Luận văn Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách và luật pháp còn khập khi ễng và ch ưa đồng bộ, ngu ồn nhân lực có tr ì nh độ th ấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghi ệp rất h ạn chế ngay cả tr ên thị tr ường nội đị a. H ầu hết c ác công ty bảo hiểm và các ng ân hàng Việt Nam chưa có đủ kh ả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên th ị trường tự do, chứ chưa n ói đến vi ệc mở r ộng thị tr ường ra bên ngoài. Do đó, Vi ệt Nam s ẽ ph ải đối mặt v ới r ất nhi ều khó kh ăn n ếu muốn đảm bảo được mục ti êu phát tri ển nội l ực, bảo vệ th ị tr ường nội đị a trước áp lực ng ày càng t ăng của h ội nh ập quốc t ế, đồng th ời m ở r ộng th ị tr ường hơn khi thực hi ện đầy đủ các q uy chế của AFTA, APEC và WTO trong giai đoạn tới. - Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó.

pdf111 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến cuối năm 1997 do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đôla Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do nền kinh tế vững cộng thêm chính sách kinh tế của Chính phủ có hiệu quả, Singapore được đánh giá là nước phục hồi nhanh và mạnh nhất khu vực, năm 1999 tăng trưởng đạt 5,5%, xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 382 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế năm 2000 đạt trên 9%. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, Singapore đang tập trung khai thác triệt để công nghệ thông tin để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thu nhập tính theo đầu người: 24.000 USD/người/năm, đứng thứ 2 ở Châu Á sau Nhật Bản. 23 Singapore cũng đã áp dụng những biện pháp tích cực trong việc phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng.  Đối với dịch vụ bảo hiểm. - Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) là cơ quan quản lý độc lập đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cho phép tự do tiếp cận thị trường bảo hiểm trực tiếp thông qua: + Bãi bỏ hạn chế phần vốn góp nước ngoài là 49%; + Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường; + Tháng 8/1999, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành lập các chi nhánh tại Singapore và cho phép các nhà bảo hiểm và tái bảo hiểm đa ngành tham gia vào kinh doanh bảo hiểm bảo lãnh tài chính. - 78 - - Dành NT cho các doanh nghiệp nước ngoài trong hầu hết các hoạt động kinh tế; - Kể từ tháng 10/1997, quy định tăng vốn thành lập doanh nghiệp tối thiểu là 25 triệu Đô la Singapore đối với bảo hiểm trực tiếp và tái bảo hiểm và 400.000 Đô la Singapore đối với bảo hiểm phụ thuộc. Nhà đầu tư phải đặt cọc (ký quỹ) tại ngân hàng của Singapore ít nhất 500.000 Đô la Singapore đối với mỗi loại hình hoạt động kinh doanh là bảo hiểm trực tiếp, tái bảo hiểm hay bảo hiểm phụ thuộc. Tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phải định kỳ trình báo cáo tài chính cho MAS phê duyệt. - Áp dụng mức thuế ưu đãi là 10% đối với thu nhập của các công ty bảo hiểm từ kinh doanh bảo hiểm ngoài lãnh thổ. - MAS đã thực hiện các biện pháp minh bạch hoá thị trường bảo hiểm như sau: + Đưa ra Các tiêu chuẩn Quản lý Công ty phù hợp với các Thực tiễn Quốc tế Tốt nhất (international best practices); + Uỷ ban về Phân phối Hiệu quả Bảo hiểm Nhân thọ được thành lập tháng 3/2000 đã đề xuất nâng cao chất lượng quy trình tư vấn bán hàng, quảng bá sản phẩm, và các yêu cầu đào tạo chuyên môn cho các nhà trung gian bảo hiểm; + MAS đã tiến hành xây dựng 1 khuôn khổ pháp lý đối với các Nhà tư vấn Tài chính Độc lập (IFAs) trong hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ  Đối với dịch vụ ngân hàng Hệ thống ngân hàng của Singapore có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt trên 80% tài sản của các ngân hàng trong nước đều thuộc quyền kiểm soát của 4 ngân hàng lớn nhất là: Development Bank of Singapore. Overseas Chinese banking Corporation, Overseas Union Bank và United Overseas bank. - 79 - - Về chính sách mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mỗi ngân hàng chỉ được mở 1 chi nhánh độc lập và được hoạt động một số nghiệp vụ cũng như tất cả các nghiệp vụ ngân hàng. Thời gian qua, vẫn cấp giấy phép mới nhưng chủ yếu chỉ cấp giấy phép hoạt động ngân hàng hạn chế, ngân hàng hải ngoại hoat động bằng ngoại tệ với đối tượng khách hàng chủ yếu là người không cư trú. - Mức vốn được cấp ban đầu: lúc đầu là 6 triệu đô la Singapore, tương đương 3,7 triệu USD; năm 1993 có Luật Ngân hàng sửa đổi, trong đó quy định 200 triệu đô la Singapore - Về nội dung và phạm vi hoạt động của Ngân hàng nước ngoài, Singapore quy định 3 loại giấy phép khác nhau: Giấy phép hoạt động tất cả các nghiệp vụ NHTM (giấy phép đầy đủ) ; giấy phép hoạt động ngân hàng hạn chế; giấy phép hoạt động ngân hàng hải ngoại (offshore banking). 3.1.3 Các bài học kinh nghiệm rút ra 3.1.3.1 Kinh nghiệm tổ chức quản lí Về tổ chức quản lí nhà nước, hiện nay chúng ta có ngân hàng nhà nước quản lí dịch vụ ngân hàng, còn bảo hiểm chịu sự quản lí của 3 hệ thống cơ quan quản lí nhà nước về bảo hiểm: Cơ quan bảo hiểm Việt nam quản lí bảo hiểm xã hội, Bộ y tế quản lí bảo hiểm y tế và Vụ Bảo hiểm Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sự phân tách này tạo ra một sự không thống nhất, đôi khi chồng chéo và phức tạp trong hoạt động quản lí. Như vậy, ngành ngân hàng thì đã rõ rồi, nhưng đối với hoạt động bảo hiểm, nên chăng chỉ cần duy trì 2 cơ quan quản lí là đủ, ví dụ: cơ quan bảo hiểm Việt Nam quản lí cả hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, Vụ bảo hiểm Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoặc tiến tới hình thành một cơ quan quản lí độc lập hoạt động bảo hiểm như trường hợp Singapore. - 80 - 3.1.3.2 Cần tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài Việt nam cần thấy được tầm quan trọng của việc tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài, loại bỏ dần những quy định mang tính phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp kinh doanh dich vụ trong nước và nước ngoài. Đối chiếu