Luận văn Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Đề nghị Ngành ngân hàng, ngành điện quan tâm giải quyết khoản nợ HTX vay trước khi chuyển đổi như: xây dựng trạm điện, cải tạo đồng ruộng, nâng cấp kênh mương cho HTXNN được tổ chức tín dụng nội bộ và được dùng tài sản thuộc sở hữu tập thể thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Chính phủ giao cho các Bộ ngành liên quan cần quan tâm ưu tiên kinh phí và giao cho các trường đào tạo cán bộ quản lý nông nghiệp, các trường Đại học, Trung học NôngLâm ở các Tỉnh xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp- nông thôn hiện nay.

pdf102 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3197 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n rộng); mỗi nơi phải có phương án cụ thể do Uỷ ban nhân dân huyện duyệt và chỉ đạo (từ việc giải quyết công nợ, tính toán lại cổ phần và tài sản còn thực tế, xác định cổ phần mới, giải quyết quyền lợi đối với xã viên trước đây không tiếp tục tham gia nữa…) * Đổi mới cơ chế quản lý HTXNN kiểu mới: - Thực hiện dân chủ và đảm bảo thực sự quyền lực của xã viên HTXNN trong việc lựa chọn nhân sự, đóng góp xây dựng phương án kinh doanh và kiểm tra kết quả hoạt động SX-KD của HTX. Đảm bảo dân chủ và quyền lực của xã viên là một trong những vấn đề nguyên tắc của HTXNN cần phải được thực hiện tốt thì các HTX có điều kiện tồn tại và hoạt động có hiệu quả. Làm khác đi bộ máy quản lý có thể quan liêu hoá, xa rời mục tiêu phục vụ xã viên và không được kiểm tra, giám sát của xã viên, hoạt động sẽ dần dần kém hiệu quả. Lợi ích của xã viên bị vi phạm các xã viên có thể rút khỏi HTX, khi đó HTX không tránh khỏi đổ vỡ nếu không thì cũng chỉ còn là hình thức, không đáp ứng mục tiêu của HTXNN kiểu mới. Tuy nhiên trong một thời gian dài của phong trào HTX điều này đã không được thực hiện, khiến cho xã viên không hiểu hết ý nghĩa của vấn đề, cán bộ quản lý cũng không phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo dân chủ và quyền lực thực sự của xã viên. Vì vậy ngay trong quá trình chuyển đổi HTX theo luật cũng như trong suốt quá trình hoạt động của HTX theo Luật HTX vấn đề này cần phải được quan tâm: + Trong tổ chức bộ máy quản lý HTX cũng như việc lựa chọn nhân sự tham gia bộ máy quản lý cần phải để cho xã viên toàn quyền quyết định. Vai trò lãnh đạo của Đảng ở đây, là qua mỗi nhiệm kỳ hoạt động của HTX, cấp uỷ Đảng của địa phương, đơn vị có trách nhiệm theo dõi, tạo điều kiện, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu thực tế đồng thời đảm bảo để sau mỗi nhiệm kỳ bầu lại Đại hội xã viên thực sự thể hiện được quyền của mình trong việc giới thiệu và bỏ phiếu lựa chọn người vào bộ máy quản lý, tránh việc làm có tính dân chủ hình thức cũng như các khuynh hướng bè phái, cục bộ trong nông thôn. + Phương án hoạt động SX-KD hàng năm của HTX phải được xã viên bàn bạc và thông qua Đại hội xã viên quyết định. Ban quản trị HTX căn cứ chức năng nhiệm vụ của mình và của HTX, căn cứ vào tình hình thực tiễn và yêu cầu của hoạt động SX-KD để xây dựng dự thảo phương án SX-KD, được thông báo trước bằng văn bản trước khi Đại hội xã viên (chẳng hạn trước 1 tháng) để xã viên (hay đại biểu xã viên) nghiên cứu, thảo luận trước khi có quyết định chính thức ở Đại hội. + Mọi hoạt động tài chính phải được chấp hành nghiêm chỉnh theo luật pháp và theo chế độ kế toán Nhà nước quy định cho HTX. Ban kiểm soát HTX thay mặt xã viên giám sát hoạt động của Ban quản trị, Ban kiểm soát cần phải có đủ trình độ, năng lực và sự công tâm để giám sát các hoạt động tài chính, đánh giá tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính. Sau đó, báo cáo tài chính phải được công khai để xã viên (hay đại biểu xã viên) xem xét trước khi tiến hành Đại hội hàng năm thông qua phương án SX-KD năm sau và quyết toán tài chính năm trước. - Hỗ trợ các HTX tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường và nâng cao hiệu quả các hoạt động dịch vụ và SX-KD, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của xã viên. Tổ chức và quản lý HTX phải phù hợp với điều kiện của cơ chế thị trường: Quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay gắn liền với quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, HTX cũng như các chủ thể kinh tế khác hoạt động ngày càng phải đối mặt với thị trường, chịu sự sàng lọc của thị trường thông qua cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh. Để HTX phát triển trong điều kiện như vậy, không có nghĩa là quay trở về cơ chế cũ, hạn chế thị trường và thực hiện sự bảo hộ của Nhà nước, ngược lại, phải thích ứng với thị trường chấp nhận cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Bộ máy quản lý HTX trong điều kiện hiện nay phải gọn nhẹ, phải có năng lực quản lý, năng lực kinh doanh và thực hiện hoạch toán kinh doanh, quan hệ kinh tế với hộ là quan hệ mua bán, do đó phải nhạy cảm với yêu cầu của hộ nông dân để nâng cao chất lượng phục vụ. - Cần thay đổi quan niệm và cách ứng xử trong mối quan hệ giữa Ban quản trị với xã viên: Một mặt, Ban quản trị do xã viên bầu ra để hoạt động vì lợi ích của các xã viên. Song khi xã viên tham gia với tư cách là người lao động làm việc trong HTX, thì quan hệ giữa Ban quản trị với xã viên trong trường hợp cụ thể, đó là mối quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý (người lao động). Do đó, xã viên phải tôn trọng và tuân thủ những yêu cầu, những nguyên tắc và kỷ luật được đề ra trong mối quan hệ đó. Trong trường hợp thực hiện quan hệ giữa người mua (hộ nông dân) và người bán (HTX) các dịch vụ thì Ban quản trị phải tôn trọng những cam kết với nông dân; còn nông dân phải đảm bảo quan hệ sòng phẳng, nhất là quan hệ tài chính với HTX. 