ rơi vào một trong những tình huống sau: - Với những điểm g thuộc đường thẳng chính là g* = 0,6ROA thì ở đó đạt mức cân đối về khoản nợ và vốn chủ sở hữu. Cứ mỗi mức tăng của ROA (thể hiện hiệu quả của công tác quản lý điều hành sản xuất kinh doanh) thì g* lại phát triển thêm một mức mới. Đây chính là mục đích hàng đầu của công ty. - Nếu g là một điểm nằm phía trên đường thẳng g*: khi đó tỷ lệ phát triển sẽ quá nhanh hơn khả năng cân đối của nguồn vốn. Việc huy động thêm vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển sẽ làm mất an toàn về tài chính, trừ khi doanh nghiệp quyết định tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại R hoặc sẽ phát hành thêm cổ phiếu để tăng T. Tuy nhiên 2 điều này sẽ làm giảm hiệu quả về đầu tư của các cổ đông. Như vậy, chúng ta có thể cân nhắc 2 tình huống: Một là nếu chấp nhận đạt một tốc độ phát triển g cao hơn khả năng phát triển g* để đẩy mạnh phát triển thì sẽ đối đầu với nguy cơ rủi ro tài chính hoặc phải giảm hiệu quả đầu tư; Hai là đưa g về mức g* để tránh các tình huống không mong muốn này. - Nếu g là một điểm nằm ở phía dưới đường thẳng g*: khi đó tỷ lệ phát triển g sẽ quá chậm, đòi hỏi nhu cầu vốn thấp hơn so với khả năng cân đối của nguồn vốn. Trong trường hợp này, vốn chủ sở hữu sẽ dư hơn mức an toàn cần thiết. Như vậy, chúng ta sẽ phải cân nhắc: Một là nếu chấp nhận đạt một tốc độ phát triển g thấp hơn mức phát triển g* thì sẽ rất an toàn về mặt tài chính nhưng giảm hiệu quả đầu tư (mức doanh lợi vốn chủ sở hữu không cao); Hai là tìm cách đưa g lên mức g* để phát huy tối đa nguồn lực tài chính trong khả năng an toàn cho phép. Qua đồ thị trên chúng ta sẽ thấy sẽ có rất nhiều đường thẳng g* tuỳ thuộc vào hệ số HCSTC. Nếu công ty muốn đẩy mạnh tốc độ phát triển g* trong điều kiện chưa cải tiến ROA thì chỉ còn tăng R để đường thẳng g* hướng lên trên. Nhưng R không thể tăng quá 1 và như vậy T^ là yếu tố quan trọng để đảm bảo tốc độ phát triển. Như vậy với một doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển nóng thì việc huy động thêm vốn cổ phần là điều cần thiết để đảm bảo công ty vẫn phát triển mạnh trong mức an toàn, cho dù điều này sẽ làm suất sinh lời của cổ đông giảm, nhưng nó hứa hẹn một triển vọng lớn mạnh của công ty để đưa công ty lên một tầm vóc mới trong một thời gian ngắn. Kết luận: Với mỗi công ty đang hoạt động trong một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhất định luôn tồn tại một hệ số nợ giới hạn (hay một hệ số nợ mục tiêu). Hệ số nợ này phụ thuộc vào trạng thái của công ty trong từng giai đoạn, nếu vượt quá giới hạn này công ty sẽ rơi vào tình trạng mất an toàn về mặt tài chính. Đây là một trong những điều kiện ràng buộc khi xác định cơ cấu vốn và hiệu quả sử dụng vốn tối ưu. 3.2. Định hướng chiến lược phát triển nguồn vốn và huy động vốn tại Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin 3.2.1. Phương hướng phát triển của ngành than giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 Theo quyết định số 89/2008/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07 tháng 07 năm 2008 đã phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025”, định hướng phát triển ngành than như sau: Than là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý, là nguồn năng lượng không tái tạo, vì vậy việc thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng than phải tiết kiệm và có hiệu quả. Phát triển ngành than ổn định, đáp ứng nhu cầu về than cho nền kinh tế quốc dân, đảm bảo thị trường tiêu dùng than trong nước ổn định, có một phần hợp lý cho xuất khẩu để điều hòa về số lượng, chủng loại và tạo nguồn ngoại