với Thái Lan và Singapore, có thể thấy thị truờng dịch vụ tài chính của ta còn duy trì nhiều hạn chế về tiếp cận thị truờng và đãi ngộ quốc gia, cụ thể: - Thứ nhất, Việt Nam hạn chế phương thức 1 và 2: Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam, trừ các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chưa cung cấp được (Điều 6 - Luật kinh doanh bảo hiểm); Không được phép tái bảo hiểm toàn bộ trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nếu tái bảo hiểm bắt buộc, doanh nghiệp phải tái bảo hiểm theo tỷ lệ 20% trách nhiệm cho Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Điều 9 - Luật kinh doanh bảo hiểm và Điều 22 - Nghị định 42); Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động của mình tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam (Điều 92 - Luật kinh doanh bảo hiểm). Trên thực tế, Thái Lan và Singapore đã gần như loại bỏ toàn bộ các hạn chế này để đa dạng hoá sản phẩm cho người tiêu dùng. Hay đối với dịch vụ ngân hàng, pháp luật về ngân hàng Việt Nam hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải chịu một số hạn chế nhất định, trong khi đó cả Thái Lan và Singapore đều hầu như không hạn chế đối với các hình thức dịch vụ ngân hàng. - 81 - - Thứ hai, về phương thức 3, khác với Thái Lan và Singapore, Việt Nam chưa cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam. Còn ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW nhưng không được mở chi nhánh phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã có chi nhánh, ngân hàng nước ngoài không được đặt văn phòng đại diện. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch dưới bất kỳ hình thức nào ngoài trụ sở chi nhánh của mình Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được thực hiện một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng, theo quy định cụ thể của Ngân hàng nhà nước quy định trong giấy phép, phù hợp với loại hình và quy mô của TCTD được cấp giấy phép. Tóm lại, hoạt động ngân hàng vẫn dưới sự giám sát quản lí của nhà nước. - Thứ ba, về phương thức 4, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa chấp nhận việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ nói chung gồm cả dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung cấp dịch vụ nước ngoài và còn quy định khắt khe hơn hai nước Thái Lan và Singapore ở chỗ : Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ cho phép các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh thuê và sử dụng các chuyên gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi công việc yêu cầu chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được vào làm việc tại Việt Nam phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp. Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất cho lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Các thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng, và xác minh lý lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thường rất phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài. - 82 - 3.1.3.3 Đàm phán mở cửa thị trường cần được thực hiện theo phương châm “từng bước và thận trọng, đồng thời đẩy nhanh tự do hoá khi cần thiết” Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam trong lĩnh vực bảo hiểm và ngân hàng đã có những bước tiến cụ thể. Đó là, Việt nam đã tham gia Diễn đàn các cơ quan quản lí bảo hiểm ASEAN, tham gia Hiệp hội các cơ quan quản lí bảo hiểm quốc tế IAIS, là thành viên của tổ chức thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT… Việt nam cũng đã kí kết và đang thực hiện Hiệp định thương mại Viêt Nam - Hoa Kỳ. Đây là một bước tiến quan trọng, mở đầu cho quá trình thực hiện các cam kết quốc tế cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cho nước ngoài, là cơ sở cho quá trình đàm phán gia nhập WTO. Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính là một công cụ hữu hiệu để thu hút vốn, công nghệ, trình độ quản lí và chuyên môn tiên tiến từ nước ngoài. Do đó việc đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cần “từng bước và thận trọng” như Thái Lan (chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh tại Thái Lan và chi nhánh đó không được tiến hành kinh doanh hoạt động môi giới và đại lí bảo hiểm) cho doanh nghiệp trong nước có thời gian đủ dài để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng cần đẩy nhanh tự do hoá theo kinh nghiệm của Thái Lan (tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước năm 2020) 3.1.3.4 Cần mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Hiện nay ta duy trì một số hạn chế như: Doanh nghiệp bảo hiểm không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm - 83 - phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tại nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ (Điều 60 - Luật kinh doanh bảo hiểm). Trong khi đó, cả Thái Lan và Singapore đều cho phép doanh nghiệp kinh doanh cả 2 loại nghiệp vụ này, gọi là bảo hiểm hỗn hợp. Tất nhiên việc cho phép này sẽ gây khó khăn nhất định cho công tác giám sát tài chính của doanh nghiệp nhưng thực tế lâu nay tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã thực hiện cả hai nghiệp vụ này. Những chính sách hạn chế và kinh nghiệm của 2 nước Thái Lan và Singapore trong việc phát triển, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, điển hình là dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng được mô tả ở như trên đã cho ta thấy những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa để có thể có được chính sách đúng đắn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong giai đoạn hiện nay. Bởi vậy, đứng trước những yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường dịch vụ tài chính phải có những bước tiến mới để phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 3.2 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP 3.2.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ bảo hiểm 3.2.