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống các chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển hợp tác xã nông nghiệp - Chính sách tài chính đối với hợp tác xã nông nghiệp Vốn đầu tư là nhu cầu cấp thiết cho hoạt động của các HTXNN cũng như kinh tế nông hộ và trang trại gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. HTX có hai nguồn vốn cung cấp đó là: vốn từ nội bộ HTX và nguồn vốn từ bên ngoài. Từ thực tế ở Quảng Nam cho thấy, nguồn vốn từ nội bộ HTX rất nhỏ bé. Trong khi đó, toàn bộ hệ thống có liên quan đến nhiệm vụ cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn (từ Trung ương đến cơ sở) bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách-Xã hội, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ cho vay giải quyết việc làm, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... trong đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là chủ yếu. Tuy nhiên, cho đến nay hầu như các HTXNN đều chưa được vay vốn trực tiếp của ngân hàng quốc doanh. Các nguồn vốn khác từ các đoàn thể, các quỹ hỗ trợ,... thì bị phân tán, đi thẳng theo các chương trình dự án đến hộ nông dân, trang trại gia đình, ít liên quan đến vốn HTXNN. Do vậy, kể cả hai nguồn vốn từ bên ngoài và bên trong đều chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho HTX kiểu mới hoạt động. Tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng ở hầu hết các tổ chức kinh tế HTXNN, là một khó khăn lớn cản trở các tổ chức kinh tế này phát huy tác dụng. Ngoài ra, nhu cầu vốn đối với kinh tế nông hộ và trang trại gia đình cũng là đòi hỏi hết sức cấp thiết. Hiện nay, ở một số vùng nông thôn, miền núi hộ nông dân phải đi vay bằng nhiều cách, vay nặng lãi để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bởi vậy, thông qua chính sách đầu tư tài chính, nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông dân (nông hộ, trang trại gia đình) có vốn hoạt động. Cần có hướng dẫn cụ thể thực hiện Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg tháng 3 năm 1999, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN sau chuyển đổi và HTX mới thành lập được vay vốn phát triển sản xuất. Đối với những HTX có vốn góp không lớn (dưới 50 triệu), nếu HTX có dự án phát triển SX-KD có tính khả thi, được Ủy ban nhân dân xã giám định thì có thể được vay số tiền tương đương số vốn của HTX mà không cần thế chấp. Đồng thời, cần coi trọng việc củng cố và phát triển HTX, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần Chỉ thị của Bộ Chính trị ngày 13-10-2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ khó khăn vay vốn sản xuất. Nên cho phép HTXNN huy động và cho vay nội bộ. Tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Nhà nước cần dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách đầu tư cho kinh tế HTX như đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn, đổi mới công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn... Tiến hành thành lập quỹ hỗ trợ HTX là cần thiết cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả SX-KD. Quỹ hỗ trợ phát triển HTX sẽ tập trung hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, dạy nghề cho người lao động, đổi mới, phát triển sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật; phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và nhân rộng mô hình HTXNN kiểu mới tiên tiến, liên hiệp HTX mới, các mô hình tiên tiến... Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên nhằm tạo điều kiện pháp lý cho thị trường tài chính ở nông thôn Quảng Nam phát triển lành mạnh, đúng hướng, đáp ứng nhu cầu phát triển SX-KD của kinh tế hộ, kinh tế trang trại gia đình và hoạt động của các HTXNN. - Chính sách thuế: Mặc dù Nhà nước đã ban hành Nghị định 15/CP về chính sách khuyến khích phát triển HTX; Bộ Tài chính đã có Thông tư hướng dẫn số 44/1999/TT-BTC về ưu đãi thuế đối với HTX. Song, do thực trạng hoạt động của HTXNN hiện nay còn hạn hẹp nên hoạt động cung ứng vật tư, chế biến tiêu thụ sản phẩm đang là nhu cầu lớn của kinh tế hộ nhưng phần lớn các HTX chưa đáp ứng được yêu cầu đang đặt ra. Một số HTX đang triển khai thực hiện gặp phải nhiều khó khăn trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Hơn nữa, hoạt động dịch vụ của HTX không phải hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận, mà chủ yếu nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Xuất phát từ tình hình hoạt động của các HTXNN, nhà nước nên miễn thuế cho các hoạt động dịch vụ của HTXNN gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm... phục vụ sản xuất và đời sống của hộ xã viên, hoặc nhà nước thu nhưng sau đó cấp lại cho HTX, xem đó là nguồn hỗ trợ của Nhà nước để các HTX tăng vốn thuộc sở hữu tập thể nhằm phục vụ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế hộ nông dân. Đối với các HTX khác hoạt động ở vùng nông thôn nhà nước cần có chính sách giảm 50% hoặc miễn toàn bộ thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với HTX dịch vụ nông nghiệp. - Chính sách ruộng đất: Đây là một trong những chính sách rất quan trọng, có tác động trực tiếp đến kinh tế hộ nông dân, kinh tế trang trại và sự phát triển của HTXNN hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế. Mặc dù đã có Luật Đất đai sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành. Song trên thực tế các HTXNN vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc các địa phương khẩn trương hoàn thành chính sách giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) cho các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hóa. Đồng thời, cần tuyên truyền, áp dụng kinh nghiệm của một số địa phương về việc dồn điền, đổi thửa để hạn chế tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với quá trình nói trên, cần đẩy mạnh việc mở mang ngành, nghề để giải quyết việc làm cho lao động chuyển từ nông nghiệp sang. Hiện nay, Bộ Tài chính đã có Thông tư hướng dẫn số 44/1999/TT-BTC, nhưng chỉ miễn cho các HTX ở nông thôn, miền núi, hải đảo trong thời hạn 5 năm. Đối với các HTX khác chỉ được giảm tiền thuê 50% trong thời gian hai năm (HTX đã được cấp giấy đăng ký kinh doanh). Đây là một trong những khó khăn cho hoạt động HTXNN. Bởi vậy, đề nghị nên miễn tiền thuê đất để làm trụ sở, nhà kho cho tất cả các HTXNN đang sử dụng đất có từ trước ngày 1-1-2000. Đối với các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, cần miễn không thời hạn tiền thuê đất mà HTX sử dụng để làm các công trình dịch vụ phục vụ sản xuất, miễn với thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định giao đất đối với HTXNN thuộc vùng đồng bằng. Sau thời hạn đó, nếu HTX còn khó khăn, cần nghiên cứu cụ thể để cho miễn giảm tiếp. Đồng thời, phải có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng sử dụng đất lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác. - Chính sách khuyến nông, khoa học và công nghệ Việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KH-CN