Luận văn Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá

Tiếp tục qui hoạch, hoặc qui hoạch lại những vùng sản xuất hàng hoá tập trung qui mô lớn, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi thành những khu xa nơi dân sinh, nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trường; từ đó có chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản qui mô lớn và qui mô nhỏ cấp hộ, HTX, cũng như ưu tiên đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước cần có chiến lược nâng cao chất lượng, hạ giá thành những nông sản là hàng hoá mũi nhọn có xu hướng xuất khẩu như tôm, lợn, cói để tăng khả năng cạnh tranh và vị thế trên thị trường, nhất là thị trường nước ngoài. Hỗ trợ cho trang trại, đặc biệt là những trang trại có qui mô lớn được ứng dụng các máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nông nghiệp để giảm nhẹ lao động chân tay và tăng năng suất lao động dưới hình thức trợ giá, vay không lãi, trả góp không lãi để các trang trại đầu tư mua sắm đưa vào sản xuất.

doc114 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3068 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế nông nghiệp, nông thôn; tạo lập các vùng sản xuất hàng hoá nông – lâm – thuỷ sản tập trung, làm cơ sở cho công nghiệp chế biến và ngành nghề dịch vụ ở nông thôn ra đời, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. 3. Kinh tế trang trại phát triển góp phần vào việc khai thác tiềm năng đất đai (đặc biệt là đất trống đồi núi trọc ở vùng đồi núi, đất hoang hoá ở một số xã, phường chưa đưa vào sản xuất), tăng nhanh giá trị hàng hoá nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng nhanh tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, góp phần cải thiện cân bằng môi trường sinh thái. 4. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác, huy động thêm nguồn vốn trong dân đầu tư vào phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. 5. Tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm nông sản hàng hoá. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Từ những mô hình kinh tế trang trại làm ăn có hiệu quả ở các đơn vị, sẽ là tiền đề cơ sở thực tiễn giúp các chủ trang trại thấy được chí hướng muốn làm giàu và vươn lên sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến, với thị trường theo hình thức liên kết đa chiều trong khu vực nông thôn. 4.3.2 Những tồn tại, nguyên nhân ảnh hưởng và bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại của thị xã 4.3.2.1 Những tồn tại trong phát triển kinh tế trang trại Qua nghiên cứu chúng tôi thấy, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đang còn tồn tại một số vấn đề như sau (bảng 4.11). 1. Tỷ lệ trang trại được UBND thị xã cấp giấy chứng nhận KTTT mới chỉ đạt 70%, còn 30% số trang trại nữa cần phải tiếp tục thẩm định để cấp giấy. 2. Nhu cầu về đất sản xuất đang được các chủ trang trại quan tâm (có 23,33% số trang trại thiếu đất sản xuất). Các trang trại nông, lâm nghiệp được giao đất theo NĐ 02-NĐ/CP chưa phải thực hiện nghĩa vụ cho địa phương, những trang trại nhận thầu từ quỹ đất công ích, đất khó giao của xã, phường nhận đất giao khoán ở nông trường (thời gian thầu, thuê đất có thời gian ngắn từ 1-5 năm, nên chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư vốn lớn vào sản xuất) đa số chưa được cấp giấy CNQSD đất, nhưng phải thực hiện nghĩa vụ hàng năm, các chính sách đối với các trang trại được thụ hưởng còn rất hạn chế. 3. Tình trạng thiếu vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của trang trại là phổ biến, vốn ngân hàng cho trang trại vay chiếm 24,5%, chủ yếu là vay ngắn hạn, thời gian cho vay chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất. Nhu cầu vốn sản xuất là rất lớn, hiện nay có 76,67% số trang trại đang thiếu vốn sản xuất. Qui mô trang trại nhỏ, các chỉ tiêu mà kinh tế trang trại ở thị xã đạt được còn ở mức thấp so với bình quân chung của cả tỉnh. 4. Kinh tế trang trại phát triển còn mang nặng tính tự phát, thiếu sự quy hoạch và đầu tư chưa đồng bộ trong xây dựng cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, cơ sở chế biến, điện nước. Chất lượng sản phẩm hàng hoá từ các trang trại chưa cao, sản phẩm chủ yếu dưới dạng thô và việc tiêu thụ sản phẩm phần lớn phải tự tìm kiếm thị trường hoặc thông qua trung gian (hiện nay có 33,33% chủ trang trại cho biết đang còn gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ). Tổ chức sản xuất của các trang trại phần lớn còn lúng túng trong xác định mục tiêu phát triển (trừ cây mía, chăn nuôi lợn, cá…). 5. Số trang trại có hiểu biết khoa học kỹ thuật còn hạn chế, có 60,0% trang trại cho rằng là thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật. 6. Hiệu quả sản xuất chưa cao, bởi vì, hiện nay nhiều trang trại sản xuất vẫn còn mang nặng tính quảng canh. Một số trang trại vẫn ở tình trạng giữ đất để khai thác hoa lợi tự nhiên, chưa mạnh dạn đầu tư. 7. Ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề bức xúc khó giải quyết của nhiều trang trại, nhất là các trang trại chăn nuôi. 8. Lao động tham gia sản xuất trong các trang trại chủ yếu là lao động phổ thông, làm việc theo kinh nghiệm, số có tay nghề kỹ thuật còn ít (chỉ chiếm khoảng 15%), số lượng lao động thuê thường xuyên chưa nhiều. Các chủ trang trại còn nhiều hạn chế cả về trình độ chuyên môn, quản lý, hoạch toán kinh tế, kỹ thuật và kiến thức kinh doanh, thị trường. Bảng 4.11. Những khó khăn của chủ trang trại cần được giải quyết Những khó khăn   Đơn vị tính Tổng số Loại hình trang trại Trồng cây hàng năm Trồng cây lâu năm Chăn nuôi Lâm nghiệp Nuôi trồng thủy sản SXKD tổng hợp + Do thiếu đất ý kiến 7 4 1 1 0 0 1 Tỷ lệ trang trại thiếu đất % 23.33 30.77 20.00 33.33 0.00 16.67 + Thiếu vốn ý kiến 23 10 4 2 0 2 5 Tỷ lệ trang trại thiếu vốn % 76.67 76.92 80.00 66.67 66.67 83.33 + Khó tiêu thụ sản phẩm ý kiến 10 4 2 1 0 1 2 Tỷ lệ trang trại khó tiêu thụ sản phẩm % 33.33 30.77 40.00 33.33 33.33 33.33 + Thiếu hiểu biết KHKT ý kiến 18 7 3 2 0 2 4 Tỷ lệ trang trại thiếu hiểu biết KHKT % 60.00 53.85 60.00 66.67 66.67 66.67 + Thiếu thông tin thị trường ý kiến 12 5 3 1 0 1 2 Tỷ lệ trang trại thiếu thông tin thị trường % 40.00 38.46 60.00 33.33 33.33 33.33 + Thiếu DV hỗ trợ sản xuất ý kiến 20 9 3 2 0 2 4 Tỷ lệ trang trại thiếu DV hỗ trợ sản xuất % 66.67 69.23 60.00 66.67 66.67 66.67 Nguồn: Điều tra. 9. Công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại còn nhiều hạn chế, sự hướng dẫn, phối hợp triển khai còn chậm, chưa đồng bộ. 4.3.2.2 Những nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại 1. Một số xã, phường, cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức trong việc quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết, chưa tích cực tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại của Đảng và Nhà nước để nhân dân yên tâm, hăng hái đầu tư phát triển kinh tế trang trại. 2. Hầu hết các địa phương chưa xây dựng được quy hoạch phát triển trang trại gắn với quy hoạch phát triển nông nghiệp, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. 