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo hiểm Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội tại một bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Vai trò của toàn cầu hoá đã được khẳng định và đã trở thành một xu thế tất yếu đối với mọi nền kinh tế. Việc mở của thị trường tài chính trong đó có bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập WTO. Nhận thức được vai trò của hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra một số quan điểm định hướng cho việc - 84 - xây dựng đường lối phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới: • Thứ nhất, thị trƣờng bảo hiểm Việt nam phải đáp ứng đƣợc những đòi hỏi của nền kinh tế tức là phát triển thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm phải phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất n- ƣớc. Nhà nước đã đặt ra nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khá cao cho giai đoạn 2001 - 2010 như: nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm là 7,5%, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp tăng 4,8%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13%/năm, giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm..., và GDP của năm 2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 19 .Để thị trường bảo hiểm Việt Nam có thể đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam cũng như tác động vào nền kinh tế bằng nguồn vốn đầu tư nhàn rỗi và là tấm lá chắn cho nền kinh tế bằng bồi thường cho những rủi ro tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm thì ngành bảo hiểm cần phải có sự cố gắng về mọi mặt và đặc biệt phải có định hướng chiến lược phát triển đúng đắn và tư- ơng đối lâu dài. • Thứ hai, trên khía cạnh toàn cầu hoá, thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Trên thực tế từ năm 1994 khi NĐ100/CP ra đời thì số lượng các công ty bảo hiểm cũng tăng lên nhanh chóng và có mặt của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tuy mới ra đời từ năm 1996 thì đến nay cũng đã có thêm bốn công ty chủ yếu là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty Chingfong Manulife, Bảo Minh CMG, Prudential và Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA). Và trong tương lai chắc chắn thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ có sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài khác. • Thứ ba là mở rộng thị trƣờng khai thác và đa dạng hoá sản phẩm. - 85 - Mục tiêu mà ngành bảo hiểm Việt Nam cần phấn đấu là phải nâng tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP từ 1.3%GDP như hiện nay lên đến 2% vào những năm 2005 - 2010, để vừa tăng khả năng đáp ứng cho các rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong nền kinh tế vừa tạo nguồn vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế tham gia và thúc đẩy quá trình hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay thị trường bảo hiểm nói chung hầu như chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,...Trong khi tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm ở các tỉnh và thành phố khác là khá lớn nhưng vẫn chưa được khai thác triệt để. Trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm ở các thành phố lớn gần như đã bão hoà, các công ty bảo hiểm có động thái bắt đầu mở rộng khai thác ở các tỉnh và thành phố khác. Thị trường tập trung chủ yếu vào một số tỉnh vùng đồng bằng có mức sống trung bình khá so với cả nước. Đa dạng hoá sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị trư- ờng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm khá đa dạng nhưng vẫn còn thiếu một số sản phẩm đặc trưng. Giá cả sản phẩm còn chưa phù hợp đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động triển khai bán hàng của các công ty. Việc đa dạng hoá sản phẩm, chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là xu hướng tất yếu của các công ty để phát triển. • Cuối cùng, cạnh tranh trong trong xu thế hợp tác là xu thế phát triển chung của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn mới. Cạnh tranh là tất yếu xảy ra với bất kỳ một thị trường nào. Cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí bảo hiểm nhằm lôi kéo khách hàng, mở rộng điều kiện bảo hiểm vô hạn, quảng cáo tràn lan đều không mang lại lợi ích lâu dài mà chỉ làm tình hình thị trường thêm tồi tệ đi, gây nguy hiểm cho cả công ty và khách hàng. Nhất là trong thời gian tới khi - 86 - mà thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp nhận thêm một số công ty bảo hiểm với tiềm lực kinh tế mạnh thì cạnh tranh kiểu đó sẽ tự đưa mình đến chỗ phá sản. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cũng đã được thành lập ngày 19/12/1999 nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các công ty bảo hiểm và hạn chế sự cạnh tranh tiêu cực. Trong thời gian tới Hiệp hội sẽ có những biện pháp nhằm hạn chế tối đa sự cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy thị tr- ường bảo hiểm Việt Nam phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. 3.2.1.2 Các định hướng chủ yếu Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro bảo hiểm không giới hạn trong phạm vi một nước, các doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện liên kết đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm để phân tán rủi ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy, thị trường bảo hiểm các nước chịu sự tác động lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau. Hơn nữa, theo yêu cầu thực hiện những cam kết trong quan hệ thương mại song phương và đa phương của việt nam với các nước trong khối ASEAN, EU, Hoa Kỳ, tiến tới thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt nam gia nhập WTO, việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm đòi hỏi thị trường bảo hiểm phải tăng năng lực cạnh tranh, phát triển phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các hướng sau: - Xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu tố của thị trường, tăng tỷ trọng hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên tổng giá trị dịch vụ nói riêng và GDP nói