vào sản xuất nông nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Đó là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển các HTXNN và nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại. Căn cứ vào nội dung và phương thức đưa tiến bộ KH-CN vào sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong thời gian qua, đặc biệt từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về KH-CN, Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn; Chương trình hành động số 10/CTr-TU của Tỉnh uỷ Quảng Nam về việc thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về Giáo dục đào tạo, KH-CN giai đoạn 2002- 2007 và Chiến lược phát triển KH-CN Quảng Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2020 nhằm tạo nên những bước đột phá cả về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Để thực hiện thắng lợi những vấn đề trên, chính sách KH-CN thời gian đến là ứng dụng chuyển giao là chính, lựa chọn đón đầu các công nghệ mới đã được nghiên cứu trong nước và trên thế giới phù hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng tiếp cận ở Quảng Nam để đưa vào sản xuất - Tiến hành quy hoạch lại nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, để phát huy lợi thế từng HTXNN và tiềm năng đất đai, khí hậu thuận lợi cho từng vùng, nhất là tập trung cho miền núi, vùng sâu, vùng xa để ổn định lương thực tại chỗ. - Đối với HTXNN, các chủ thể sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản (nông hộ, trang trại, HTX, doanh nghiệp) được hỗ trợ kinh phí, hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng KH-CN trong sản xuất nông nghiệp. - Thực hiện chính sách ưu đãi về các loại thuế, mức lãi suất tín dụng... như không điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công tiến bộ KH-CN, giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vốn vay; miễn, giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng tiến bộ KH-CN sản xuất các máy móc nông lâm cụ như máy làm đất, máy gặt đập liên hợp phù hợp với quy mô sản xuất nhỏ và vừa để từng bước giải phóng sức lao động - Điều tra đánh giá lại đội ngũ cán bộ KH-CN ở các địa phương, đơn vị để có kế hoạch bố trí công việc kết hợp với đào tạo đội ngũ cán bộ HTX, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức KH-CN để triển khai có hiệu quả các chương trình dự án về ứng dụng tiến bộ KH- CN ở nông thôn. Trên cơ sở này giúp cho HTXNN thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với nông hộ, trang trại nhằm nâng cao hiệu quả quá trình chuyển giao KH-CN vào thực tiễn sản xuất. - Đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón vi sinh, chế phẩm sinh học, thuốc trừ sâu phù hợp yêu cầu phát triển bền vững nền nông nghiệp sinh thái. Du nhập và khảo nghiệm các loại giống có chất lượng, năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và phù hợp cho từng tiểu vùng sinh thái của Quảng Nam; chú trọng các giống lúa thích hợp cho miền núi. Trên cơ sở các cây ăn quả đầu dòng đã được xác định, đầu tư hoàn thiện vườn giống để đủ vật liệu tạo cây giống, mở rộng diện tích sản xuất trồng cây ăn quả này thành vùng hàng hoá và tiến đến tạo thương hiệu riêng. Khuyến khích các cơ sở chăn nuôi hộ nông dân đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá từng bước các khâu chăm sóc nuôi dưỡng như chuồng lồng, máng ăn, máng uống tự động, trồng cỏ có hàm lượng dinh dưỡng cao, bổ sung thức ăn tinh…Ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào nhân giống con vật nuôi, tạo ra giống gia súc, gia cầm có năng suất cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội và xuất khẩu. - Tăng cường hoạt động của các trung tâm khuyến nông trong việc hướng dẫn, phổ biến sử dụng phương pháp canh tác mới đến hộ nông dân thông qua các HTX. Đồng thời, tăng cường quan hệ giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với các HTXNN, các trung tâm khuyến nông để rút ngắn thời gian chuyển giao, áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất phù hợp với dân trí và tâm lý nông dân. - Có chính sách ưu tiên nghiên cứu các sản phẩm phi gỗ, nghiên cứu phục vụ phát triển gắn với xây dựng quảng bá thương hiệu cho các loại cây trồng bản địa như: cây quế Trà My, loon boon, bưởi trụ, bưởi Thanh trà… nghiên cứu phục vụ cho việc xây dựng các vùng cây thực phẩm, cây nguyên liệu, phát triển các làng nghề trồng rau, hoa, cây cảnh… - Cần có chính sách khuyến khích đối với sinh viên tốt nghiệp các trường đại học có chuyên môn phù hợp về công tác ở nông thôn miền núi, các HTXNN cùng với những chế độ ưu đãi thỏa đáng đối với những người hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thực hiện tốt chính sách này sẽ có tác dụng xây dựng mạng lưới nhân lực khoa học ở nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu đã đề ra. - Chính sách thị trường Thị trường có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn hiện đại. Trong nhiều trường hợp, thị trường là yếu tố cơ bản quyết định chiến lược phát triển sản xuất từng loại nông phẩm. Khi đặt vấn đề phát triển sản xuất một loại nông phẩm nào đó, trước hết các HTXNN buộc phải tính đến việc trả lời câu hỏi: ai là khách hàng "của nó", có nghĩa là thị trường tiêu thụ ở đâu? Quá trình sản xuất nông phẩm hàng hóa không gắn với thị trường sẽ thất bại là điều khó tránh. Bởi vậy, thị trường là căn cứ để HTXNN tổ chức sản xuất và định hướng các hộ nông dân là cơ sở để hình thành quyết định đầu tư. Căn cứ vào thực trạng chất lượng nông phẩm ở Quảng Nam và khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường địa phương, cả nước và quốc tế; căn cứ vào đặc điểm, trình độ sản xuất nông sản hàng hóa và thực trạng những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển thị trường nông sản trong nước; căn cứ vào thực trạng ảnh hưởng của thị trường đối với các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp nước ta hiện nay, để đáp ứng yêu cầu phát triển, hoàn thiện mô HTXNN kiểu mới nhằm thúc đẩy sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thông qua các cơ quan chức năng và hệ thống bộ máy từ Trung ương đến chính quyền cơ sở các cấp cần coi trọng việc thông tin kịp thời cho các HTXNN nắm được: Nhu cầu của thị trường tiêu thụ nông sản, trước hết là những nông sản hàng hóa có khối lượng lớn, đặc biệt là nông sản phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế; Những thông tin dự báo cần thiết về việc xác định nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu thị trường nông sản trong nước và quốc tế. Những thông tin về phương thức, điều kiện, yêu cầu đảm bảo tính thông suốt, tính thời gian từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ... Trên cơ sở các thông tin được cung cấp các HTXNN có điều kiện tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trước khi quyết định phương án đầu tư tổ chức sản xuất. Từ thực tế cho thấy, để đảm bảo tiêu thụ nông sản có hiệu quả cao, các chủ thể kinh tế cần phải liên kết lại, hình thành HTX. Hình thức HTX dịch vụ tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp từng nông hộ, trang trại khắc phục những hạn chế của mình trước những biến động của nhu cầu thị trường có cạnh tranh gay gắt. Với những lý do nêu trên, cho phép nhận rõ tầm quan trọng của chính sách thị trường. Vì vậy, nhằm tạo điều kiện cho nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành đồng bộ các loại thị trường, bao gồm cả thị trường "đầu vào", thị trường "đầu ra", thị trường địa phương, thị trường thống nhất cả nước và thị trường quốc tế. Nhà nước cần đầu tư cho việc hình thành hệ thống các cơ quan nghiên cứu, dự báo, nắm bắt nhu cầu thị trường nông sản trên thế giới và trong nước để làm nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo ra những nông sản chủ lực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, các cơ quan này còn phải làm tốt nhiệm vụ thông tin, tư vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình hình thành khả năng, thói quen của người sản xuất hàng hóa. Tốt nhất nên hình thành hệ thống mạng lưới từ các cơ quan nói trên đến người nông dân thông qua các HTXNN. Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu nông sản hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. Trước hết, đó là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại. 3.2.5. Đẩy mạnh liên kết giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã với các hợp tác xã trong vùng Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Sự tác động đó chủ yếu thông qua các hệ thống thủy nông, giao thông, cung cấp điện, cung cấp tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, bảo vệ thực vật, thú y, cung cấp giống, vật tư kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong mối quan hệ này, HTX phải đóng vai trò người đại diện, là cầu nối giữa kinh tế nhà nước và kinh tế hộ. Một mặt, HTX thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, triển khai chương trình dự án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phương. Mặt khác, HTX giúp doanh nghiệp nhà nước mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ trực tiếp, có hiệu quả đến nông dân. Do vậy, tùy điều kiện cụ thể cần phải thiết lập các mối quan hệ liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với HTX và nông dân, trong đó doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho HTX mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, SX-KD như HTX làm đại lý, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm... Thực tế của mối liên kết là lợi ích của cả 2 phía: Các HTX không dựa vào doanh nghiệp nhà nước sẽ không thể hoạt động được (như trong trường hợp dịch vụ thủy nông và điện) hoặc sẽ hoạt động không có hiệu quả (đối với các dịch vụ khác) trong điều kiện của HTXNN và tình hình thị trường hiện nay. Ngược lại các doanh nghiệp nhà nước dù là hoạt động công ích cũng phải hạch toán kinh doanh, cũng phải tuân thủ những yêu cầu của qui luật thị trường, cũng phải mở rộng kinh doanh. Trong nhiều trường hợp không có các HTX dịch vụ các doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả. Thực tế, khi chuyển đổi sang cơ chế mới, nhiều HTX chỉ còn tồn tại hình thức hoặc lúng túng trong hoạt động đã đem lại không ít khó khăn cho hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn trong việc thu thủy lợi phí đối với hoạt động thủy nông; trong việc chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp… Vấn đề đặt ra ở đây là để thực hiện được lợi ích của cả 2 phái thì các HTX và các doanh nghiệp cần phải tăng cường mối liên kết kinh tế với nhau trong điều kiện mới của cơ chế thị trường. Quan điểm ỷ lại theo kiểu bao cấp hoặc xoay lưng lại với nhau đều không phải là cách để các HTX và các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Về phía HTX, một mặt, giúp cho các doanh nghiệp nhà nước thấy được yêu cầu thực tế và những điều kiện hoạt động của các hộ nông dân để cùng với HTX đảm bảo các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nông dân, đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân, đồng thời qua đó thực hiện lợi ích của mình. Mặt khác, tạo điều kiện để giúp các doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt các hoạt động dịch vụ thông qua các hoạt động thiết thực như thu đúng, thu đủ và sòng phẳng trong quan hệ thanh toán, vận động nhân dân tham gia, bảo vệ các công trình hạ tầng (như hệ thống thủy nông, đường, điện,…). Về phía doanh nghiệp nhà nước, một mặt phải cung cấp các dịch vụ của mình phù hợp với những yêu cầu mà hợp đồng kinh tế đã ký kết, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của HTXNN trong việc cung ứng dịch vụ cho các hộ nông dân. Mặt khác, cần có sự giúp đỡ thiết thực khi cần thiết đối với người bạn hàng lâu dài của mình (trong việc thanh toán, trong việc giúp đỡ về kỹ thuật và quản lý…) tránh thái độ cửa quyền, gây khó dễ sẽ có ảnh hưởng xấu cho cả 2 bên cũng như cho cả lợi ích của các hộ nông dân. Về phía Nhà nước, việc tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật và tài chính, đổi mới phương thức tổ chức quản lý và hạch toán kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực đã nêu góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí sản xuất và dịch vụ giúp cho HTX có điều kiện giảm nhẹ chi phí và đóng góp các hộ nông dân là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực và cấp bách. Thực tiễn vấn đề này, các HTXNN Quảng Nam hiện đang đẩy mạnh phong trào liên doanh, liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với các thành phần kinh tế khác và thông hợp đồng hợp tác liên doanh, liên kết đã giúp cho các HTX phát huy được tiềm năng thế mạnh sẵn có của đơn