3. Phát triển kinh tế trang trại chưa được quan tâm đúng mức, thiếu sự hướng dẫn và giúp đỡ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Bộ máy quản lý Nhà nước chủ yếu là kinh nghiệm, thiếu tính đồng bộ. Ở thị xã chưa bố trí được cán bộ theo dõi kinh tế trang trại, nên chưa thực hiện được chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại. 4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho chủ trang trại và lao động còn hạn chế. 5. Thiên tai, bão lụt, dịch bệnh xảy ra thất thường, giá cả không ổn định đã làm nhiều chủ trang trại nãn lòng không dám đầu tư lớn vào sản xuất. 4.3.2.3 Một số bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại Một là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, có chương trình hành động cụ thể, có những định hướng, có quy hoạch, chính sách hỗ trợ cho các loại hình trang trại phát triển. Hai là, thống nhất nhận thức về tính chất, vị trí và xu hướng phát triển của kinh tế trang trại, thực hiện đồng bộ các chính sách, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, xây dựng và nhân rộng các điển hình, mô hình tiên tiến. Ba là, coi trọng phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế trang trại, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chủ trang trại và lao động trong nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập [24]. 4.3.3 Tiềm năng phát triển kinh tế trang trại của thị xã Tuy nông nghiệp của Bỉm Sơn chỉ chiếm khoảng 5% trong tổng sản phẩm; nhưng trong những năm qua, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện GDP nông nghiệp tăng liên tục và với tốc độ cao trong nhiều năm. Sản xuất nông nghiệp phần nào cũng đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực của thị xã và một số sản phẩm của thị có thế mạnh như mía, dứa, cây ăn quả, chăn nuôi bò, lợn... Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần cải thiện, nâng cao đời sống cho nông dân và làm cơ sở đảm bảo cho kinh tế - xã hội nông thôn khu vực đo thị phát triển ổn định. Để khai thác có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nội lực, Bỉm Sơn đã lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến 2015 và định hướng 2020, đây là cơ sở để chúng ta tập trung sức lực nhằm khai thác những tiềm năng và lợi thế của mình, đó là: Tiềm năng về đất đai Hiện nay, Bỉm Sơn đang còn 1.176 ha đất có khả năng đưa vào sản xuất, đó là diện tích đất đồi và mặt nước chưa sử dụng. Cơ sở hạ tầng Có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt thuận tiện cho việc trao đổi hàng hóa như đường Quốc lộ 1A, Ga công nghiệp chở hàng hoá. Có hệ thống tưới, tiêu được chủ động đối với trồng trọt và nuôi trồng thủy sản, đây cũng là một trong những yếu tố thuận lợi để phát triển trang trại. Cùng với tiềm năng ở trên, hiện nay Bỉm Sơn đã có nhiều doanh nghiệp vệ tinh lân cận chế biến nông sản, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp nông nghiệp trong việc cung cấp giống cây, con; tiêu thụ sản phẩm đến các trang trại là một trong những yếu tố có thể giúp phát triển kinh tế trang trại. 4.3.4 Chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế trang trại của thị xã Một số chính sách lâu dài của Nhà nước đối với kinh tế trang trại - Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản xuất kinh doanh. - Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi…, tận dụng khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng thâm canh với tỷ suất hàng hoá cao. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp. - Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi Hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển. - Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền vững. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả. Kết quả thực hiện một số chính sách của thị xã Trên tinh thần Nghị quyết 07/-NQ/TU của tỉnh và Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại. Thị xã đã triển khai xuống đến xã, phường và đạt được một số kết quả sau: 1. Chính sách về đất đai, đất đai của các trang trại được hình thành trong quá trình thực hiện các chính sách giao đất nông, lâm, ngư nghiệp ổn định lâu dài của nhà nước cho các hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức theo Nghị định 64-NĐ/CP, Nghị định 01-NĐ/CP, Nghị định 01-NĐ/CP (nay là Nghị định 135-NĐ/CP), nhận thầu từ quỹ đất khó giao, đất công ích, đất thuê lại và nhận chuyển nhượng của các hộ khác, trong đó, đất giao theo Nghị định 02-NĐ/CP chiếm 45,3%; đất đấu thầu chiếm 30,6%; đất chuyển nhượng chiếm khoảng 2,3%; đất nhận khoán của các nông trường chiếm 21,8%. Một số trang trại chăn nuôi tập trung, trang trại tổng hợp (theo mô hình lúa - cá - chăn nuôi) đất đai được hình thành từ việc quy hoạch, đổi điền dồn thửa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất đất nông nghiệp. 2. Về chính sách tài chính, tín dụng, tổng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ngày một tăng, điển hình đầu tư khu trang trại nuôi bò, lợn với qui mô lớn. Ngoài chính sách của tỉnh, thị xã còn có chính sách riêng hỗ trợ cho khu trang trại chăn nuôi tập trung, hỗ trợ công tác chuyển đổi vùng đất lúa trũng sản xuất kém hiệu quả sang sản xuất theo mô hình lúa - cá - chăn nuôi. 3. Về khoa học – kỹ thuật, công nghệ và môi trường, công tác chuyển giao kiến thức khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho các chủ trang trại đã được các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện quan tâm như: tập huấn, hỗ trợ giống, thăm quan các mô hình sản xuất trong và ngoài tỉnh, đào tạo dẫn tinh viên, công tác thú y, phòng chống dịch bệnh, xây dựng các mô hình trình diễn trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản thông qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, các tổ chức hội nghề nghiệp. Phần lớn các khu trang trại chăn nuôi lợn tập trung nằm trong quy hoạch, được xây dựng đồng bộ hơn, nên ít gây ô nhiễm môi trường, một số hộ trang trại chăn nuôi phân tán gần khu dân cư đã đầu tư xây dựng hầm Bioga để tận dụng khí đốt hoặc các trang trại chăn nuôi vừa và nhỏ kết hợp với trồng trọt-nuôi cá nên cũng hạn chế được mức độ ô nhiễm môi trường. 