tệ. Phát triển ngành than phải gắn liền với phát triển kinh tế – xã hội, du lịch, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái trên các địa bàn vùng than đặc biệt là tỉnh Quảng Ninh. Không ngừng cải tiến, áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất và đảm bảo an toàn trong khai thác. Sản lượng than thương phẩm có thể được điều chỉnh để phù hợp nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn trên cơ sở cân đối hiệu quả chung của nền kinh tế. Trong quá trình đầu tư sắp tới, cần tạo thêm nguồn vốn theo các hình thức như: Vay nước ngoài, mua thiết bị trả chậm – trả góp, thuê mua tài chính, cổ phần hóa, phát hành trái phiếu, cổ phiếu mới, Trong giai đoạn 2010 – 2020 nhu cầu vốn đầu tư sẽ rất lớn và có tầm quan trọng, về cơ cấu vốn cũng có sự thay đổi so với trước đây. 3.2.2. Định hướng chiến lược phát triển nguồn vốn và huy động vốn Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin luôn giữ vững một chiến lược là phát huy nội lực kết hộp với thu hút ngoại lực, phát triển nguồn vốn chủ sở hữu từ hiệu quả kinh doanh và không ngừng nâng cao giá trị doanh nghiệp. Biến các nguồn lực trong Công ty (bao gồm các nguồn lực sắn có và tiềm năng, các nguồn lực hữu hình và vô hình) thành các nguồn vốn mới và thu hút thêm từ bên ngoài bằng các hình thức thích hợp. Các nguồn lực sẵn có và hữu hình: Các nguồn vốn hiện có, các loại tài sản, tài nguyên khoáng sản, các doanh nghiệp, các dự án đầu tư.... Các nguồn lực tiềm năng và vô hình: Quyền tham gia thị trường nội bộ, quyền sử dụng thương hiệu, uy tín, khả năng sinh lời, khả năng phát triển của Công ty, quyền tham gia các cơ hội đầu tư, quyền tham gia kế hoạch phối hợp kinh doanh, quyền khai thác tài nguyên khoáng sản.... Đa dạng hóa các nguồn vốn huy động: Các nguồn vốn trong Tập Đoàn, CBCNV, trong nước và ngoài nước... Đa dạng hóa phương thức huy động vốn, trong đó chú trọng huy động vốn từ thị trường chứng khoán phù hợp với từng loại nhu cầu vốn, từng dự án, công trình, loại hình kinh doanh...sao cho có hiệu quả nhất. Đi đôi với huy động vốn cần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn huy động được. 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty trong giai đoạn tới Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả quản lý vốn kinh doanh và định hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản lý vốn Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau: 3.3.1. Giải pháp xác định cơ cấu vốn hợp lý đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp 3.3.1.1. Xây dựng bài toán quy hoạch tuyến tính cho việc xác định cơ cấu vốn hợp lý Xuất phát từ những yêu cầu của cơ cấu vốn hợp lý ở trên về chi phí sử dụng vốn và vấn đề an toàn tài chính, luận văn của tác giả đã xây dựng mô hình cơ cấu vốn hợp lý thông qua việc xây dựng bài toán quy hoạch tuyến tính. Trong đó hàm mục tiêu là chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp, các ràng buộc được rút ra từ mô hình tổ chức nguồn vốn đã lựa chọn phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp và hệ số nợ giới hạn đủ đảm bảo an toàn về mặt tài chính. Khi đó cơ cấu vốn hợp lý của doanh nghiệp chính là nghiệm của bài toán quy hoạch tuyến tính. Như vậy bài toán (mô hình toán) phải thể hiện được những nội dung sau: - Mô hình phải phản ánh được tất cả các loại nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động. - Phương thức tổ chức nguồn vốn đã lựa chọn - Hệ số nợ cho phép đối với doanh nghiệp để đảm bảo an toàn tài chính. Gọi xi là tỷ trọng của loại vốn thứ i để tài trợ cho cơ cấu tài sản của doanh nghiệp (i=1÷n). ri là chi phí sử dụng của loại