Luận văn Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số Thanh Hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhu cầu phát triển tất yếu của các quốc gia song mỗi nước đều có những mô hình phát triển riêng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và các đặc trưng về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa của từng nước. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao".

pdf61 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số Thanh Hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 Thường Xuân 10,0 0,138 11,4 0,135 15,0 0,120 19,4 0,008 10 Như Thanh 8,0 0,120 8,8 0,125 11,6 0,140 13,8 0,138 11 Như Xuân 6,7 0,133 7,4 0,130 9,8 0,140 13,0 0,127 Tổng cộng 93 1,419 103,3 1,353 115,0 1,400 170,6 1,457 Hầu hết các huyện miền núi đều thực hiện công tác tài chính theo đúng chế độ của Trung ương và các chính sách ưu đãi của tỉnh. Đặc biệt trong 4 năm, ngân sách địa phương bổ sung cho giáo dục phổ thông đã tăng từ 93 tỷ lên 170,6 tỷ đồng, tăng 77,6 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 19,4 tỷ đồng. Đây là sự cố gắng vượt bậc của miền núi Thanh Hóa trong điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. + Đào tạo nguồn nhân lực: Hệ thống đào tạo của tỉnh Thanh Hóa đã có đủ các loại trình độ, từ dạy nghề ngắn hạn, tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ đến cao đẳng, đại học ở cả hai hình thức chính quy và không chính quy. Việc thành lập đại học Hồng Đức đánh dấu một bước phát triển mới về chất của sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh Thanh Hóa, đặc biệt là đào tạo nhân lực có trình độ cao. Đối với các huyện miền núi của Thanh Hóa, trong những năm gần đây, số lượng lao động qua đào tạo đã tăng nhanh (như phân tích ở trên) đặc biệt là ở lĩnh vực dạy nghề ngắn hạn, tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, bồi dưỡng kỹ thuật nghề nghiệp cho người lao động và dạy nghề cho học sinh phổ thông. Đặc biệt đã quan tâm và mở rộng các hình thức bồi dưỡng, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ, công chức từ cơ sở đến cấp huyện như: đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ (số lượng tập trung chủ yếu ở Trường Chính trị tỉnh). 2.3. Nguyên nhân, những thành tựu, những hạn chế của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa 2.3.1. Nguyên nhân và những thành tựu của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa Miền núi Thanh Hóa có địa hình phức tạp, điểm xuất phát về kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất hàng hóa của nhân dân còn thấp kém, tuy vậy trong những năm gần đây bước đầu đã đạt được những thành tựu, đó là: Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã sớm nhận thức được vấn đề dân số trong phát triển, đặc biệt là tốc độ tăng nhanh dân số sẽ gây áp lực lớn để đảm bảo đời sống và cải thiện đời sống cũng như phát triển nguồn nhân lực nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của vùng nói chung. Chất lượng nguồn nhân lực của các dân tộc thiểu số Thanh Hóa đã nâng cao một bước, thể hiện ở mặt bằng dân trí: trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của dân số và nguồn nhân lực cũng như đời sống của nhân dân đang từng bước được cải thiện. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực tăng lên...% trong vòng 5 năm (từ 1999-2003), bình quân mỗi năm tăng....%, trong đó nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật cao ngày càng tăng và tương đối đa dạng về ngành nghề đào tạo. Đời sống của nhân dân nói chung, lực lượng lao động nói riêng liên tục được cải thiện (cả vật chất và tinh thần) do kinh tế liên tục tăng trưởng, mức sống được nâng lên rõ rệt so với những năm trước đây. Thanh Hóa là tỉnh có hệ thống trường, lớp đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ trường dạy nghề, sơ cấp nghiệp vụ đến đại học, đã đóng góp một phần quan trọng trong việc hình thành đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng đông đảo trong tổng số lao động toàn tỉnh nói chung, các dân tộc thiểu số nói riêng. Bước phát triển của đào tạo nhân lực đã gắn liền với những thành tựu về kinh tế, xã hội mà Đảng và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đạt được trong các thời kỳ phát triển đã qua. Nguyên nhân thành công: Trước hết, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã tập trung mọi nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục, đào tạo và công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống dân cư. Hai là, phát huy nội lực của địa phương, tranh thủ cao sự hỗ trợ của Trung ương, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư bên ngoài (vốn, công