chung, thực hiện chức năng bảo hiểm là công cụ để bảo vệ nền kinh tế trước các nguy cơ rủi ro và là công cụ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm trong 10 năm tới. - 87 - - Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng tài chính vững mạnh, năng lực kinh doanh và công nghệ quản lí được hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ làm công tác trong ngành bảo hiểm có trình độ đủ đáp ứng nhu cầu cạnh tranh hội nhập. - Người dân có điều kiện tiếp cận các loại sản phẩm bảo hiểm với chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ khả năng cung cấp các loại sản phẩm phục vụ các nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các chương trình bảo hiểm phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ dài hạn theo hướng phát huy nội lực, chủ động thu hút ngoại lực. - Quản lí, giám sát phải được thực hiện dựa trên hệ thống các chỉ tiêu quản lí và chỉ tiêu tài chính khách quan, phù hợp với yêu cầu, thực tiễn kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các ngyên tắc, chuẩn mực quốc tế ; công nghệ quản lí, giám sát được hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ quản lí có đủ tri thức và năng lực quản lí bảo đảm thị trường bảo hiểm hoạt động an toàn, có hiệu quả. 3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm Trong những năm tới, thị trường bảo hiểm Việt nam đứng trước các cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, đó là: Nhà nước quan tâm hơn đến việc khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm bằng việc ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định có liên quan; Nền kinh tế nước ta đang hồi phục và bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định và phát triển với tốc độ cao, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tạo nguồn tài chính cho việc tham gia bảo hiểm ; đồng thời, nhận thức của trong nhân dân và các doanh nghiệp, các tổ chức Việt nam về mục đích, ý nghĩa của bảo hiểm ngày càng tăng ; môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm từng bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng như từng bước thiết lập một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành - 88 - mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó thị trường bảo hiểm trong thời gian tới cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, bao gồm: Tác động tiêu cực của tiến trình tự do hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập về kinh tế và tác động của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sau khi được phê chuẩn và có hiệu lực, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam nhất là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần nội địa phải đối mặt trực tiếp với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn rất nhiều lần; sự biến động nhanh của môi trường kinh doanh và yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế tri thức đối với các doanh nghiệp. Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, củng cố vai trò của thị trường bảo hiểm trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, chúng ta cần thực hiện ngay các giải pháp nhằm khắc phục những điểm yếu, những tồn tại hiện nay và chuẩn bị tốt để đối phó với những khó khăn, thách thức sắp tới, nhất là thách thức của hội nhập và toàn cầu hoá.  Giải pháp thứ nhất: Xây dựng chiến lƣợc phát triển và các chính sách hữu hiệu hỗ trợ sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm: - Đối với chính sách hội nhập, để từng bước thực hiện của tiến trình hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm, cần xác định rõ số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm hợp lý trên thị trường cho từng thời kỳ, nhất là số lượng các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đủ mạnh để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh. Thực hiện mở cửa từng bước các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong từng giai đoạn có thể giới hạn lĩnh vực bảo hiểm mà các doanh nghiệp có vốn nước ngoài được phép hoạt động. - Để nâng cao trình độ của bảo hiểm Việt nam và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, cần ban hành chính sách hướng các công ty bảo hiểm nước ngoài vào việc triển khai loại hình bảo hiểm đòi hỏi vốn lớn và công nghệ - 89 - bảo hiểm cao mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam chưa đáp ứng được. - Củng cố vai trò của doanh nghiệp Nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế chủ đạo thông qua việc tập trung thành lập một tập đoàn kinh doanh tài chính - bảo hiểm tổng hợp, có đủ vốn và khả năng đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, có khả năng chấp nhận bảo hiểm với mức trách nhiệm cao, mức giữ lại cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm quốc tế. - Tách chức năng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội của doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước khỏi chức năng kinh doanh. (Chẳng hạn, đối với lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước có thể thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp công ích, như vậy sẽ có doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước chỉ thực hiện chức năng kinh doanh; có doanh nghiệp chỉ thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội-các doanh nghiệp bảo hiểm công ích).  Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm tạo khung pháp lý và môi trƣờng kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm - Cụ thể, hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với tập quán kinh doanh bảo hiểm quốc tế về kinh doanh bảo hiểm, điều kiện thực tiễn Việt nam và mục tiêu, định hướng của Nhà nước về phát triển thị trường bảo hiểm. Các quy định pháp luật cần tạo ra sự bình đẳng theo hướng các doanh nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực thì được hưởng những quyền và chịu nghĩa vụ pháp luật như nhau, xoá bỏ những quy định quản lý bất lợi đối với các doanh nghiệp nhà nước. - Song song với việc xây dựng và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát - 90 - hữu hiệu đối với việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm xác lập và duy trì một thị trường bảo hiểm Việt nam cạnh tranh lành mạnh, tạo tiền đề cho sự phát triển.  