vị mình như về đất đai, mặt bằng, nhà xưởng, về nguyên liệu, lao động có điều kiện để đầu tư đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Đặc biệt cũng là môi trường làm cho cán bộ quản lý HTX đổi mới tư duy kinh tế, năng động, sáng tạo hơn. Tiêu biểu các HTX như HTX Duy Sơn 2 đã tiến hành liên doanh với một số tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh mở xí nghiệp sản xuất đế giày, Xí nghiệp hồ mắc sợi đã liên doanh với một tư nhân ở Đài Loan thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp xuất khẩu Vân Sơn, ngoài ra HTX Duy Sơn 2 còn liên kết với HTX Cơ khí Nam Phước, HTX Duy Phước mở các cơ sở mây tre xuất khẩu và may công nghiệp. Liên hiệp thương mại Quyết Thắng- Điện Bàn liên kết với HTXNN Điện Quang- Điện Bàn phát triển ngành dệt, HTX Đại Hiệp-Đại Lộc liên kết với công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Vy- Đà Nẵng gia công chế biến mặt hàng thuỷ sản, liên kết với công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Hà- thành phố Hồ Chí Minh gia công mặt hàng công nghiệp… Việc tăng cường mối liên kết kinh tế giữa các HTX trong vùng cũng là một vấn đề quan trọng để phát triển các HTX. Hiện nay các HTXNN thường được tổ chức khép kín trong khuôn khổ địa giới hành chính như thôn, xã… trong khi đó nhiều hoạt động chỉ có hiệu quả khi có quy mô đủ lớn và gắn bó với toàn vùng. Vì vậy khi HTXNN phát triển thì sự liên kết giữa các HTX trong vùng vì những lợi ích chung nảy sinh tự tất yếu kinh tế - kỹ thuật như thuỷ lợi, bảo vệ thực vật… hay từ lợi ích kinh tế theo quy mô như tiêu thụ, chế biến sản phẩm nông nghiệp, cung cấp vật tư nông nghiệp… là những hướng hết sức quan trọng có ý nghĩa thiết thực và nếu biết tổ chức thì hoàn toàn có thể thực hiện được. 3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp Trước nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới phải gấp rút phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, hiện nay trình độ cán bộ HTX còn thấp nhiều so với yêu cầu, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo số liệu điều tra ở 125 HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX trên địa bàn Quảng Nam, trong số các chủ nhiệm, số có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 8,75%, trung cấp 43,17%, sơ cấp 22,4%; trình độ tôt nghiệp trung học phổ thông 48%, trung học cơ sở 21,6%. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ trương phát triển HTXNN kiểu mới. Do vậy, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ngành có liên quan cần có đề án cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX. Trọng tâm là Chủ nhiệm, Kế toán trưởng và Trưởng Ban kiểm soát HTX. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN đồng bộ, có đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ. Trước hết phải xây dựng quy hoạch cán bộ lấy đó làm cơ sở thực hiện công tác cán bộ HTXNN trong những năm tới, cần phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTXNN với cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác cán bộ HTXNN. Đồng thời hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng đội ngũ cán bộ HTXNN. HTXNN là tổ chức được quyền tự chủ về mọi mặt hoạt động của mình theo quy định của pháp luật, trong đó có công tác cán bộ. Tuy nhiên, là tổ chức kinh tế của tầng lớp dân cư yếu thế nhất trong xã hội, HTXNN rất cần sự trợ giúp của Đảng và Nhà nước các cấp về nhiều mặt, trong đó có công tác cán bộ. Song, đó không phải là sự làm thay hay can thiệp thô bạo vào công tác cán bộ của HTXNN. Sự trợ giúp đối với công tác cán bộ của HTXNN từ phía các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương được thể hiện thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao dân trí nói chung và trình độ văn hóa, nhận thức của cán bộ HTXNN nói riêng; hỗ trợ về tài chính và tổ chức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng... Đối với các cán bộ trực tiếp quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trong các HTX nông nghiệp những nội dung chuyên môn sau đây có thể là những kiến thức cần thiết đáp ứng yêu cầu cụ thể đối với hoạt động của các HTX như: Những kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, kinh tế nông nghiệp nông thôn; Cách lập kế hoạch hoạt động kinh doanh; Cách tìm kiếm các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động của HTX; Cách tính toán chi phí và giá thành các dịch vụ của HTX; Phương pháp kế toán hoạt động của các HTX và cách lập các báo cáo tài chính, xác định lỗ lãi trong hoạt động kinh doanh; Cách nắm bắt cơ hội kinh doanh; Cách khai thác thị trường, phương pháp làm việc với các nhà cung cấp và các khách hàng; Những kiến thức cần thiết liên quan đến hợp đồng kinh tế và các loại Luật pháp có liên quan đến hoạt động của các HTX. Ngoài ra, những đào tạo về chuyên môn kỹ thuật có liên quan đến các dịch vụ mà HTX hoạt động nhằm bổ sung cho HTX và những người lao động và cán bộ có trình độ kỹ thuật chuyên môn phù hợp cũng rất cần thiết. Kinh nghiệm một số HTXNN ở Quảng Nam như Duy Sơn 2- Duy Xuyên; Đại Hiệp- Đại Lộc… trong những năm qua cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTXNN thực sự có hiệu quả phải gắn liền với công tác quy hoạch cán bộ và thực hiện luân chuyển cán bộ. Điều đó, một mặt, làm cho các cán bộ có sự trưởng thành toàn diện và tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn trong thực tiễn công tác, và đó cũng là cách để rèn luyện, thử thách và lựa chọn cán bộ một cách xứng đáng. Mặt khác, thông qua cách luân chuyển cán bộ mà lợi ích đội ngũ cán bộ này được đảm bảo lâu dài, do đó họ yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp phát triển HTX và chỉ có hoạt động tốt cho HTX họ mới có cơ hội để phát triển. Đó chính là con đường để giúp cho đội ngũ cán bộ HTX và cán bộ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này ở các cấp địa phương luôn được bổ sung và nâng cao về chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN phải được thực hiện theo phương châm thường xuyên, liên tục, kết hợp giữa đào tạo với bồi dưỡng, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt của HTXNN. Đa dạng hóa hình thức, lựa chọn địa điểm đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của HTXNN và người học. Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN. Đặc biệt cần tạo nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN theo 2 giai đoạn, trong giai đoạn đầu, khi HTXNN còn nghèo, ít vốn, Nhà nước nên hỗ trợ 100% kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN; trong giai đoạn 2 khi HTXNN đã phát triển, vốn của HTX đã dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX được hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ quỹ phát triển của HTX, phần khác bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần mở rộng hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ HTXNN. Sắp xếp các chức danh quản lý của HTXNN, cần phân định rõ hai chức năng quản lý và chức năng điều hành HTX: chức năng quản lý do Ban quản trị hay Hội đồng quản trị thực hiện, chức năng điều hành do Ban chủ nhiệm HTX thực hiện. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện trên thực tế, điều đó không có nghĩa là hai chức năng này luôn luôn phải do hai con người khác nhau thực hiện, mà tùy điều kiện cụ thể ở từng HTX, các chức năng này có thể được kiêm nhiệm, chẳng hạn, Trưởng ban quản trị kiêm Chủ nhiệm HTX, nếu Trưởng ban quản trị là người vừa có năng lực quản lý, vừa có năng lực điều hành. Hình thức tổ chức như vậy sẽ mở ra cơ hội cho các HTXNN thuê những người có năng lực phù hợp làm Chủ nhiệm HTX và các chức danh điều hành khác. Trên cơ sở phân định các chức năng như vậy, các HTXNN cần mạnh dạn thực hiện việc thuê chủ nhiệm HTX và các chức danh quản lý khác của HTX, thu hút những người có năng lực quản lý từ nơi khác đến, không nhất thiết là đảng viên tham gia vào quản lý HTX, không giới hạn việc lựa chọn cán bộ HTXNN chỉ trong nội bộ xã viên HTX. Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn. Hiện nay, lao động nông thôn đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp, lực lượng lao động trẻ ở nông thôn chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất lớn. Có nơi, lao động nông thôn chưa qua đào tạo. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải được coi là chương trình quốc gia. Trước mắt, có thể bằng ngân sách nhà nước kết hợp với các chương trình, dự án và người lao động tự đóng góp để nhanh chóng nâng cao trình độ lao động nông thôn. 3.2.7. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp HTXNN là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao nhất trong HTX là Đại hội xã viên. Tuy nhiên, HTX nằm trong địa bàn nên sự phát triển của HTX có ảnh hưởng đến sự phát triển KT-HX trên địa bàn. Bởi vậy, các HTX phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, giúp đỡ của chính quyền địa phương. Đó là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả. Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua chủ trương, nghị quyết và vai trò gương mẫu của người đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền và có trách nhiệm kiểm tra, giám sát HTX trong việc tuân thủ luật pháp và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng tuyệt đối không được can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTX hoạt động theo pháp luật. Đối với HTX, ngoài mục tiêu kinh tế là hàng đầu còn phải đạt mục tiêu xã hội, góp phần xây dựng tính cộng đồng đoàn kết, tương trợ trong các xã viên của mình, song không thể biến nó thành tổ chức xã hội làm thay nhiệm vụ của hệ thống chính trị của địa phương. Tùy thuộc đặc điểm cụ thể của từng vùng về trình độ phát triển sản xuất hàng hóa, trình độ dân trí, tập quán... cần coi trọng việc lựa chọn các phương pháp tiến hành phù hợp trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền và HTX trên từng địa bàn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HTX hoạt động theo đúng Luật HTX và mang hiệu quả kinh tế, góp phần thực hiện tốt mục tiêu KT-XH của đại phương. - Các cấp uỷ Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những nội dung chủ yếu sau đây: Tiếp tục tổ chức học tập, tuyên truyền sâu rộng các quan điểm nêu trong Nghị quyết TW5 (khoá IX) trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng chương trình hành động cấp mình sát thực, có tác dụng thực tế thúc đẩy đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX. Chỉ đạo điểm, xây dựng mô hình mới, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn kịp thời sai sót, tổng kết phổ biến nhân rộng các điển hình tiên tiến. Tổ chức, hướng dẫn, phát triển tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên mới trong khu vực kinh tế HTX. Phát hiện, tuyển chọn, đào tạo cán bộ quản lý và giới thiệu để xã viên bầu vào Ban quản lý những cán bộ có đức, có tài, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế HTX trong cơ chế thị trường. - UBND tỉnh và các Sở. Căn cứ nghị quyết Ban Chấp hành TW Đảng về kinh tế tập thể, UBND tỉnh, huyện cần tạo điều kiện: Thủ tục thành lập HTX, thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời. Đối tượng tham gia làm thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhận pháp nhân. Không hạn chế mức góp vốn và các hình thức góp vốn. Có chế độ ưu đãi về đất đai, thuế, tài chính, tín dụng, hỗ trợ khoa học công nghệ, thị trường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Chính sách về cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế tập thể. UBND tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh, nhất là doanh nghiệp chế biến Nông- lâm -ngư- công nghiệp… chủ động xây dựng mối quan hệ, liên kết với các HTX để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển vùng nguyên liệu, cung ứng vật tư thu mua, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản. Bảo đảm sản phẩm của người nông dân sản xuất ra không qua tầng nấc trung gian ép cấp, ép giá, xem mối quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với HTX và kinh tế hộ nông dân là nội dung xây dựng quan hệ công nông trong giai đoạn mới. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp được tổ chức từ Trung ương đến cấp huyện: Phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh, Phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là những cơ quan tham mưu của Sở và Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của hệ thống này còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ và hiệu lực chưa cao. Ở cấp huyện, số cán bộ được phân công theo dõi thường là làm kiêm nhiệm, cán bộ vừa thiếu và không yên tâm tập trung cho nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế HTX. Bởi vậy, cần bố trí đủ lực lượng cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đối với Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Sở nên có từ 5-7 cán bộ. Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện, thị nên có từ 1-2 cán bộ, các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa nên có từ 2-3 cán bộ chuyên trách về kinh tế HTXNN. - Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN thông qua đào tạo bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến Trung ương, kết hợp với việc tham quan học hỏi kinh nghiệm trong nước và nước ngoài. - Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN. Đồng thời, cần cụ thể hóa việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 02 ngày 2-1-1997 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp đối với kinh tế HTXNN. Cùng với hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức xã hội như Hội nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên minh HTX trong việc tuyên truyền vận động giúp đỡ phát triển các hình thức kinh tế HTXNN phù hợp với điều kiện thực tiễn, và nhu cầu của nông dân ở từng địa phương. - Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn lao động tỉnh, Với chức năng của mình tích cực tuyên truyền, vận động giáo dục hội viên, đoàn viên tham gia phát triển các hình thức kinh tế tập thể, phát triển đoàn viên, hội viên và tổ chức Đoàn trong khu vực kinh tế tập thể, góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò làm chủ, làm giàu chính đáng cho mình và cho cộng đồng. - Phát huy vai trò của Liên minh HTX tỉnh và các huyện thị trong việc phát triển kinh tế hợp tác và HTXNN: Liên minh HTX tỉnh phải được tăng cường, củng cố về tổ chức bộ máy đủ mạnh nhằm thực hiện tốt chức, năng nhiệm vụ được giao; có kế hoạch đào tạo bối dưỡng cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ hỗ trợ. Tổng hợp tình hình kinh tế HTX, đề xuất cơ chế chính sách và các giải pháp hỗ trợ kịp thời giúp HTX phát triển để tham mưu cho Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo. Tăng cường các hoạt động đối ngoại của Liên minh HTX tỉnh, tranh thủ sự hỗ trợ, tài trợ của nước ngoài, nhất là các tổ chức phi Chính phủ; tổ chức tốt các hoạt động phối hợp, liên kết trong và ngoài tỉnh để phát triển kinh tế hợp tác. Liên minh HTX tỉnh phát huy vai trò tổ chức đại diện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức thành viên, đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc HTX thực chất. Phối hợp các cơ quan có liên quan giải quyết đúng, kịp thời các đơn thư khiếu kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của xã viên HTX. - Đối với các huyện, thị: Tích cực phối hợp cùng Liên minh HTX tỉnh và các ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, hướng dẫn phát triển kinh tế HTX trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế ở các địa phương; vận động các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp vốn thành lập HTX. Phối hợp cùng Liên minh HTX tỉnh tích cực chủ động tổ chức tổng kết đánh giá, phân loại giúp các HTX sắp xếp, đổi mới công tác quản lý và hoạt động phù hợp với từng loại hình; có biện pháp giải quyết dứt điểm những tồn tại của HTX trước đây. Thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của các HTX để giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX phát triển. Đề ra chương trình cụ thể sắp xếp, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX. KẾT LUẬN Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa và thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp, mở rộng số lượng, nâng cao chất lượng, đồng thời đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt động của HTX. Thực tiễn hơn 20 năm xây dựng và phát triển HTXNN ở tỉnh Quảng Nam đã trải qua biết bao biến cố thăng trầm phù hợp với lịch sử của dân tộc, vừa chứa đựng những nét phổ biến phù hợp với lôgích và lịch sử của quá trình phát triển, vừa có nét riêng vận dụng phù hợp với điều kiện, đặc điểm và tình hình phát triển KT-XH, tập quán và truyền thống của địa phương, cũng như sức sáng tạo của Đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Trên cơ sở mục tiêu và phạm vi của đề tài luận văn nghiên cứu đã được xác định: - Thông qua việc nghiên cứu các quan điểm cơ bản của C.Mác, Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng ta về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác và HTXNN. Những vấn đề cơ bản về HTXNN và những nhân tố tác động đến quá trình phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp, một số HTXNN tiên tiến trong nước, đồng thời những kinh nghiệm thực tiễn phát triển HTXNN ở nước ngoài với trình độ phát triển KT- XH khác nhau; truyền thống lịch sử, văn hoá khác nhau và hệ thống chính trị khác nhau. Luận văn đã tập trung đánh giá phong trào HTXNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam gắn với các mốc giai đoạn chuyển biến của của phong trào dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh Quảng Nam trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở phân tích quá trình tổ chức triển khai và kết quả hoạt động SX-KD của các HTXNN sau khi chuyển đổi theo Luật HTX đến nay, Luận văn đã cho thấy con đường chuyển đổi của các HTX và hình thành các HTX kiểu mới trong nông nghiệp là cần thiết để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, phát triển KT-XH nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Từ đó khẳng định những kết quả đạt được, những mặt còn hạn chế, đặc biệt tìm ra những nguyên nhân của quá trình phát triển HTXNN. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và vận dụng những lý luận phù hợp, luận văn đã đưa ra những giải pháp cơ bản để góp phần tiếp tục đổi mới và phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Thực tiễn phát triển HTXNN ở Quảng Nam đã cho thấy, một mặt, HTXNN cũng như mô hình của nó ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện KT-XH cụ thể, có mục đích, tổ chức và phương thức hoạt động không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, mặt khác, phương thức tiến hành xây dựng và phát triển các HTXNN tác động rất mạnh mẽ tới sự ra đời, tồn tại và phát triển của HTX. Bởi vậy, phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm tới không thể thoát ly đặc điểm vốn có của các HTXNN, những yêu cầu và nội dung về thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, bối cảnh và môi trường kinh doanh của thời đại, và phải luôn đổi mới để phù hợp với tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn. Phát triển HTXNN kiểu mới là xu hướng có tính quy luật. Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình phát triển đó cần phải thực hiện đồng bộ nhiều vấn đề liên quan, kết hợp ý thức tự giác, tự nguyện tổ chức và tham gia HTX của hộ nông dân với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng thông qua tạo lập môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, cơ chế chính sách, môi trường tâm lý - xã hội cho HTX, tổng kết thực tiễn quá trình phát triển HTXNN thời gian qua để nêu gương, nhân điển hình và phát triển các mô hình HTXNN phù hợp về tổ chức, quản lý, mục tiêu và phương thức hoạt động trong điều kiện KT-XH cụ thể của từng địa phương. NHỮNG KIẾN NGHỊ Trong quá trình thực hiện Luật HTX đã góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nông thôn, song qua thực tế Luật cũng đã bộc lộ một số nội dung cần bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp. Do HTXNN có đặc thù riêng quy định rõ các chương, điều khoản để phù hợp với đặc điểm riêng của HTX nông nghiệp. Có nhiều ý kiến đã đề nghị Quốc hội nên ban hành Luật riêng áp dụng đối với HTXNN. Các Bộ, ngành liên quan sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản, cụ thể hoá Nghị định 02,15,16/CP của Chính phủ. Đặc biệt là Nghị định 15/CP một nghị định quan trọng nhằm khuyến khích các HTX phát triển, trên cơ sở có đầy đủ và đồng bộ các văn bản thì xây dựng HTX mới thực hiện đạt kết quả. Đề nghị Ngành ngân hàng, ngành điện quan tâm giải quyết khoản nợ HTX vay trước khi chuyển đổi như: xây dựng trạm điện, cải tạo đồng ruộng, nâng cấp kênh mương… cho HTXNN được tổ chức tín dụng nội bộ và được dùng tài sản thuộc sở hữu tập thể thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Chính phủ giao cho các Bộ ngành liên quan cần quan tâm ưu tiên kinh phí và giao cho các trường đào tạo cán bộ quản lý nông nghiệp, các trường Đại học, Trung học Nông- Lâm ở các Tỉnh xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp- nông thôn hiện nay. Để khuyến khích phát triển và khôi phục làng nghề nông thôn đề nghị Nhà nước có chính sách ưu đãi về ngành nghề nông thôn như chế biến nông- lâm sản. may mặc, giày da, cơ khí nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng…đồng thời khuyến khích các cơ sở nông nghiệp dịch vụ ở thành phố liên doanh liên kết, hợp đồng gia công hỗ trợ kỹ thuật, vốn, tìm thị trường giúp các HTXNN phát triển ngành nghề tiểu thủ nông nghiệp. Ưu tiên chính sách thuế đối với các sản phẩm ngành nghề sản xuất ở nông thôn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Nhân dân, ngày 01/11/2005. 2. Báo Doanh nghiệp và Doanh nhân, 17/4/2006 3. Chính phủ nước cộng hoà XHCN Việt Nam: Nghị định 16/CP ngày 21/2/1997 về xử lý công nợ đối với HTX. 4. Chính phủ nước cộng hoà XHCN Việt Nam (21/2/1997), Nghị định 15/CP về chính sách khuyến phát triển HTX. 5. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (5/4/1988), Nghị quyết Bộ Chính trị: Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển KT-XH đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (24/5/1996), Chỉ thị số 68/CT-TW về "Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, lĩnh vực kinh tế", Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCHTW Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ. 14. Lâm Quang Huyên (2004), Kinh tế nông hộ và Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Việt Nam, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 15. Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam (2003), Báo cáo tình hình kinh tế hợp tác - HTX tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. 16. Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam (2000-2004), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua khối kinh tế hợp tác và HTX tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. 17. Liên minh HTX Việt Nam (2004), Một số vấn đề cơ bản về HTX, Nxb Lao động, Hà Nội. 18. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, T38, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 19. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, T43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 20. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, T.45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 21. V.I.Lênin (1977), Bàn về chế độ hợp tác xã, Nxb Sự thật, Hà Nội. 22. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T18, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 23. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T22, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 24. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 25. C. Mác, Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, T23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 26. Hồ Chí Minh (1976), Về cách mạng XHCN, Nxb Sự thật, Hà Nội. 27. Hồ Chí Minh (1976), Về Kinh tế HTX, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Nguyễn Thế Nhã - Vũ Đình Thắng (2004), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội. 29. Nguyễn Cứu Quốc (2005), Đề tài khoa học “Mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp ở Quảng Nam- Bước đi và giải pháp”. 30. Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam (2003), Luật HTX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Lưu Văn Sùng - Ngô Quang Minh - Nguyễn Phong Duễ - Ngô Huy Đức - Lê Minh Quân - Nguyễn Thanh Quang (2001), HTX Duy Sơn 2: Những gợi mở từ thực tiễn về con đường đưa nông nghiệp nông thôn lên CNXH. 32. Tỉnh uỷ Quảng Nam, Chương trình hành động thực hiện Nghị TW5 Khoá IX- “Tiếp tục đổi mới và nâng cai hiệu quả kinh tế tập thể”, Tam Kỳ. 33. Tạp chí nghiên cứu kinh tế (1989), Hợp tác hoá trong nông nghiệp- Tình hình và kinh nghiêm nước ngoài. 34. Tạp chí của Tổng cục Thông kê (2006), Con số và Sự kiện, (số 3). 35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Báo tổng kết công tác quản lý HTXNN tỉnh Quảng Nam năm 2005, Tam Kỳ. 36. Hồ Văn Vĩnh - Nguyễn Quốc Thái (2005), Mô hình phát triển HTXNN ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.pdf
Luận văn liên quan