nghệ, thị trường) thông qua các chương trình, dự án đầu tư lớn tạo ra sự chuyển đổi về cơ cấu và bứt phá về tốc độ phát triển như công nghiệp mía đường, công nghệ chế biến nông sản, xi măng, hệ thống giao thông... Ba là, có cơ chế quản lý mới phù hợp để giải phóng sức sản xuất, phát huy vai trò của yếu tố con người đồng thời tăng cường vai trò điều hành vĩ mô của chính quyền địa phương. Do vậy bước đầu đã huy động được các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực. 2.3.2. Nguyên nhân và những tồn tại, hạn chế của vấn đề phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa Bên cạnh những thành tựu đã đạt được do các nhân tố mới về chất lượng nguồn nhân lực đem lại, vẫn còn những tồn tại, hạn chế: Một là, do sự phát triển quá nhanh của dân số trong bối cảnh nền kinh tế chưa phát triển, y tế, giáo dục và đào tạo cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản chưa đáp ứng kịp, đã và đang gây sức ép lớn về nhu cầu học tập, đào tạo và việc làm. Chất lượng dân số còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu cao về nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Hai là, tuy có lực lượng lớn và tăng nhanh trong vài năm gần đây nhưng nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa lại tập trung ở nông thôn là chủ yếu, lao động làm việc trong các khu vực kinh tế khác còn rất ít. Các ngành nông, lâm nghiệp sử dụng trên 80% lực lượng lao động của vùng; cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm chạp. Ba là, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa còn quá thấp, mới chỉ có 9,49% lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp học nghề trở lên trong đó trình độ lao động từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chỉ chiếm 2,8%, còn 90,51% là lao động giản đơn có tính chất truyền thống không qua đào tạo. Do đó trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa thấp hơn các vùng, miền trong tỉnh. Bốn là, sự hình thành các nguồn lao động còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chưa đáp ứng kịp với công nghệ CNH, HĐH. Việc sửa dụng nguồn nhân lực cũng đặt ra nhiều vấn đề tồn tại phải giải quyết, hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn thấp dưới 70%, năng suất lao động thấp, đời sống khó khăn đang đòi hỏi phải có những giải pháp cấp bách về chuyển đổi cơ cấu phân công lao động xã hội đi đôi với chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH để tăng nhanh năng suất lao động xã hội, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Năm là, công tác đào tạo nguồn nhân lực ở miền núi Thanh Hóa còn nihều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề và chất lượng, hiệu quả đào tạo, chưa đáp ứng kịp đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực đã qua đào tạo phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng trong giai đoạn mới. Nguyên nhân của tồn tại trên là do mất cân đối trong đào tạo nhân lực kỹ thuật, cũng như khai thác và phát huy tiềm năng con người cho sự phát triển. Mặt khác, thực tế hiện nay chưa gắn kết giữa đào tạo với quản lý sử dụng lao động qua đào tạo và giải quyết việc làm. Mặc dù có một số lượng không nhỏ lao động đã qua đào tạo nhưng lại gặp không ít khó khăn khi tìm việc làm. Do đó, với thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật như hiện nay, miền núi Thanh Hóa cần quan tâm phát triển đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhiều hơn nữa. Cần có kế hoạch, quy hoạch cụ thể dựa trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đào tạo nguồn nhân lực phải được tính toán, cân đối chặt chẽ và đi trước một bước. Phải coi phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội là hai quá trình có mối quan hệ tác động qua lại, vừa là động lực, vừa là kết quả của nhau. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế: Tàn dư của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp cộng với tập quán canh tác lạc hậu, kém hiệu quả đã làm cho nhân lực miền núi Thanh Hóa thiếu tính năng động theo cơ chế thị trường dẫn đến sự chuyến kinh tế - xã hội chậm so với yêu cầu. Bên cạnh đó, việc phân công và sử dụng lao động còn kém hiệu quả, đầu tư cho con người chưa đáp ứng được đòi hỏi hiện nay. Công tác đào tạo nhân lực chịu sự tác động trực tiếp của cơ chế thị trường, trình độ phát triển và quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Do tốc độ tăng trưởng kinh tế và bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng còn chậm nên công tác phát triển, đào tạo nhân lực gặp nhiều khó khăn. Mặt bằng chất lượng giáo dục phổ thông chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế, học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp chưa có sức cạnh tranh cao trong các kỳ thi, đối tượng học sinh là người dân tộc đủ điều kiện để được cử tuyển vào đại học của các địa phương trong các năm qua còn chưa vượt qua chỉ tiêu được tuyển. Công tác giáo dục lao động - hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh phổ thông còn nhiều hạn chế. Tâm lý phổ biến của học sinh và cha mẹ học sinh chủ yếu vẫn mong muốn học đại học, cao đẳng chứ không muốn đi học nghề hoặc trung học chuyên nghiệp. Công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông còn nhiều khó khăn, bất cập. ở khu vực miền núi, các cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước hạn chế về số lượng và quy mô nên đã không thu hút được lực lượng lao động, không kích thích được nhu cầu đào tạo tạo nghề của lực lượng lao động. Mức thu nhập ở khu vực miền núi thấp không đủ khả năng chi phí cho đào tạo nghề. Đầu tư cho công tác đào tạo nhân lực từ ngân sách nhà nước của các huyện miền núi chưa đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo. Tỷ trọng thu hút các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo nhân lực chưa cao, chưa tận dụng được các nguồn kinh phí từ liên doanh, liên kết đầu tư nước ngoài. Cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho đối tượng lao động có thu nhập thấp vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và không thường xuyên. Từ sự phân tích những hạn chế, yếu kém nêu trên cho thấy, sự nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa đang đứng trước những thách thức lớn: Nguồn nhân lực chưa qua đào tạo còn quá cao làm cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động rất khó đẩy lên tốc độ nhanh hơn. Nếu không kịp thời khắc phục, tình trạng này sẽ làm cho nguy cơ tụt hậu ngày càng đến gần, không đủ khả năng thực hiện phương châm "miền núi tiến kịp miền xuôi". Yêu cầu chất lượng trong đào tạo ngày càng cao, nhưng năng lực hạn chế, chưa kịp tương xứng, cơ sở vật chất và sự chi phối của cơ chế thị trường trong đào tạo luôn biến động đã làm cho lực lượng nhưng không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động trong tỉnh, trong và xuất khẩu, tức là khả năng còn thấp kém. Đây chính là câu hỏi đang đặt ra cho các cấp, các ngành huyện, miền núi trong tỉnh phải giải quyết đồng bộ và có hiệu quả. Chương 3 Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong những năm gần đầu thế kỷ XXI, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện đại hoá đất nước đang đứng trước những thử thách gay gắt trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và khu vực hoá phát triển mạnh mẽ trong những năm qua và tiếp tục là xu thế phát triển của thế kỷ XXI. Quá trình này thể hiện rất rõ ở sự gia tăng nhanh trong trao đổi quốc tế và hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho nền kinh tế thế giới biến đổi sâu sắc mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây không phải là sự biến đổi bình thường mà là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đối với Việt Nam, đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là yếu tố quyết định để khơi dậy các nguồn lực còn tiềm ẩn và tạo ra sức bật mới đưa đất nước ta phát triển, tạo điều kiện chủ động hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Trên cơ sở dự báo thị trường quốc tế và khả năng thu hút đầu tư vào các lĩnh vực có liên quan, tỉnh Thanh Hoá có những lợi thế từ những mặt hàng, dịch vụ xâm nhập được vào thị trường quốc tế như: đá ốp lát, bột giấy song mây, thuỷ sản đông lạnh, (tôm, mực, cá ), súc sản đông (bò, lợn), nông sản (gạo, lạc đậu tương, đường) và một số khoáng sản, một số sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như may mặc, giầy dép, tơ lụa, hàng thủ công mĩ nghệ, xi măng... xuất khẩu lao động. Đối với thị trường trong nước, kinh tế tỉnh Thanh Hoá phát triển sẽ có nhiều sản phẩm và để sức cạnh tranh trước hết là chiếm lĩnh thị trường nông thôn của tỉnh, thị trường địa phương phụ cận đồng thời, phát triển mạng lưới dịch vụ xuất nhập với các tỉnh và thành phố phía Bắc, tạo thế vươn ra thị trường các vùng khác. Những hoạt động dịch vụ có thể đáp ứng được nhu cầu trong tỉnh và trong nước là dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch tham quan di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh, du lịch biển... Miền núi Thanh Hóa là vùng có tài nguyên khoáng sản phong phú, có điều kiện mặt bằng xây dựng công nghiệp thuận lợi đặc biệt có ưu thế về phát triển lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, chè, cây ăn quả. Vùng đồi thấp có khả năng phát triển cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu tương... Giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế miền núi thanh Hóa là tập trung đầu tư xây dựng công nghiệp chế biến các sản phẩm gắn với vùng sản xuất nguyên liệu tại chỗ như: mía đường, hoa quả, bánh kẹo... nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn miền núi để thu hút lao động tại chỗ và lao động các vùng khác trong tỉnh. Mặt khác, trong bối cảnh cả nước, cả tỉnh luôn có sự mở rộng, biến đổi sẽ xuất hiện nhiều cơ hội để miền núi Thanh Hóa có bước phát triển nhanh, do đó đặt ra yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ở mức độ cao hơn. Từ việc phân tích những thành tựu và hạn chế của việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong thời kỳ bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa đến nay, đặc biệt là thời kỳ 1999 - 2003, tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị góp phần phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của miền núi Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.1. Một số giải pháp cụ thể 3.1.1. Đổi mới ý thức, tâm lý, tư duy của người lao động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội Miền núi Thanh Hóa có 7 dân tộc cùng sinh sống, địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc chủ yếu trên các vùng xa xôi, hẻo lánh, có truyền thống tâm lý, xã hội bền vững, sống thành từng làng, bản nhỏ. Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, bảo vệ môi trường và sức khỏe, nâng cao dân trí gặp nhiều trở ngại. Mặc dù Nhà nước đã cố gắng rất nhiều để mở rộng công tác giáo dục lên vùng cao, song chưa đủ các điều kiện vật chất để nâng cao dân trí ở vùng miền núi, vùng đồng bằng và đô thị. Do dân trí thấp nên việc tìm hiểu, nắm bắt thông tin, tiến bộ của khoa học kỹ thuật còn rất hạn chế, miền núi Thanh Hóa đời sống còn khó khăn. Đáng chú ý là do dân trí thấp, cuộc sống lại khó khăn nên đồng bào vùng núi cao dễ tin vào những điều thần bí, dễ bị dụ dỗ, lôi cuốn vào những hoạt động tôn giáo, mê tín dị đoan. Các thế lực thù địch luôn lợi dụng những đặc điểm tâm lý của bà con các dân tộc vùng cao để lôi kéo họ vào các hoạt động tôn giáo và chính trị hòng chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Do đó vấn đề dân tộc, tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm ở vùng núi cao. Do bị chi phối bởi các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù như trên, đặc biệt là do tập quán canh tác lạc hậu, nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa chưa thực sự góp phần làm thay đổi được tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn và bất cập hiện nay. Tác giả cho rằng đổi mới ý thức, tâm lý, tư duy của người lao động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là công việc cấp thiết, lâu dài, chiến lược và có ý nghĩa tạo nền tảng vững chắc cho việc phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa. Đối với giải pháp này, theo tác giả, trước hết là tích cực truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến đồng bào các dân tộc. Xét về mặt dân trí thì nhân dân ở miền núi Thanh Hóa có trình độ dân trí thấp hơn miền xuôi nhưng xét về trình độ giác ngộ cách mạng, ý thức về sự nghiệp chung thì nhân dân ở đây có ý thức rất cao, không hề kém miền xuôi và đô thị. Truyền thống cách mạng đã ăn sâu vào tâm thức của đồng bào. Vì vậy, khi hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chính sách về kinh tế, về vấn đề tôn giáo, dân tộc, đồng bào các dân tộc thiểu số sẽ nhanh chóng tiếp thu, vận dụng, phát huy được tính chủ động sáng toạo của bản thân và ý thức rõ được trách nhiệm của họ đối với gia đình, quê hương. Mặt khác, để thay đổi được tư duy trong phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng lao động dân tộc thiểu số rất cần được tiếp cận với các hoạt động trợ giúp về kiến thức như: tập hua án chuyển giao khoa học kỹ thuật, tham gia các hội thảo, các dự án... để dần thay đổi tập quán canh tác cổ truyền kém năng suất, mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ vaòi phát triển kinh tế và chủ động trong cách thức tìm kiếm thị trường cho sản phẩm. Do vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác tập huấn và ưu tiên các dự án hỗ trợ trong và ngoài nước cho các huyện miền núi, để người lao động ở đây có điều kiện tiếp cận với thông tin và kỹ thuật, bổ sung những yếu tố cần thiết để họ góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Trung ương II (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV, sự nghiệp phát triển đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Thanh Hóa nói chung, đặc biệt là miền núi Thanh Hóa cần gắn liền với các mục tiêu kinh tế - xã hội