Giải pháp thứ ba: Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, nâng cao chất lƣợng phục vụ khách hàng; đa dạng hoá kênh phân phối. - Các doanh nghiệp bảo hiểm đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình dịch vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của thị trường về bảo hiểm. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh nghiệp cần chú trọng khai thác đến thị trường là các hộ gia đình, có tiềm năng lớn nhưng hiện nay mới chỉ bắt đầu khai thác; phát triển và tăng cường khai thác các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong bảo hiểm nhân thọ, cần phát triển thêm các sản phẩm mới như các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp có số tiền trả nhiều lần, thời hạn bảo hiểm dài hơn cũng như các sản phẩm hỗ trợ như bảo hiểm bệnh đặc biệt, bảo hiểm bệnh người lớn, bảo hiểm bệnh phụ nữ… Đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phát triển và cung cấp dịch vụ theo hướng cung cấp dịch vụ tổng hợp, đó là dịch vụ bảo hiểm kết hợp với các dịch vụ tài chính hoặc các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, tư vấn tiêu dùng, tư vấn y tế, tư vấn luật... - Cùng với việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đẩy mạnh đa dạng hoá kênh phân phối như phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp, hợp tác với các ngân hàng, các tổ chức tài chính để bán các sản phẩm bảo hiểm, bán bảo hiểm qua internet, qua thư trực tiếp...  Giải pháp thứ tƣ: Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng trình độ nghiệp vụ, phong cách phục vụ, đạo đức nghề nghiệp và thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý làm bảo hiểm; kiện toàn cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa. - 91 - - Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phong cách, tác phong phục vụ cho các cán bộ, đại lý làm bảo hiểm cũng cần được các doanh nghiệp bảo hiểm coi trọng nhằm xoá bỏ các hiện tượng như ăn chặn tiền bảo hiểm của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, thái độ quan liêu, hách dịch, vì lợi ích của bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách hàng... - Các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước cần thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, trong đó phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các phòng, bộ phận chức năng cũng như mỗi cá nhân theo hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân nhằm kích thích sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cũng như sự phối hợp công tác của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân. Đồng thời, cần hoàn thiện chế độ phân phối tiền lương, khen thưởng trên cơ sỏ các căn cứ cơ bản là đóng góp, mức độ phức tạp của công việc và năng lực của mỗi cá nhân. Đối với các cấp lãnh đạo phòng, ban và cả lãnh đạo doanh nghiệp, cần thực hiện cơ chế bầu hoặc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ nhằm tăng cường tính năng động, thi đua tích cực cũng như trách nhiệm của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp.  Giải pháp thứ năm: Tăng cƣờng các biện pháp hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc; nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam; nâng cao uy tín và hình ảnh của thị trƣờng bảo hiểm Việt nam. - Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam cần tăng cường hợp tác để phát triển và khai thác thị trường bảo hiểm nội địa trong các lĩnh vực như đào tạo thị trường, khai thác bảo hiểm, duy trì mức phí bảo hiểm tối thiểu, phòng chống trục lợi bảo hiểm, học tập kinh nghiệm, tạo nguồn cán bộ bảo hiểm. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm trong các lĩnh vực hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nêu trên. - 92 -  Giải pháp thứ sáu: Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội cũng như trong lĩnh vực kinh doanh. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp phí bảo hiểm để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế và các ngành khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay đổi của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức. 3.3 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP 3.3.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ ngân hàng 3.3.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân hàng Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nhằm khắc phục tính tự cấp, tự túc, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - kỹ thuật với nước ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Trong quá trình đó, nhu cầu thu hút, quản lí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nói chung và vốn nước ngoài nói riêng càng trở nên cấp thiết. Chính vì vậy Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Các hoạt động tài chính đối ngoại có nhiệm vụ cơ bản và cấp bách là thu hút, huy động các nguồn vốn quốc tế, phân bổ, quản lí và sử dụng có hiệu quả, đồng thời tạo - 93 - nguồn vốn để trả nợ khi đến hạn, nhằm phục vụ cho đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa đất nước. Quán triệt tư tưởng này, phát triển ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam cần được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau: • Nguyên tắc 1: Hội nhập cạnh tranh hay còn gọi là chủ động hội nhập Đây là quan điểm hội nhập trong đó chủ động gắn liền sự phát triển nền kinh tế quốc gia với khu vực và thế giới, chủ động khai thác lợi thế so sánh với các quốc gia khác. Đồng thời, hội nhập không thể tách rời với cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh mới hội nhập được. Quan điểm này là sự phát triển cao hơn của quan điểm mở cửa có kiểm soát, chủ động đặt nền kinh tế nước ta trước sự cạnh tranh của các nền kinh tế từ bên ngoài. Đây cũng là quan điểm phải giành thắng lợi trên thị trường, đồng