4. Chính sách thị trường, trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự phối kết hợp giữa các nhà máy chế biến với trang trại nên một số sản phẩm như: mía, dứa, chăn nuôi lợn, gia cầm…, tiêu thụ tương đối ổn định, đạt hiệu quả kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại. Đầu năm 2007, UBND tỉnh đã tổ chức Hội chợ triển lãm Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa lần thứ nhất, có 75 đơn vị trong và ngoài tỉnh tham gia với 90 gian hàng, trong đó Bỉm Sơn là một trong 24 huyện, thị, thành phố tham gia 34 gian hàng. Đây là cơ hội để các địa phương, các chủ trang trại quảng bá, giới thiệu nông sản của mình. 5. Về công tác quản lý nhà nước đối với phát triển kinh tế trang trại được quan tâm hơn. Phông Nông nghiệp đã phối hợp tốt với phòng Thống kê và đã thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, hàng năm đã tổ chức điều tra, đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn, tham mưu cho UBND thị xã cũng như của tỉnh ban hành một số chính sách hỗ trợ kinh tế trang trại, quy định tạm thời về việc cấp giấy chứng nhận KTTT…, đến nay đã có 71 trang trại được cấp giấy chứng nhận (bằng 65,1%). Nhiều xã, phường đã quan tâm đến công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại, hàng năm tổ chức sơ kết đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn, biểu dương các mô hình, điển hình tiên tiến đồng thời có giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để kinh tế trang trại phát triển như: xã Quang Trung, phường Đông Sơn, Bắc Sơn, Ba Đình… Có thể nói, sự phát triển của kinh tế trang trại trong những năm gần đây đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang diện tích, đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hóa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tăng thêm sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Nhiều trang trại đã cung ứng giống cây trồng, vật nuôi tốt, làm dịch vụ, chuyển giao kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đang thực sự là nhân tố quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn của thị xã. 4.4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI ĐẾN NĂM 2010. 4.4.1 Định hướng phát triển trang trại của thị xã trong thời gian tới Dựa trên cơ sở tiềm năng tài nguyên, các nguồn lực của địa phương và căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thị xã thời kỳ 2006-2010, và giai đoạn 2010 – 2020; Phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm của thị xã kỳ 2006 – 2010 là 22,5%; GDP bình quân đầu người đến 2010 là 2060 USD; phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu; nâng cao năng lực về khoa học, công nghệ đủ khả năng đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, từng bước tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế. Trong nông nghiệp đưa cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lên trên 40% vào năm 2010. Căn cứ vào báo cáo Qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của thị xã và Qui hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến 2015 và định hướng 2020 để chúng ta đề ra các giải pháp nhằm thu hút và tập trung các nguồn lực để mở rộng sản xuất, đầu tư thâm canh tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH - HĐH. Tập trung đầu tư nâng cao quy mô, chất lượng, hiệu quả của các trang trại hiện có, khuyến khích phát triển thêm nhiều trang trại có qui mô lớn, tạo ra sản phẩm và có tỷ suất hàng hoá cao ở tất cả các xã, phường. Trong tổng số 30 trang trại được phỏng vấn, có 21 ý kiến (chiếm 70,0%) của chủ trang trại dự định mở rộng qui mô SXKD, cao nhất là trang trại chăn nuôi có 79,27% chủ trang trại dự định mở rộng qui mô; thấp nhất là trang trại cây lâu năm 65,5% chủ trang trại dự định mở rộng SXKD; có 43,09% chủ trang trại dự định đầu tư vào ngành nông nghiệp; đầu tư vào trang trại thủy sản chiếm 19,65%. Đối với vùng đất đồi núi: phát triển nhanh các loại hình kinh tế trang trại theo quy mô kết hợp trồng với quy mô bảo vệ, tái sinh rừng, kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc (nhất là đại gia súc), thực hiện lấy ngắn nuôi dài, hình thành các hệ thống trang trại trồng cây nguyên liệu cao su, giấy, mía…, đảm bảo hài hoà lợi ích giữa chủ trang trại và doanh nghiệp chế biến, địa phương và nhà nước. Vùng đồng bằng, hướng phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản, kết hợp với chế biến nông, lâm thuỷ sản, chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ và con nuôi, tăng cường thâm canh, sản xuất kinh doanh tổng hợp để nâng cao giá trị sản xuất trên diện tích canh tác, bảo vệ được hệ canh tác sinh thái. Làm tốt công tác quy hoạch nông nghiệp, phong trào đổi điền, dồn thửa, tích tụ đất đai. Phát triển các mô hình trang trại trồng mía, rau các loại, cói, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm… Chú trọng phát triển các trang trại công nghệ cao về rau, hoa quả sạch chất lượng cao, thực phẩm an toàn. Từ những lợi thế và tốc độ phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua. Trên cơ sở các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, con người và định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp của thị xã cũng như của tỉnh; cùng với các ý kiến của chuyên gia về lĩnh vực trang trại, thị xã đã đưa ra định hướng phát triển kinh tế trang trại từ nay đến năm 2010 như sau (xem bảng 4.12 và đồ thị 4.1). Dự kiến đến năm 2010, toàn thị xã có 168 trang trại, tăng 54,1% so với năm 2007, bình quân mỗi năm giai đoạn 2008 - 2010 tăng 14,8%; loại hình trang trại có tỷ trọng lớn là trang trại trồng cây hàng năm như mía, … và trang trại chăn nuôi. Giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 500 lao động, bình quân mỗi năm tăng 7,6%. Bảng 4.12. Dự báo phát triển kinh tế trang trại của thị xã đến năm 2010 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2007 Dự báo đến năm T.