vốn tương ứng thứ i. Hệ số aij nhận các giá trị 0 hoặc 1 tuỳ theo từng ràng buộc. Khi đó chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp = r1x1 + r2x2 +…+ rnxn Xét ở góc độ kinh tế, mọi doanh nghiệp đều muốn chi phí sử dụng vốn của mình là thấp nhất khi cần phải huy động các loại vốn, vậy ta có hàm mục tiêu của bài toán: Gọi a là tỷ lệ vốn phải chịu chi phí (nếu không có vốn chiếm dụng thì a = 1) như vậy tập hợp các tỷ lệ của từng loại vốn trong tổng vốn là a. Ta có ràng buộc thứ nhất: Gọi b là tỷ lệ TSCĐ + TSLĐ thường xuyên trên tổng tài sản thì tập hợp các nguồn tài trợ thường xuyên (nguồn vốn thường xuyên) của doanh nghiệp phải ≥ b. Ta có ràng buộc thứ hai: (Ràng buộc này chỉ đối với các doanh nghiệp có phương thức tổ chức nguồn vốn theo mô hình 2). Gọi c là tỷ lệ TSCĐ trên tổng tài sản, xuất phát từ nguyên tắc TSCĐ của doanh nghiệp phải được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn (giả thiết chỉ tăng vốn chủ sở hữu khi hệ số nợ vượt quá hệ số nợ giới hạn). Ta có ràng buộc thứ ba: Gọi d là hệ số nợ giới hạn (tỷ lệ nợ mục tiêu) của doanh nghiệp, ta có ràng thứ tư: Gọi e là hệ số vốn chủ sở hữu (e = 1 - d) của doanh nghiệp, ta có ràng buộc thứ năm: Bài toán được viết lại như sau: Trong đó, aịj nhận giá trị 0 hoặc 1 tuỳ theo từng ràng buộc. Giả sử trong cơ cấu vốn chỉ gồm 5 loại vốn là cổ phiếu thường, vốn vay dài hạn, vốn vay ngắn hạn, lợi nhuận để lại và cổ phiếu mới. Ta có bài toán quy hoạch tuyến tính như sau: Hệ ràng buộc: Trong đó: r1: Là chi phí sử dụng cổ phiếu thường. d1: Là lợi tức cổ phiếu năm thứ nhất. g: Tỷ lệ tăng lợi tức cổ phiếu hàng năm. G: Giá trị cổ phiếu thường. r5: Là chi phí sử dụng cổ phiếu mới. E: Là tỷ lệ chi phí phát hành trên một cổ phiếu mới. G: Là giá phát hành cổ phiếu mới. r2: Là chi phí sử dụng vốn vay dài hạn. Trong đó: T: Là số tiền phải trả hàng năm. V: Là số vốn mà doanh nghiệp được sử dụng. r: Là chi phí sử dụng vốn vay. Để xác định chi phí sử dụng vốn vay r, ta có thể áp dụng phương pháp nội suy hoặc đồ thị. r3: Là chi phí sử dụng vốn vay ngắn hạn. r4: Là chi phí sử dụng lợi nhuận để lại. Chi phí sử dụng lợi nhuận để lại được đo lường bằng chi phí cơ hội của phần lợi nhuận để lại khi đem nó đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động khác với mức rủi ro tương đương với mức rủi ro hiện tại ở doanh nghiệp. Nói cách khác, nó chính là mức doanh lợi kỳ vọng về cổ phần đã đóng góp giống như chi phí sử dụng cổ phiếu thường. Nhận xét: Mô hình bài toán trên đã thể hiện được các nội dung chủ yếu của cơ cấu vốn hợp lý đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp xét trên hai góc độ: - Hàm mục tiêu phản ánh yêu cầu về cơ cấu vốn dưới góc độ nguồn hình thành có chi phí sử dụng vốn là nhỏ nhất. - Các ràng buộc phản ánh yêu cầu về cơ cấu vốn dưới góc độ tài sản và nguồn hình thành đảm bảo tính cân đối và an toàn về mặt tài chính. Mô hình trên đây có thể áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường (các DNNN khi chuyển sang hoạt động dưới mô hình Công ty cổ phần, Nhà nước được coi như một cổ đông lớn). Việc đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn thông qua cơ cấu vốn, tác giả thấy cơ cấu vốn của các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Ngay đối với một doanh nghiệp cơ cấu vốn cũng sẽ thay đổi theo từng khung vốn kinh doanh (vốn đầu tư) vì khi đó chi phí sử dụng của các loại vốn cũng sẽ bị thay đổi như đã trình bày ở phần trên. Khung vốn rộng hay hẹp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ điều hành quản lý của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp, thái độ ứng xử của ngân hàng, nhà đầu tư,… 3.3.1.2. Vận dụng mô hình trên vào việc xác định cơ cấu vốn hợp lý cho Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin. Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin có tổng nguồn vốn năm 2011 là: 1.357.097 triệu đồng, thông tin chi tiết về các loại nguồn vốn như sau: Tổng nguồn vốn : 1.357.097 Triệu đồng Cổ phiếu thường : 14.270 Triệu đồng Vay dài hạn : 461.653 Triệu đồng Lợi nhuận để lại : 58.045 Triệu đồng Vốn chủ sở hữu : 261.203 Triệu đồng Vay ngắn hạn : 613.875 Triệu đồng Từ những số liệu thống kê trên, tác giả tính được các tỷ lệ sau đây: Tỷ lệ vốn phải chịu chi phí: 1 (Công ty không có vốn chiếm dụng bất hợp pháp). Tỷ lệ TSCĐ + TSLĐ thường xuyên trên tổng tài sản: 0,81 Tỷ lệ TSCĐ/Tổng tài sản: 0,61 Hệ số nợ đủ đảm bảo an toàn về mặt tài chính của ngành: 0,6 Chi phí sử dụng vốn (áp dụng theo những số liệu và kết quả tính toán và điều kiện giả định) như sau: Cổ phiếu thường: 0,14 Vay dài hạn: 0,13 Lợi nhuận giữ lại: 0,14 Vay ngắn hạn: 0,12 Phát hành cổ phiếu mới: 0,17 Tác giả xây dựng bài toán quy hoạch tuyến tính như sau: Gọi x1 là tỷ trọng vốn cổ phiếu thường Gọi x2 là tỷ trọng vốn vay dài hạn Gọi x3 là tỷ trọng vốn vay ngắn hạn Gọi x4 là tỷ trọng lợi nhuận để lại Gọi x5 là tỷ trọng cổ phiếu mới Ta có mô hình bài toán: Áp dụng công cụ Solver trong MS Excel ta tính được kết quả như sau: - Qua kết quả tính toán được có thể thấy rằng tỷ trọng vốn cổ phiếu thường của Công ty là: 3,5 %, tỷ trọng vốn vay dài hạn là 60%, tỷ trọng vốn vay ngắn hạn là 6 %, tỷ trọng lợi nhuận để lại là 4%, tỷ trọng cổ phiếu mới là 26,5 %. - So sánh việc nghiên cứu cơ cấu vốn hợp lý dưới góc độ hiệu quả kinh tế của ngành than với tình hình sản xuất kinh doanh thực tế tại Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin tác giả thấy rằng: - Công ty cần tiếp tục phát huy sự chủ động của một Công ty cổ phần đó là phát hành thêm cổ phiếu mới ở mức độ nhất định (Tăng tỷ trọng vốn cổ phiếu thường và cổ phiếu mới) để vừa đảm bảo không làm suy giảm tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu vừa giúp các hoạt động tổ chức sử dụng vốn được an toàn. Qua mô hình bài toán tối ưu trên, những năm tới nguồn vốn vay của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng và cá nhân vẫn sẽ chiếm chủ yêu. Tuy nhiên, việc hệ số nợ cần giảm xuống tiến dần đến hệ số nợ an toàn của ngành (được đánh giá trong luận văn là 0,6). Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phát huy sự chủ động của một Công ty cổ phần đó là phát hành thêm cổ phiếu mới ở một mức độ nhất định (tăng tỷ trọng vốn cổ phiếu thường và cổ phiếu mới) để vừa đảm bảo không làm suy giảm tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu vừa giúp các hoạt động tổ chức sử dụng vốn được an toàn. Đồng thời, Công ty cần điều chỉnh tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại qua từng giai đoạn đến mức độ của một cơ cấu vốn hợp lý. Khi cơ cấu vốn đã ở mức hợp lý thì không cần thiết phát hành thêm cổ phiếu mới nữa nhằm ổn định khả năng sinh lời và tránh suy giảm lợi ích cổ đông. 3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn Qua phân tích ở chương 2, tác giả nhận thấy lượng tiền và tương đương tiền dự trữ tại Công ty cổ phần than Đèo Nai ở mức không cao. Điều này phản ánh lượng tiền và tương đương tiền đủ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và thanh toán nhanh tốt. Các chủ nợ thường rất coi trọng các chỉ số thanh toán này vì thông qua việc cho vay và kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá khả năng phân phối và sử dụng vốn của doanh nghiệp hiệu quả đến đâu. Đó cũng là cơ sở để các