thời đặt ra yêu cầu và chi phối nhiều chính sách, cơ chế điều hành nền kinh tế của Việt Nam. Với nguyên tắc này, việc bố trí lộ trình hội nhập cho đến năm 2020 của Việt Nam cần phải cụ thể hoá được các bước đi chủ động, tham gia hợp tác với khu vực và quốc tế để phát triển nền kinh tế. • Nguyên tắc 2: Hội nhập với phát triển bền vững và hài hoà các yếu tố kinh tế hay còn gọi là hội nhập thận trọng. Với đặc thù của một nước đang phát triển, các cơ sở kinh tế Việt Nam còn chưa ổn định và chưa phát triển ở trình độ cao, nên việc hội nhập cần phải tính đến một cơ cấu kinh tế hài hoà, dài hạn và phát triển bền vững trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó, quan điểm hội nhập cạnh tranh phải gắn liền với quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo hài hoà các yếu tố phát triển kinh tế đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và tái tạo môi trường tự nhiên, sinh thái, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Hội nhập phải tính đến phát triển trong nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước có đủ thời gian và điều kiện cạnh tranh hiệu quả với nước ngoài. - 94 - 3.3.1.2 Các định hướng chủ yếu • Giai đoạn 1 (từ nay đến 2005): Giai đoạn hoàn thiện hệ thống ngân hàng - Củng cố tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo hướng các hoạt động ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và nguyên tắc an toàn. - Cơ cấu lại ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại. - Tạo “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các ngân hàng và nâng cao tính minh bạch của hệ thống tài chính. Cụ thể hoá và nới lỏng các điều kiện, thủ tục cấp phép cho các Tổ chức Tín dụng Quốc tế hoạt động tại Việt Nam; và các quy định về hạn chế hoạt động dịch vụ ngân hàng và của các Tổ chức này. - Tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số Ngân hàng thương mại Quốc doanh với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài. - Tăng cường khuôn khổ pháp quy và việc giám sát hệ thống ngân hàng. • Giai đoạn 2 (2006-2010): Giai đoạn thực hiện các yêu cầu đã cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác Thương mại Dịch vụ ASEAN, cụ thể: - Xây dựng môi trường pháp lý cho hệ thống ngân hàng phù hợp thông lệ quốc tế - Loại bỏ dần các hạn chế về: số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng, tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng, tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng, tổng số người được tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài; - Loại bỏ dần, tiến tới không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ % tối đa số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ. - 95 - - Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu vươn ra thị trường tài chính quốc tế. • Giai đoạn 3 (2010 - 2020): Giai đoạn hội nhập năng động Cho tới năm 2020, ngành ngân hàng của Việt Nam cần phải phát triển đầy đủ các yếu tố cần thiết và sẵn sàng hội nhập hoàn toàn vào thị trường thế giới. Không hạn chế số lượng công ty có vốn nước ngoài được thành lập, tuy nhiên vẫn phải duy trì điều kiện thành lập căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế và tình hình phát triển thị trường ngân hàng Việt Nam. 3.3.2 Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng: 3.3.2.1 Nhóm giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước: Để phát huy tốt hơn chức năng và vai trò của mình trong hoạt động của ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện những nhiệm vụ sau:  Giải pháp thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. - Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. Phối hợp với các bộ, ngành để có sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tiền tệ với quản lí nợ của chính phủ, chính sách tài khoá…) - Bổ sung, sửa đổi hoặc trình chính phủ chỉnh sửa các quy định về quản lí ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lí và phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lí ngoại hối cho các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường công tác nghiên cứu hoạch định chính sách tại Ngân hàng Trung ương. - 96 -  Giải pháp thứ hai: Tăng cƣờng vai trò thanh tra, giám sát của Ngân hàng Trung ƣơng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về chất trong hoạt động thanh tra. - Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm. Tập trung chú trọng thanh tra chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước và công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng nhằm quản lí tốt chất lượng tín dụng. - Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt việc kết luận thanh tra không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức, cá nhân vi phạm  Giải pháp thứ ba: Rà soát lại công tác chuẩn bị các điều kiện cho việc tham gia vào WTO đúng tiến trình - Nới lỏng từng bước hạn chế về sự tham gia của các định chế tài chính nước ngoài tại Việt Nam theo lộ trình mà Chính phủ đã cam kết trong các Hiệp định về thương mại dịch vụ, như Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ ASEAN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. - Xây dựng hệ thống thanh toán nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào trong nước và quốc tế. Xây dựng hệ thống thông tin và tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn, hiệu quả và dễ giám sát. - Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo việc rà soát các văn bản cần ban hành mới, bổ sung, sửa đổi đặc biệt là các văn bản theo cam kết tại Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. - 97 - - Rà soát lại quy định về an toàn hệ thống, bao gồm các quy định về vốn điều lệ, về trình độ của đội ngũ quản lý ngân hàng thương mại, về chế độ báo cáo tài chính, về quy chế thanh tra, giám sát, về bảo hiểm tiền gửi và tiền vay và các quy định can thiệp khẩn cấp khác. 3.3.2.2 Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương mại: Xu thế toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều thách thức cho ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam. Hầu như các cơ hội vẫn đang còn ở dạng tiềm năng, việc khai thác và phát huy các cơ hội đó hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của bản thân ngành ngân hàng, trong khi đó, các thách thức tồn tại thật sự, buộc ngành ngân hàng từng ngày đối mặt với nó. Để có thể đứng vững và phát triển trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài, để thực hiện tốt các cam kết mà Việt Nam đã đưa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và đẩy nhanh tiến trình gia nhập GATS về dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần thực hiện một số việc cần thiết như:  Giải pháp thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thƣơng mại giúp tăng cƣờng khả năng hội nhập kinh tế quốc tế - Xây dựng các ngân hàng thương mại có quy mô đủ lớn, hoạt động an toàn, có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đẩy mạnh tái đầu tư và tái cơ cấu lại sở hữu, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Đồng thời việc cơ cấu lại ngân hàng thương mại phải đảm bảo không gây trở ngại cho hoạt động tiền tệ - tín dụng - thanh toán đối với nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng hội nhập của các ngân hàng thương mại vào thị trường tài chính quốc tế. - 98 - - Phân tách giữa nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo nguyên tắc thương mại phù hợp với cơ chế thị trường và nghiệp vụ tín dụng ưu đãi theo chính sách của Nhà nước để đảm bảo ngân hàng thương mại huy động vốn và phân bổ tín dụng có hiệu quả, an toàn, và theo nguyên tắc thị trường, hạn chế được tình trạng nợ quá hạn quá lớn.  Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện môi trƣờng pháp lý đối với dịch vụ ngân hàng: - Hoàn thiện các cơ chế, chính sách điều tiết hoạt động thương mại dịch vụ nói chung và tài chính ngân hàng nói riêng. Các chính sách để hoàn thiện môi trường pháp lý phải được xây dựng, hoạch định theo hướng hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng để kích thích nền kinh tế, các ngân hàng chuyển đổi theo hướng hiệu quả hơn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.  Giải pháp thứ ba: Cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng một cách hợp lí - Xúc tiến các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ xử lí nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, hoàn thành và đưa vào triển khai phát triển hệ thống quản trị rủi ro, quản lí tài sản nợ - tài sản có, hệ thống thông tin quản lí và hệ thống kiểm soát nội bộ. - Giảm chi phí nghiệp vụ: rà soát lại cơ cấu tổ chức của các ngân hàng thương mại và tiến hành giảm biên chế ở c khâu quản lý và nghiệp vụ cụ thể, đồng thời áp dụng tiến bộ công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả. - Tăng cường đào tạo và sử dụng cán bộ có năng lực: Đào tạo và đào tạo lại các bộ phải được coi là một việc làm cấp bách, trước hết ưu tiên đào tạo cán bộ quản lý với chưng trình đào tạo hiện đại, tiên tiến của thế giới. - Nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính: các ngân hàng thương mại phải được đảm bảo sự độc lập, tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm về - 99 - kết quả kinh doanh của mình. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng phải phối hợp với Bộ tài chính xem xét, trình chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước và triển khai thực hiện Đề án tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. - Sửa đổi quy chế: xây dựng quy trình tín dụng, quy trình kiểm soát phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.  Giải pháp thứ tƣ: Nâng cao chất lƣợng phục vụ của ngành ngân hàng: - Nâng cao năng lực và kinh nghiệm của nhân viên: Hiện nay, nhiều ngân hàng đang vận dụng nhiều công nghệ mới như: hệ thống chuyển tiền tự động, hệ thống xử lý thông tin, mạng nội bộ, sản phẩm mạng...đòi hỏi nhân viên phi thành thạo, nắm bắt và giải quyết tốt chúng trong công việc thường ngày. Để nâng cao năng lực vận hành hệ thống, nên tổ chức các lớp đào tạo kỹ năng sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, phi chuẩn bị trước những tình huống sẽ xảy ra khi giao dịch với khách hàng và đề ra các biện pháp xử lý. - Chiến lược dịch vụ hướng về khách hàng: Khách hàng được coi như những nhân viên của ngân hàng, những người tham gia vào quá trình sản xuất cung cấp dịch vụ. Những ý kiến đánh giá của họ thường rất xác đáng. Để có được sự tham gia tích cực hơn của khách hàng và hướng dẫn họ trong các hoạt động của mình, các ngân hàng nên tổ chức các buổi hội nghị khách hàng, mời họ phát biểu về hoạt động của ngân hàng. Các quy định thủ tục cần phi được thông báo đầy đủ tới khách hàng để họ có thể nắm bắt được những chính sách và chiến lược của ngân hàng. - Tiêu chuẩn hoá các thủ tục và quy trình tiến hành công việc: Các thủ tục phiền hà, các quy trình tiến hành công việc phức tạp đã làm hạn chế chất lượng một số dịch vụ của các ngân hàng. Các ngân hàng cần nhanh chóng nghiên cứu các quy trình hoạt động và giảm những bước không cần - 100 - thiết để tạo thuận lợi cho giao dịch của khách hàng cũng như của nhân viên mình. Các thủ tục cần được tiêu chuẩn hoá và dễ hiểu, cần phi quy định thời gian tối thiểu cho từng công việc và trách nhiệm của từng cá nhân khi thực hiện công việc đó.  Giải pháp thứ năm: Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới trong hoạt động ngân hàng Các giải pháp công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, những lợi ích của công nghệ mới chưa được phát huy nhiều, tốc độ và một số bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, các ngân hàng cần phải tiếp tục phát triển thêm những công nghệ mới nhằm hoàn thành phát triển công nghệ và tạo ra những sản phẩm hoàn hảo với sự hỗ trợ của công nghệ. Cần cố gắng đảm bảo việc ứng dụng công nghệ trên toàn bộ hệ thống từ Trung ương tới các chi nhánh trực thuộc để tạo ra tính đồng bộ và tốc độ xử lý cũng như thông tin trao đổi được nhanh chóng, giải quyết kịp thời yêu cầu của khách hàng. Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Chìa khoá để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh, thách thức cạnh tranh gay gắt đang gõ cửa từng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Lựa chọn duy nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính là phải mở rộng phát triển, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh để sẵn sàng bước vào cuộc chiến sống còn trên thương trường. Thách thức rất nặng nề nhưng cơ hội mở ra cũng lớn. Chủ động hội nhập là phương châm hành động đúng đắn mà chúng ta cần sớm thực hiện với sự đồng tâm nhất trí từ - 101 - trên xuống dưới, từ phía nhà nước và các doanh nghiệp, có như vậy chúng ta mới có thể vượt qua thách thức, tận dụng được cơ hội và biến tiềm năng, lợi thế của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của cả ngành dịch vụ tài chính nói chung thành hiện thực. - 102 - KẾT LUẬN Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Thực hiện chủ trương của Đảng, cho đến nay, Việt Nam đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu trong quá trình hội nhập, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Đó là khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á; gia nhập ASEAN (1995), APEC (1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện đàm phán gia nhập WTO, tuy chưa đạt đến đích cuối cùng nhưng những cố gắng này hứa hẹn sẽ đạt kết quả đáp ứng lợi ích của nhiều bên. Tất cả những điều trên đây chứng minh một điều rằng hội nhập tài chính quốc tế không những đang là một xu thế phát triển mạnh mẽ của quá trình phát triển thế giới mà còn là nguồn sống, là sức sống của nhiều quốc gia đang phát triển. Và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế đó. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, nắm bắt đúng yêu cầu hội nhập, đề ra mục tiêu, chiến lược phù hợp để tham gia vào quá trình này trong thời gian càng sớm càng tốt là điều kiện sống còn để Việt Nam có cơ hội bắt kịp được với trình độ phát triển chung của toàn thế giới, tránh được nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn. Nắm bắt được tầm quan trọng của việc hội nhập tài chính quốc tế đối với từng quốc gia, đặc biệt là Việt nam, Luận văn đã chọn nghiên cứu đề tài „Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế‟. Thông qua đánh giá thực trạng - 103 - hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, ta có thể rút ra một số kết luận: - Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách và luật pháp còn khập khiễng và chưa đồng bộ, nguồn nhân lực có trình độ thấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp rất hạn chế ngay cả trên thị trường nội địa. Hầu hết các công ty bảo hiểm và các ngân hàng Việt Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên thị trường tự do, chứ chưa nói đến việc mở rộng thị trường ra bên ngoài. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nếu muốn đảm bảo được mục tiêu phát triển nội lực, bảo vệ thị trường nội địa trước áp lực ngày càng tăng của hội nhập quốc tế, đồng thời mở rộng thị trường hơn khi thực hiện đầy đủ các quy chế của AFTA, APEC và WTO trong giai đoạn tới. - Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó. - 104 - TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Aaditya Mattoo (2000). “Dịch vụ tài chính và WTO: Tự do hoá trong các nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi”. Gia nhập WTO: Vấn đề, thách thức và tác động đến khung pháp lý của Việt Nam, Hà Nội. 2. Ban Thư Ký WTO về Thương mại dịch vụ (10/1999), “Thái lan: Bảng cam kết cụ thể về dịch vụ” 3. Báo Đầu tư số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/2004 4. Báo Thị trường tài chính tiền tệ, số 11 năm 2003 và số 5,8 năm 2004. 5. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/02/009 ngành dịch vụ tài chính 6. Bộ Tài chính (2002), “Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO, kinh nghiệm của các nước”. 7. Bộ Tài chính (2003), “Báo cáo về thị trường tài chính và dịch vụ tài chính năm 2003” 8. Bộ Thương mại, Dự án VIE/95/015, “Hợp tác dịch vụ trong ASEAN”. 9. Bộ Tư pháp (2003), “Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu các quy định của WTO với pháp luật Việt nam hiện hành” 10. Đinh Văn Nhã (2002), Hệ thống giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn và thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện tài chính - Bộ tài chính, Hà Nội 11. Ngân hàng Nhà nước Việt nam (1/2004), “Báo cáo hoạt động ngân hàng năm 2003, định hướng nhiệm vụ năm 2004”, Tài liệu Hội nghị tổng kết hoạt động ngân hàng năm 2003 triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2004. 12. Nguyễn Hạnh Phúc, “Hệ thống ngân hàng Việt Nam và tiến trình tái cơ cấu”, Báo Chứng Khoán Việt Nam 5/2000. 13. Tạp chí Ngân hàng, số 3,5 và số chuyên đề năm 2003, số 1 đến 4 năm 2004. 14. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số từ số 1 đến số 5/2004 - 105 - 15. Thủ tướng chính phủ (2003), “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam từ năm 2003 đến năm 2010”, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/08/2003 16. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia Hà nội, 2001. 17. Vụ Âu - Mỹ, Bộ Thương mại (12/2000), “Báo cáo về việc ký kết và những nội dung chủ yếu của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”. 18. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu về thương mại dịch vụ”. 19. Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính (8/1999),“Chiến lược hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính giai đoạn 2000 - 2010”. 20. Thông tin trên các trang web: www.dei.gov.vn www.avi.gov.vn www.usvtc.org www.mot.gov.vn www.mofa.gov.vn www.wto.org Tiếng Anh 21. GATS, “Opening markets for services”, 1998. 22. Phillip Tan, Country Profile: Singapore insurance industry, PricewaterhouseCoopers Singapore, 2002 23. WTO, “Financial Services and the GATS: Liberalisation in the Developing and Transition Economies”, 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3002_8961.pdf
Luận văn liên quan