độ PT BQ (%) 2008 2009 2010 1. Tổng số trang trại TTrại 109 126 146 168 114.8 * Chia ra loại hình sản xuất Trang trại cây hàng năm TTrại 48 55 64 74 115.5 Trang trại cây lâu năm TTrại 17 21 26 33 124.3 Trang trại chăn nuôi TTrại 12 13 14 15 107.8 Trang trại lâm nghiệp TTrại 0 0 0 0 Trang trại NTTS TTrại 9 12 15 17 119.0 Trang trại SXKD tổng hợp TTrại 23 25 27 29 107.6 2. Tổng số lao động Người 384 413 444 478 107.6 - Lao động gia đình Người 238 261 286 314 109.6 - Lao động thuê mướn Người 146 152 158 164 104.0 Nguồn: Báo cáo QH PT Kinh tế – XH Bỉm Sơn đến 2010 [28]. Đồ thị 4.1. Dự báo xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở Bỉm Sơn đến 2010 4.4.2 Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại của thị xã thời gian tới 4.4.2.1 Giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại Đất đai luôn là nỗi trăn trở của nhiều chủ trang trại, vấn đề chính là họ đang sản xuất trên mảnh đất mà nhiều phần chưa được bảo hộ của Nhà nước, nhất là đối với diện tích đất được giao thuê, đấu thầu…, thêm vào đó là hiện nay nhiều diện tích đất được các hộ khai hoang, phục hoá đất trống đồi núi trọc đã nhiều năm nhưng vẫn chưa được giao, đất thuê của các nông, lâm trường chưa hoặc không được giao cho trang trại sử dụng một cách chính thức…, nên tình trạng chủ trang trại không đầu tư thoả đáng để phát triển sản xuất. Để các Nghị quyết và các dự định của chủ trang trại thành hiện thực và được cụ thể hóa, thì chúng ta cần phải làm tốt một số vấn đề sau: - Cần phải tiếp tục hoàn thiện qui hoạch sử dụng đất đai Qui hoạch đất đai là cơ sở quan trọng để thực hiện bố trí sản xuất theo hướng khai thác các lợi thế của từng xã, phường, trên cơ sở đó có định hướng phát triển trang trại theo qui hoạch, tránh tình trạng khai thác đất bừa bãi dẫn đến lãng phí đất, phá hoại môi trường sinh thái. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế trang trại phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nông nghiệp, thuỷ sản đến năm 2015, định hướng năm 2020 của thị xã. Coi trọng quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản đi đôi với bảo vệ môi trường, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. - Khuyến khích tập trung đất đai và những người có nguyện vọng nhận đất ở các vùng đất trống, đồi núi trọc, để hình thành các trang trại có qui mô hợp lý. Để hình thành trang trại, các hộ phải tập trung ruộng đất với qui mô nhất định. Trên thực tế, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra chậm, cần khuyến khích quá trình tập trung ruộng đất theo hướng thành các trang trại… Cần phải có qui hoạch, kế hoạch cụ thể đối với gần 1.176 ha diện tích đất có khả năng đưa vào sản xuất nông nghiệp; đặc biệt là đồi núi và mặt nước chưa sử dụng. Cần rà soát lại diện tích đất của chủ trang trại xem có phù hợp với qui hoạch không để trên cơ sở đó tiếp tục xem xét cấp giấy CNQSDĐ cho các trang trại, bởi hiện nay đang còn 46,87% số hộ được hỏi cần được cấp giấy CNQSDĐ, giải quyết được khâu này, người dân mới yên tâm đầu tư.. - Khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún: việc khắc phục tình trạng đất manh mún của các nông hộ là sẽ tạo điều kiện đi vào sản xuất tập trung và là tiền đề để chuyển từ hộ lên phát triển trang trại một cách thuận lợi. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động dồn điền, đổi thửa, chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất tạo điều kiện cho việc tích tụ đất để phát triển kinh tế trang trại. - Thừa nhận về pháp lý đất đai là một hàng hoá đặc biệt để quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả. Nhà nước cần thừa nhận đất đai là một loại hàng hoá đặc biệt và có chính sách phù hợp để đảm bảo cho loại hàng hoá này vận động trong cơ chế thị trường, hướng dẫn và điều tiết các mối quan hệ trong quá trình sử dụng đất đai. Từ đó họ mới có thể yên tâm khai thác và sử dụng đất đai có hiệu quả và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước quản lý đất đai. - Đẩy mạnh việc giao đất, đối với diện tích đất được giao, thuê, đấu thầu đất cần phải được nâng thời hạn thuê, giao từ 20 – 40 năm (hiện nay nhiều trang trại chỉ được thuê đất để phát triển trang trại từ 3 – 5 năm), trên cơ sở xem xét diện tích đất tính pháp lý thì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ trang trại để họ yên tâm đầu tư sản xuất. - Tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác để phát triển trang trại và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi về đất đai đối với kinh tế trang trại. 4.4.2.2 Huy động vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển trang trại Nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế trang trại là rất lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng, con giống, công cụ máy móc…. Trong thực tế hiện nay, mức đầu tư vốn bình quân 1 trang trại của thị xã đang thấp hơn so với mức bình quân chung của một số huyện lân cận; các chủ trang trại chưa có tư cách pháp nhân, nên các trang trại chỉ phát triển dần qui mô với phương châm “lấy ngắn, nuôi dài”, nhiều cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng, công cụ còn thô sơ dẫn đến hiệu quả sản xuất còn thấp. Hiện nay, đang còn 76,42% số chủ trang trại đang có dự định vay vốn. Để trang trại của thị xã có thể phát triển mạnh hơn nữa, thị xã cần có một số biện pháp sau: - Hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như thuỷ lợi, giao thông, điện… không những phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nói chung mà còn là để tạo điều kiện cho phát triển trang trại theo hướng sản xuất hàng hoá. - Về công tác tín dụng, các ngân hàng thương mại cần tích cực, chủ động cùng với chủ trang trại linh hoạt về thời hạn và lãi suất dựa trên phương án đầu tư của chủ trang trại và khả năng tài chính của ngân hàng thương mại, để từng bước tháo gỡ khó khăn về vốn cho phát triển trang trại. 4.4.2.3 Ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, cung ứng đầu vào cho các trang trại Tiêu thụ sản phẩm là điều kiện sống còn của trang trại, thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, nhiều trang trại do ảnh hưởng của dịch bệnh H5N1 ở gà, tai xanh ở lợn… và biến động thất thường của giá cả đã làm cho nhiều trang trại dẫn đến phá sản. Do đó, sự hỗ trợ về thị trường là điều kiện cơ bản để trang trại tồn tại và phát triển. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Bỉm Sơn là địa bàn có lợi thế nhiều nhà máy chế biến lân cận như Nhà máy đường mía Việt Đài, Nhà máy chế biến hoa quả Đồng Giao... thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, cần phải gắn vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến nông sản. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiêu thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên địa bàn. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với trang trại theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 26/2/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, để việc liên kết “bốn nhà” hoạt động có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Tổ chức thực hiện tốt quy hoạch và xây dựng chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua, bán trao đổi hàng hoá nông sản ở các địa bàn tập trung có trang trại phát triển. Làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo và khuyến cáo về thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế; cung cấp thông tin thị trường, để giúp các chủ trang trại định hướng sản xuất theo thị trường; góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình CNH - HĐH đất nước. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. - Thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào. Hiện nay, có một số doanh nghiệp vừa bao tiêu sản phẩm, vừa cung ứng vật tư cho các nông hộ cũng như chủ trang trại. Tuy nhiên, Nhà nước cũng cần có vai trò quan trọng trong việc điều tiết giá thông qua chính sách thuế, trợ giá nhập khẩu đối với các loại vật tư nông nghiệp để đảm bảo ổn định và bình ổn giá cả các mặt hàng là yếu tố đầu vào sản xuất chủ yếu của trang trại. Nhà nước cần quản lý tốt đối với hệ thống ngân hàng, hệ thống các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu vật tư và hệ thống các doanh nghiệp bán buôn vật tư nông nghiệp. 4.4.2.4 Nâng cao năng lực quản lý cho chủ trang trại, tăng cường đào tạo tay nghề cho người lao động trong trang trại - Đối với chủ trang trại cần phải nâng cao trình độ quản lý trang trại, quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ thuật. Qua nghiên cứu ở nhiều trang trại hoạt động mang lại hiệu quả cao cho thấy, chủ trang trại phải có ý chí làm giàu, chịu khó học hỏi để tiến lên. Vì vậy, họ có trình độ khoa học kỹ thuật, có khả năng quản lý, có nhiều hiểu biết nhất định về thị trường và biết kết hợp sức lao động của gia đình và thuê mướn thêm lao động để sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, số chủ trang trại không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất cao 77,9%. Để nâng cao trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh và trình độ khoa học - kỹ thuật của các chủ trang trại cần xác định đối tượng đào tạo không chỉ là chủ trang trại, mà còn bao gồm những người có nguyện vọng và khả năng trở thành chủ trang trại, những người quản lý ở cấp cơ sở trực tiếp quản lý các hoạt động của các trang trại. Trong số 30 ý kiến của chủ trang trại thì có đến 80,20% số người cần được Nhà nước hỗ trợ đào tạo kiến thức. Để giải quyết được vấn đề này, trên cơ sở nhu cầu, từ tỉnh đến các huyện, thị cần xây dựng kế hoạch mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật và quản lý cho các chủ trang trại, nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật sản xuất, quản lý tiếp cận thị trường cho chủ trang trại; đồng thời, xây dựng các mô hình trình diễn ở một số địa phương nhằm tạo điều kiện cho các chủ trang trại tham quan học tập gắn lý thuyết với thực hành phù hợp với thực tiễn. - Cần phải đào tạo nghề phù hợp cho người lao động làm thuê trong các trang trại, nhất là đào tạo về khoa học và công nghệ. Các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, hội nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể... cần phải giúp đỡ và hỗ trợ các trang trại đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Ưu tiên các trang trại sử dụng nhiều lao động, trang trại sử dụng nhiều lao động của những hộ nông dân không có đất hoặc thiếu việc làm được vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, chương trình xoá đói, giảm nghèo. Đối với lao động chủ trang trại thuê để làm việc thường xuyên trong trang trại, chủ trang trại phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quy định tại thông tư số 23/2000/TT – LĐTBXH ngày28/9/2000 của Bộ lao động - thương binh và xã hội về hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm việc trong các trang trại như: hợp đồng lao động, trang bị bảo hộ lao động và trách nhiệm của chủ trang trại đối với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn ở trang trại trong thời gian làm việc theo hợp đồng. 4.4.2.5 Giải pháp khoa học công nghệ Đây là giải pháp vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài để đảm bảo cho kinh tế trang trại phát triển ổn định, đạt hiệu quả cao. Cần khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ nông nghiệp, trong đó coi trọng sự liên kết giữa các trung tâm, hiệp hội khoa học, viện nghiên cứu với các trang trại điển hình trên từng vùng của tỉnh để nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ cho các trang trại. Muốn vậy, Nhà nước có chính sách đầu tư thoả đáng từ ngân sách cho việc phát triển công nghệ sinh học để tạo các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản phẩm chất lượng cao, tìm ra và áp dụng công nghệ mới trong canh tác, chế biến bảo quản sản phẩm nông nghiệp. Các ngành nông nghiệp và PTNT, thuỷ sản và các địa phương hướng dẫn cho chủ trang trại lựa chọn cơ cấu các loại cây, con phù hợp, ứng dụng các giải pháp về kỹ thuật, giống mới... trong sản xuất cho từng loại hình trang trại. Tăng cường vai trò của tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, thú y và cung cấp thông tin thị trường cho các chủ trang trại. 4.4.2.6 Tăng cường quản lý nhà nước về phát triển trang trại Tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại theo hướng tạo mọi điều kiện để các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình với địa phương. Cấp uỷ, chính quyền, các ngành chức năng hàng năm cần sơ kết đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại ở địa phương, đơn vị mình, đôn đốc chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách đã