ngân hàng, các chủ nợ tiếp tục cho DN vay để đầu tư cho tương lai. Mặt khác, việc dự trữ tiền như hiện tại cũng bộc lộ không ít nhược điểm, không chỉ là việc mang màu sắc nền kinh tế chuộm tiền mặt mà nó còn cho thấy Doanh nghiệp đã gây ứ đọng vốn, giảm khả năng sinh lời. Để sử dụng tốt khoản này, theo tác giả cần giải quyết theo một trong các hướng sau: Doanh nghiệp mỏ thường mua bán vật tư, thiết bị thông qua một số đơn vị khác do Tập Đoàn chỉ định, khối lượng và giá trị của lượng vật tư này là rất lớn và các doanh nghiệp cũng thường có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc mua sắm vật tư, hàng hóa lại thường xuyên được thực hiện theo phương thức thanh toán trả chậm nên phải chịu một lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng. Do đó, các doanh nghiệp có lượng dữ trữ tiền lớn sẽ thực hiện trả trước cho đối tác vì sẽ giúp tránh được các khoản tiền lãi trả chậm hàng kỳ. Bên cạnh đó, việc sử dụng nợ ngắn hạn ngân hàng giúp giảm chi phí sử dụng vốn được các doanh nghiệp mỏ áp dụng phổ biến gây ra chi phí lãi vay cuối kỳ là rất lớn. Để giảm chi phí tài chính này và giảm áp lực thanh toán nợ ngắn hạn vào cuối kỳ, các doanh nghiệp có thể trả trước nợ ngắn hạn cho các ngân hàng khi thấy lượng vốn bằng tiền hiện tại lớn hơn nhu cầu. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt và kinh nghiệm của những nhà quản lý và các bộ phận phòng ban chuyên môn. Với số dư tiền này, doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động sử dụng chúng cho mục đích đầu tư ngắn hạn vì sẽ giúp quay vòng vốn nhanh, tăng khả năng sinh lời. Về các khoản phải thu: Trong những năm 2009 – 2011 tổng số tiền phải thu tăng lên cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, cũng cần nói thêm rằng doanh thu của Công ty chủ yếu là doanh thu than, bên cạnh đó là doanh thu từ việc kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh thương mại...mỗi loại doanh thu đều có định mức ngày thu công nợ riêng. Chính việc chậm thanh toán đã khiến các đơn vị chế biến kinh doanh than phải chịu lãi suất trả chậm ảnh hưởng nhiều tới nguồn thu của Công ty. Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin cần có sự hỗ trợ tích cực từ các tín hiệu kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỷ giá, cung cầu của thị trường... Tập Đoàn nên xem xét điều chỉnh lại quy chế đệ trình Chính phủ và Bộ Công thương về việc cải cách các thủ tục hành chính, các chính sách tiền tệ để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các đơn vị có thể sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả tốt nhất. Điển hình như các thủ tục của Ngân hàng rườm rà đã gây ra tình trạng thu hồi nợ của các bạn hàng chậm ảnh hưởng đến khả năng quay vòng vốn của các Công ty khai thác than trong Tập Đoàn và Công ty cổ phần than Đèo Nai là ví dụ điển hình. 3.3.3. Giải pháp xây dựng kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn kinh doanh chủ động và linh hoạt cho Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin Cũng như rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp mỏ đều tiến hành lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho từng năm. Nhưng hiện nay việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần than Đèo Nai vẫn chỉ là tổng hợp các chỉ tiêu công nghệ chủ yếu và mang tính chất tổng quát như: kế hoạch huy động tài nguyên, kế hoạch đào lò, bóc đất đá, vận chuyển...Đây mới chỉ là những kế hoạch cơ bản do phòng ban tại doanh nghiệp và Tập Đoàn lập và phản ánh bức tranh tổng quát về hoạt động sản xuất kinh doanh của các Công ty, còn hiện nay chưa có bộ phận tài chính chuyên trách xây dựng kế hoạch cụ thể về lượng vốn cần huy động và cách thức huy động trong năm hoạt động. Chính việc lập kế hoạch huy động vốn chưa được quan tâm đúng mức đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của Công ty trong những năm qua. Với đặc thù của ngành nên nhu cầu vốn cố định của Công ty là rất lớn và đặc biệt trong những năm tới Công ty cổ phần than Đèo Nai với nhu cầu vốn để tài trợ cho TSCĐ và thực hiện các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh mà các Công ty đã lập kế hoạch, việc cân đối vốn chủ sở hữu và tìm nguồn tài trợ dài hạn là nhiệm vụ bắt buộc. Từ đó giúp Công ty chủ động huy động vốn đặc biệt là vốn vay dài hạn các tổ chức tín dụng trong và ngoài Tập Đoàn để tài trợ cho TSDH tránh tình trạng thiếu vốn dài hạn phải sử dụng vốn ngắn hạn đề đầu tư hoặc dẫn đến bỏ lỡ cơ hội đầu tư và ảnh hưởng đến NLSX cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. 3.3.4. Giải pháp đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của Công ty để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn Hoạt động sẩn xuất kinh doanh chính mang lại nguồn doanh thu và lợi nhuận của Công ty là khai thác tan theo chỉ đạo của Tập Đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam, với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này Công ty có thể mở rộng hoạt động từ khai thác than sang lĩnh vực khai thác khoáng sản khác, trở thành nhà đầu tư về khai thác mỏ và các hoạt động kinh doanh phụ khác. Đa dậng hóa hoạt động kinh doanh sẽ giúp cho Công ty giảm thiểu được rủi ro, phát huy hết năng lực máy móc, thiết bị và nguồn lực về lao động, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiện nay, một số Công ty khai thác than thuộc Tập Đoàn đang thực hiện thăm dò, khai thác than – khoáng sản trên đất nước bạn Lào và Campuchia đồng thời Tập Đoàn đã đặt văn phòng đại diện tại 2 nước bạn. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp có thể tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu đầu tư, liên doanh liên kết khai thác các loại khoáng sản khác của nước bạn từ đó sẽ triển khai đầu tư và đưa lao động có kinh nghiệm sang làm việc. 3.3.5. Giải pháp đầu tư vào yếu tố con người, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao, từng bước đào tạo và đào tạo lại cán bộ kỹ thuật, quản lý Một tổ chức muốn hoạt động tốt thì cần phải có những con người vận hành giỏi và nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc đầu tư vào yếu tố con người được xem là chiến lược mà mỗi doanh nghiệp cần phải quan tâm. Hiện nay đội ngũ lao động có trình độ cao của Công ty còn chưa nhiều, đội ngũ cán bộ kỹ thuật đảm nhiệm việc vận hành, quản lý máy móc thiết bị chưa nắm bắt được công nghệ hiện đại, từ đó đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, công tác đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cần được thực hiện liên tục nhằm củng cố và nâng cao trình độ cho cán bộ kỹ thuật, quản lý. Công ty cần mở rộng hợp tác đào tạo và đào tạo lại với các trường, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Trước mắt là tập trung vào các trường, các viện nghiên cứu trong Tổng Công ty. Chú trọng việc trao đổi, học tập kinh nghiệm về kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ những người làm việc nặng nhọc, độc hại đặc biệt là những người làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Chăm lo, cải thiện điều kiện làm việc, tạo môi trường bình đẳng dân chủ để mọi cá nhân có thể phát huy được khả năng của mình, có cơ chế khuyến khích, thu hút người tài gắn bó với doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển, phải xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ cốt cán cho doanh nghiệp, lựa chọn người có đức, có tài, có tâm huyết với sự phát triển của Công ty vào những vị trí quan trọng. 