ban hành đối với kinh tế trang trại, giới thiệu những mô hình mới, những điển hình tiên tiến; thông tin những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, những yêu cầu và nguyện vọng của các chủ trang trại giúp cấp uỷ, chính quyền và các ngành chức năng có biện pháp giải quyết kịp thời thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Muốn vậy, cần phải làm tốt một số nội dung sau: - Công tác tổ chức tuyên truyền: tiếp tục quán triệt Nghị Quyết 07-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết 03/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại. Nâng cao và thống nhất nhận thức cho cán bộ, đảng viên và mọi người dân về vị trí, vai trò và xu thế phát triển của kinh tế trang trại. - Cần phải có quy hoạch phát triển trang trại từ cấp cơ sở: quy hoạch phát triển trang trại không chỉ dừng lại ở cấp huyện. Việc xây dựng các vùng phát triển kinh tế trang trại cần được thực hiện từ cấp xã để phát huy về lợi thế cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện đất đai của địa phương để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh cao, tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập của nông dân, khắc phục tình trạng phát triển tự phát, hiệu quả thấp, kém bền vững của trang trại. Theo đó quy hoạch phát triển trang trại phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, xử lý môi trường, cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất, cung ứng giống cây, con... đảm bảo tốt các yêu cầu phục vụ cho việc phát triển trang trại bền vững. Việc quy hoạch này ngoài việc bảo đảm ho việc phát triển sản xuất của trang trại còn bảo đảm cho việc sản xuất đó không có những tác động xấu đến môi trường xã hội, đặc biệt là giảm thiểu tác động xấu đến dân cư đối với trang trại chăn nuôi. Đối với các trang trại có chế biến nông lâm sản cũng phải tuân thủ về khoảng cách với khu dân cư, có hệ thống xử lý rác thải ... Quy hoạch theo cấp xã còn đảm bảo mức chi tiết để có thể quản lý trang trại ở tất cả các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh và các khía cạnh xã hội môi trường. - Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại: cấp giấy chứng nhận trang trại là để hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp đạt tiêu chí trang trại được cấp giấy chứng nhận sẽ được hưởng đầy đủ các chính sách theo quy định hiện hành của Nhà nước và giao dịch với ngân hàng, các tổ chức, cá nhân cung cấp đầu vào, tiêu thụ sản phẩm của trang trại được thuận lợi. Việc cấp giấy cũng cần có thủ tục đơn giản hơn không chỉ đối với trang trại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà còn đối với trang trại có đất thuê, đất được cấp hoặc đấu thầu còn thời hạn trên 10 năm khi hết thời hạn thuê, giao, đấu thầu đất nếu không được tiếp tục gia hạn thì cũng thu hồi giấy chứng nhận trang trại. Việc cấp giấy chứng nhận trang trại đến nay vẫn còn nhiều tồn tại và tỷ lệ trang trại được cấp giấy đạt chưa cao (mới chỉ đạt 42,43%), nguyên nhân là vì: nhiều người hiểu sai về việc cấp giấy (cho rằng để hợp thức hoá đất đai ...) và không gắn với lợi ích trang trại. Do đó, cần tuyên truyền sâu rộng ý nghĩa và mục đích thực của việc cấp giấy này, đó là tăng cường quản lý nhà nước đối với trang trại (quản lý ở đây phải hiểu và nắm vững những hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại để có điều kiện hỗ trợ, uốn nắn ... theo hướng có lợi cho trang trại và xã hội) và để trang trại có sự công nhận về mặt nhà nước về một loại hình sản xuất cao hơn hộ gia đình nhưng chưa có tư cách pháp lý như một doanh nghiệp. PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 KẾT LUẬN Thực hiện đường lối kinh tế đổi mới của Đảng và Nhà nước, kết quả sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định. Kinh tế hộ nông dân từng bước thoát khỏi tình trạng sản xuất tự cấp tự túc, vươn lên thành hộ sản xuất hàng hoá nhỏ và chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá lớn đó là mô hình kinh tế trang trại Sau 9 năm đi vào hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 03/CP, kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển trên ở hầu hết các địa phương trên địa bàn thị xã. Tăng nhanh về số lượng, loại hình sản xuất đa dạng đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn và đang tỏ ra là đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp phù hợp, có hiệu quả. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực trong việc tham gia vào khai hoang, phục hoá vùng đất trống, đồi núi trọc, trở thành vùng kinh tế trù phú, góp phần bảo vệ môi trường, làm tăng và giầu tài nguyên rừng. Hơn nữa, kinh tế trang trại còn là mô hình huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả, cũng như đi đầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tính đến năm 2007, toàn thị xã có 109 trang trại (chiếm 3,32% số trang trại trong tỉnh), tăng 19 trang trại (+21,1%) so với năm 2005, bình quân hàng năm giai đoạn 2005-2007 tăng 10,1%/năm. Nét nổi bật trong phát triển kinh tế trang trại của thị xã là, loại hình sản xuất ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây lâu năm; nuôi trồng thủy sản và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi, trang trại SXKD tổng hợp và trồng cây hàng năm. Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn. Kết quả điều tra cho thấy, các trang trại đã tạo việc làm thường xuyên bình quân cho 3,5 lao động/trang trại. Thu nhập bình quân một lao động gia đình của trang trại là 19,41 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, lao động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông. Tỷ lệ chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên có xu hướng giảm, chỉ chiếm 15,79%. Qui mô vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ trang trại tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi. Tính đến năm 2007, vốn sản xuất, kinh doanh bình quân một trang trại đạt 145,0 triệu đồng; cao nhất là loại hình trang trại SXKD tổng hợp BQ đạt 262,5 triệu đồng; tiếp đến là trang trại chăn nuôi đạt 171,8 triệu đồng và thấp nhất là trang trại trồng cây lâu năm 83,5 riệu đồng. Hiệu quả trên một đồng chi phí trung gian sẽ tạo ra 2,98 đồng giá trị sản xuất; 1,48 đồng giá trị tăng thêm và 0,96 đồng thu nhập hỗn hợp. Bình quân 1ha đất canh tác sẽ đem lại thu nhập là 9,39 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân một trang trại đạt 42,71 triệu đồng/năm. Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, gắn với thị trường. Giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bán ra năm 2007, bình quân một trang trại bán ra thị trường 101,91 triệu đồng; tỷ suất hàng hoá đạt 92,75%. Mô hình trang trại có tỷ suất hàng hoá cao nhất là trang trại nuôi trồng thuỷ sản 94,58%, tiếp đến trang trại chăn nuôi 92,64% và thấp nhất là trang trại lâm nghiệp 87,99%. Tiềm năng để phát triển trang trại của Bỉm Sơn còn rất lớn. Tuy nhiên, trong những năm qua việc phát triển kinh tế trang trại chưa tương xứng với tiềm năng của thị xã mà nguyên nhân chủ yếu ở đây là vì nhiều nơi mang tính tự phát, thiếu qui hoạch, cơ sở hạ tầng còn khó khắn, thiếu vốn, lao động không có chuyên môn chiếm đa số, dịch bệnh, thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra luôn có biến động lớn, công tác quản lý yếu kém…. 5.2 KIẾN NGHỊ Đối với Nhà nước Về đất đai: tiếp tục xem xét, căn cứ vào Qui hoạch của thị xã; trên cơ sở đó để cấp giấy CNQSDĐ. Những hộ nông dân phát triển kinh tế trên vùng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, vùng chiêm trũng cần phải có chính sách cụ thể để khuyến khích nhằm khai thác hết tiềm năng đất đai của từng xã, phường. Tiếp tục qui hoạch, hoặc qui hoạch lại những vùng sản xuất hàng hoá tập trung qui mô lớn, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi thành những khu xa nơi dân sinh, nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trường; từ đó có chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản qui mô lớn và qui mô nhỏ cấp hộ, HTX, cũng như ưu tiên đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước cần có chiến lược nâng cao chất lượng, hạ giá thành những nông sản là hàng hoá mũi nhọn có xu hướng xuất khẩu như tôm, lợn, cói… để tăng khả năng cạnh tranh và vị thế trên thị trường, nhất là thị trường nước ngoài. Hỗ trợ cho trang trại, đặc biệt là những trang trại có qui mô lớn được ứng dụng các máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nông nghiệp để giảm nhẹ lao động chân tay và tăng năng suất lao động dưới hình thức trợ giá, vay không lãi, trả góp không lãi để các trang trại đầu tư mua sắm đưa vào sản xuất. Cùng với việc phát triển kinh tế trang trại cần tạo sự liên kết “4 nhà” và tạo điều kiện cho kinh tế HTX, doanh nghiệp nông nghiệp hình thành và phát triển để làm tốt dịch vụ đầu vào, đầu ra, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho kinh tế trang trại đi vào sản xuất chuyên sâu. Hỗ trợ trang trại đào tạo kiến thức chuyên môn cho chủ trang trại, cũng như lao động thường xuyên làm trong các trang trại. Cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại, theo hướng tạo mọi điều kiện thuận lợi để các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với địa phương. Hàng năm các địa phương phải tổ chức sơ kết đánh giá về phát triển kinh tế trang trại; đặc biệt là nêu cao tấm gương, hộ trang trại tiêu biểu để dần nhân rộng trong nhân dân. Đối với chủ trang trại Chủ trang trại phải tự ý thức được việc phát triển kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá với qui mô lớn, để từ đó có những kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với khả năng của trang trại mình xem có phù hợp với nhu cầu của thị trường cũng như đúng với quy hoạch của địa phương không. Chủ trang trại phải mạnh dạn, năng động, sáng tạo, không ngừng đổi mới, vượt qua những khó khăn, chịu khó học hỏi kinh nghiệm và các kiến thức khoa học kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là phải có khả năng và ý chí làm giàu hơn những người khác trong những điều kiện cho phép. Bên cạnh đó, cần phải ý thức gìn giữ môi trường sinh thái trong sạch để hướng tới một nền nông nghiệp sản xuất nông sản sạch, an toàn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII), Nghị quyết số 05 -NQ/HNTW ngày 10/6/1993, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW ngày 29/12/1997, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IV, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Nghị quyết số 05 - NQ/HNTW ngày 17/10/1998, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 4. Ban chỉ đạo tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo sơ bộ kết quả TĐT Nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2006, Thanh Hoá. 5. Ban vật giá Chính phủ (2000), Tư liệu về kinh tế trang trại, NXB TP Hồ Chí Minh. 6. Ban chỉ đạo Trung ương (2006), Báo cáo sơ bộ kết quả TĐT Nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2006, Hà Nội. 7. Bộ Chính trị (1988), Nghị quyết 10 - NQ/TW ngày 05 tháng 4 năm 1988 về đổi mới quản lý nông nghiệp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2003), Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 về sửa đổi, bổ sung mục III của Thông tư 69/2000/TTLT-BNN-TCTK. 9. Chính phủ (1999), Nghị định số 163/1999/NĐ - CP ngày 16/11/1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp, cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất lâm nghiệp. 10. Chính phủ (2000), Nghị quyết 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại. 11. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (2004), Thanh Hoá thế và lực mới trong thế kỉ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Mai Thanh Cúc, Quyền Đình Hà và các cộng sự (2005), Giáo trình Phát triển Nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Cục Thống kê Thanh Hoá (2007), Niên giám Thống kê 2001 - 2007, NXB Thống kê, Hà Nội. 14. Phòng Thống kê Bỉm Sơn (2008), Niên giám Thống kê 2005-2007, Bỉm Sơn 3/2008 15. Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung (1997), Kinh tế Nông nghiệp, NXB Nông nghiệp. 16. Bùi Thị Gia (2006), Bài giảng Kinh tế hộ nông dân, Hà Nội. 17. Học viện Nguyễn Ái Quốc (1992), Kinh tế học về tổ chức phát triển nền kinh tế quốc dân, NXB Thông tin văn hoá, Hà Nội, trang 18-22. 18. Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và những giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH - HĐH ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT và Tổng Cục Thống kê (2000), Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT-BNN - TCTK ngày 23/6/2000 về hướng dẫn tiêu chí xác định kinh tế trang trại. 20. Luật đất đai 2003 (2004), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Trần Trác (2000), Mấy ý kiến về xác định rõ khái niệm và tiêu chí để có chính sách đối với kinh tế trang trại, Báo nhân dân số ra ngày 25/5/2000. 