3.3.6. Giải pháp xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, văn hoá doanh nghiệp là một trong những nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín, thương hiệu và giá trị của Công ty. Vì vậy, trong mọi hoạt động của mình Công ty cần xây dựng nề nếp quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp tiên tiến hiện đại và hiệu quả; văn hoá giao tiếp, ứng xử trong doanh nghiệp phù hợp với thời đại. Tiếp tục phát huy dân chủ, sáng tạo và quan tâm phát triển nguồn lực với tinh thần công nhân viên chức là số một đồng thời cần phát huy truyền thống kỷ luật - đồng tâm, vượt khó luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất để tiếp tục duy trì và xây dựng Công ty phát triển. Công ty tiếp tục xây dựng hình ảnh, thương hiệu phát triển hơn nữa. Thương hiệu sẽ là tài sản vô giá và là một trong những nhân tố quyết định chỗ đứng của Công ty trên thương trường. 3.4. Kiến nghị các điều kiện để các giải pháp được thực hiện thuận lợi Để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty thực hiện các giải pháp trên, các giải pháp cần được hỗ trợ thực hiện từ phía Nhà nước, Tập Đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam và Công ty là: + Đối với Nhà nước - Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán. - Khuyến khích phát triển loại hình công ty cổ phần với các chính sách hỗ trợ như thuế, lãi suất, đầu tư ... - Nâng cao trình độ quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp đặc biệt là quản lý vốn. Hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính, đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch của các thông tin. + Đối với Tập Đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam - Để tăng tính chủ động trong việc lập kế hoạch và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh Tập Đoàn cần có sự phân cấp mạnh hơn cho các đơn vị thành viên trong công tác quản lý huy động và sử dụng vốn nhằm phát huy tính sáng tạo và tự chủ của các đơn vị thành viên. - Bảo lãnh cho Công ty các khoản vay để thực hiện các dự án đầu tư lớn. - Hỗ trợ về nguồn nhân lực trong sản xuất cũng như tạo cơ chế, chính sách khuyến khích cán bộ, công nhân viên có trình độ chuyên môn, tay nghề cao làm việc ở các dự án vùng xa. - Có cơ chế, chính sách hỗ trợ Công ty về việc đào tạo nâng cao trình độ cũng như sắp xếp lại lao động cho cán bộ công nhân Công ty trong quá trình sản xuất để đạt hiệu quả cao. + Đối với Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin - Chủ động xây dựng quy chế về quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, đầu tư mua sắm một cách chặt chẽ và thống nhất. - Nâng cao tính chủ động trong công tác lập kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn. - Tăng cường đầu tư vào yếu tố con người, bố trí bộ phận tài chính chuyên trách theo dõi, phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất lãnh đạo giải quyết kịp thời. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua những nội dung phân tích và những giải pháp được đề cập trong phạm vi luận văn ở phần trên, tác giả có một số nhận xét như sau: Trong quãng đường hình thành và phát triển, Công ty cổ phần than Đèo Nai đã cho thấy hình ảnh của một Công ty lớn mạnh, không chỉ thực hiện thành công phương châm “Nắm to, buông nhỏ; giữ chính, thả phủ; phối hợp hành động thống nhất“ mà Tập Đoàn ra chỉ thị, tác giả đã phản ánh khá rõ nét tình hình quản lý, sử dụng vốn và cơ cấu vốn theo tài sản cũng như theo nguồn hình thành từ đó thấy được những điểm hạn chế, tồn tại từ đó có thể đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đảm bảo khả năng sử dụng vốn có hiệu quả. Từ đó tác giả đã xây dựng phương trình phát triển bền vững, mô hình nguồn tài trợ hợp lý đối với việc áp dụng cho ngành mỏ, nên lựa chọn đầu tư hay mua ngoài đến phương trình tối ưu hóa cơ cấu nguồn vốn nhằm giúp Công ty có thể sử dụng vốn có chi phí thấp mà vẫn đảm bảo an toàn về tài chính. Tác giả cũng nhận thấy rằng việc sử dụng vốn có hiệu quả không chỉ là việc đầu tư nâng cao tính đồng bộ trong cơ cấu tài sản mà còn phụ thuộc vào sự chủ động, linh hoạt của Công ty. Cũng dựa trên quan điểm đó, tác giả tiến hành phân tích áp dụng với Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin là một dẫn chứng sinh động cho việc làm thế nào để một Doanh nghiệp khai thác than có thể đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tác giả đã áp dụng mô hình cơ cấu vốn hợp lý để Công ty cổ phần than Đèo Nai áp dụng trong tương lai theo một chiến lược đúng đắn và khoa học. Những bước đi như vậy không chỉ giúp Công ty cổ phần than Đèo Nai mà cả các Công ty khác trong Tập Đoàn cũng có thể áp dụng theo. Tóm lại, phát triển ngành than phải gắn liền với phát triển kinh tế – xã hội, du lịch, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái trên địa bàn vùng than vì hiệu quả cao và bền vững trong sử dụng vốn luôn phải đáp ứng được mục tiêu tối đa hóa hiệu quả của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Tài chính (2006), Chế độ kế toán doanh nghiệp (Ban hành kèm theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, được sửa đổi bổ sung theo Thông tư số 161/2007/TT-BTC ngày 31/12/2007 của Bộ Tài chính), NXB Thống kê, Hà Nội. Dương Đăng Chinh (2003), Giáo trình Lý thuyết tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội. Nguyễn Văn Công (2005), Chuyên khảo về Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội. Ngô Thị Cúc, Ngô Phúc Thành, Phạm Trọng Lễ (1995), Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường, UBND Tp.Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Thị Liên Hoa, ThS. Bùi Hữu Phước (2002), Toán Tài chính, NXB Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh. Vũ Duy Hào, Đảm Văn Huệ (2009), Quản trị Tài chính doanh nghiệp, NXB Giao thông vận tải, Tp. Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Kiệm, Bạch Đức Hiển (2008), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội. Nguyễn Duy Lạc (2009), Tổ chức nguồn lực tài chính, Bài giảng dùng cho cao học và NCS chuyên ngành Kinh tế công nghiệp, Trường ĐH Mỏ - Địa chất, Hà Nội. Nguyễn Duy Lạc (2010), “Một số vấn đề về an toàn tài chính trong cơ cấu vốn của Công ty cổ phần”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Mỏ-Địa chất, Số 29, Tr.34-37. Đỗ Hữu Tùng (2005), Quản trị tài chính, Bài giảng dùng cho cao học và NCS chuyên ngành kinh tế công nghiệp, Trường ĐH Mỏ - Địa chất, Hà Nội. Nguyễn Hải Sản, Hoàng Anh (2008), Cẩm nang nghiệp vụ Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội. Ross, Westerfield, Jaffe, Jordan (2008), Modern Financial Management, McGraw-Hill International Edition. Douglas, A. (2002), “Capital Structure and the control of managerial incentives”, Journal of Corporate Finance 8, Pg 287-311. Harris, M and Raviv, A. (1991), “The theory of capital structure”, Journal of Corporate Finance 46, Pg 297-355. Hunsaker. J (1999), “The role of debt and bankruptcy statutes in facilitating tacit collusion”, Managerial and Decision Economics 20, Pg 9-24.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_h_0666.doc