22. Tổng cục Thống kê (2003), Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001, NXB Thống kê, Hà Nội. 23. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám Thống kê từ 2000 đến 2004, NXB Thống kê, Hà Nội. 24. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2007), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 02/6/1999 về khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. 25. Trung tâm từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1), Hà Nội. 26. Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh (1999), Kinh tế trang trại ở Nam Bộ, Hội thảo khoa học trường ĐH KT TP HCM. 27. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1999), Báo cáo thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH - HĐH, Hội thảo Trường ĐHKTQD, Hà Nội. 28. UBND thị xã Bỉm Sơn (2006), Báo cáo Quy hoạch Tổng thể phát triển kinh tế xã hội Bỉm Sơn đến 2015 và định hướng đến năm 2020. 29. UBND tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo kiểm kê đất đai 1/1/2005 tỉnh Thanh Hoá. 30. Viện kinh tế và Phát triển (2007), Giáo trình kinh tế học phát triển, NXB lý luận Chính .trị Hà Nội. 31. Viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp (2006), Báo cáo tổng hợp trang trại tư nhân qui mô lớn và đề xuất các giải pháp chủ yếu phát triển chúng, Hà Nội. 32. Hoàng Việt (2000), Một số ý kiến bước đầu về lý luận kinh tế trang trại, Báo nhân dân số ra ngày 6/4/2000. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong báo cáo tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện báo cáo tốt nghiệp này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo tốt nghiệp này đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả Nguyễn Thị Hồng LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của các tổ chức và cá nhân. Trước hết, cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến: Thầy giáo Th.S. Lê Khắc Bộ, người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành báo cáo tốt nghiệp. Phòng Thống kê, Phòng Nông nghiệp, UBND thị xã Bỉm Sơn, đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực tập tốt nghiệp và thu thập các thông tin có liên quan về kinh tế trang trại trên địa bàn. Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Khoa Kinh tế & PTNT, bộ môn Phân tích định lượng, cùng toàn thể Quý thầy cô giáo trong nhà trường đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các chủ trang trại đã giúp tôi trong việc thu thập số liệu, các nhà khoa học, bạn bè đồng nghiệp, gia đình, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành báo cáotốt nghiệp này. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Nguyễn Thị Hồng MỤC LỤC Trang Lời cam đoan.......................................................................................................i Lời cảm ơn.........................................................................................................ii Mục lục.............................................................................................................iii Danh mục các chữ viết tắt..................................................................................v Danh mục các bảng tính....................................................................................vi Danh mục các biểu đồ, đồ thị, .........................................................................vii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQ Bình quân CC Cơ cấu CMKT Chuyên môn kỹ thuật CNH - HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CP Chính phủ ĐVT Đơn vị tính GO Giá trị sản xuất GTSPHH Giá trị sản phẩm hàng hoá bán ra IC Chi phí trung gian KT - XH Kinh tế xã hội KTTT Kinh tế trang trại LĐ Lao động MI Thu nhập hỗn hợp PTNT Phát triển nông thôn SL Số lượng SXKD Sản xuất kinh doanh TW Trung ương VA Giá trị gia tăng DANH MỤC CÁC BẢNG TÍNH TT Tên bảng Trang 1. Bảng 2.1. Số lượng trang trại phân theo loại hình sản xuất ở Việt Nam 29 2. Bảng 2.2. Số lượng trang trại phân theo các vùng kinh tế ở Việt Nam 31 3. Bảng 3.1. Tình hình sử dụng đất ở Bỉm Sơn qua các năm 39 4. Bảng 3.2. Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu của Bỉm Sơn qua các năm 42 5. Bảng 3.3. Giá trị sản xuất, GTGT và cơ cấu kinh tế ở Bỉm Sơn qua các năm 44 6. Bảng 3.4. Một số chỉ tiêu về nông nghiệp ở Bỉm Sơn qua các năm 45 7. Bảng 4.1. Số lượng các loại hình trang trại của thị xã biến động qua các năm 54 8. Bảng 4.2. Tình hình sử dụng đất bình quân của 1 trang trại năm 2007 56 9. Bảng 4.3. Tình hình sử dụng lao động BQ của 1 trang trại năm 2007 58 10. Bảng 4.4. Tình hình máy móc, thiết bị chủ yếu bình quân 1 trang trại 59 11. Bảng 4.5. Vốn sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại 60 12. Bảng 4.6. Giá trị sản xuất bình quân của 1 trang trại năm 2007 62 13. Bảng 4.7. Chi phí, giá trị tăng thêm và thu nhập BQ/ trang trại năm 2007 64 14. Bảng 4.8. Trang trại phân theo qui mô giá trị sản phẩm hàng hoá bán ra 65 15. Bảng 4.9. Giá trị sản phẩm hàng hoá BQ/trang trại và tỷ suất hàng hoá từ ngành nông, lâm, thuỷ sản năm 2007 ..65 16. Bảng 4.10. Một số chỉ tiêu về hiệu quả SX kinh doanh của trang trại năm 2007 69 17. Bảng 4.11. Những khó khăn của chủ trang trại cần được giải quyết 73 18. Bảng 4.12. Dự báo phát triển kinh tế trang trại của thị xã đến năm 2010 81 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ TT Tên biểu đồ, đồ thị Trang Biểu đồ 1. Biểu đồ 2.1. Cơ cấu các loại hình trang trại ở Việt Nam 30 2. Biểu đồ 2.2. Cơ cấu trang trại phân theo vùng kinh tế ở Việt Nam 30 3. Biểu đồ 3.1 Cơ cấu sử dụng đất của thị xã Bỉm Sơn biến động qua các năm 41 4. Biểu đồ 3.2. Cơ cấu kinh tế thị xã Bỉm Sơn qua các năm 43 5. Biểu đồ 4.1. Cơ cấu loại hình trang trại của thị xã Bỉm Sơn qua các năm 55 6. Biểu đồ 4.2. Cơ cấu vốn của các loại hình trang trại đến năm 2007 61 7. Biểu đồ 4.3. Cơ cấu giá trị sản xuất của các loại hình trang trại năm 2007 63 II. Đồ thị 1. Đồ thị 2.1. Xu hướng phát triển trang trại ở Việt Nam qua các năm 32 2. Đồ thị 4.1. Dự báo xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở Bỉm Sơn đến 2010 82

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbctn_ve_kinh_te_trang_trai_bim_sonn_7651.doc
Luận văn liên quan