của các địa phương, ưu tiên cho các ngành nghề phù hợp với các đặc điểm của vùng miền và các ngành kinh tế địa phương có thế mạnh như lâm nghiệp, sản xuất chế biến các sản phẩm nông lâm nghiệp, kinh tế trang trại, kinh tế rừng. Để thực hiện được mục tiêu đào tạo nhân lực, phải coi đây là sự nghiệp của toàn xã hội, của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, trách nhiệm của mọi gia đình và của bản thân mỗi người lao động. Tác giả cho rằng đào tạo nhân lực cho miền núi Thanh Hóa cần quan tâm đầu tư phát triển cả hệ thống cơ sở, tiền đề cho việc đào tạo nhân lực. Nếu coi đào tạo nhân lực là một quá trình, thì quá trình đó bao gồm: củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nhân lực. 3.1.2.1. Củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông Nâng cao trình độ học vấn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Để đạt được chất lượng trong giáo dục phổ thông bố trí giáo viên đủ về số lượng và chủng loại, chuẩn về trình độ. Đẩy mạnh đào tạo chuẩn, đào tạo trên chuẩn, ưu tiên cho đối tượng giáo viên người địa phương và giáo viên tình nguyện công tác lâu dài tại miền núi. Về mặt tài chính: cần ưu tiên các chương trình tài trợ như các dự án ODA, CIDA, WB... cho việc xây dựng, kiên cố hóa trường lớp học, nhà ở cho giáo viên và tăng cường trang thiết bị thí nghiệm, thực hành. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao thể lực, bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, cải thiện vệ sinh môi trường sống là yêu cầu bức xúc hàng đầu nhằm đáp ứng đòi hỏi về chi phí và cường độ lao động ngày càng cao khi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được đẩy mạnh. Nâng cao thể lực là nâng cao sức khỏe nhân dân và phải được coi như là sự đầu tư cơ bản, phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Khi đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình đẩymạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã khẳng định: Sự cường tráng của thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản vật chất và trí tuệ cho xã hội. Chỉ có những người khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần mới có thể nâng cao sức mạnh của bản thân, bắt nhịp được với cuộc sống hiện đại. Họ làm việc dẻo dai, có khả năng tập trung về trí tuệ khi làm việc, có sức mạnh của niềm tin và ý chí để làm tốt công việc. Vì vậy, tác giả cho rằng trong giai đoạn đào tạo, chuẩn bị cho nguồn nhân lực, cần kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức và rèn luyện thể lực cho học sinh phổ thông. Điều cơ bản hơn là giáo dục để học sinh có đủ nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện thể lực, tạo điều kiện để học sinh hình thành thói quen rèn luyện. Tuy nhiên, việc rèn luyện thể lực phải luôn kết hợp với việc cải thiện nhu cầu dinh dưỡng, cải thiện môi trường sống. ở lĩnh vực này, công tác hướng nghiệp trong nhà trường là vô cùng quan trọng. Rất cần tăng cường công tác hướng nghiệp để trước khi tốt nghiệp, học sinh phổ thông có đủ kiến thức, nhận thức lựa chọn ngành nghề mà địa phương đang cần và phù hợp với năng lực của mình, đảm bảo thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngay năm đầu tiên. 3.1.2.2. Đào tạo nguồn nhân lực Ngày nay, cách mạng khoa học - công nghệ cùng với sự ra đời của kinh tế tri thức đã đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực. Để yếu tố nhân lực thực sự trở thành một lợi thế so sánh trong hội nhập và trong cạnh 4tranh trên thị trường thì lao động nhất thiết phải được nâng cao theo xu hướng và chuẩn mực của khu vực và quốc tế. Đối với miền núi tỉnh Thanh Hóa, lực lượng có chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp, do đó cần phải phát triển cả số lượng và chất lượng, đặc biệt là nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số ngành mũi nhọn. Mục tiêu của phát triển nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa là hình thành đội ngũ nhân lực lao động đông đảo, đồng bộ về cơ cấu, trình độ và cơ cấu ngành nghề hợp lý. Bồi dưỡng đội ngũ lao động về tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc, lòng yêu quê hương, gia đình, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập thân, lập nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống bản thân, gia đình và góp phần tích cực xây dựng quê hương giàu mạnh. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hành nghề cao, quan tâm đến hiệu quả công việc, có tác phong công nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Phát triển lực lượng nòng cốt của đội ngũ nhân lực bao gồm đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, kỹ thuật viên trung cấp, cao đẳng, các chuyên gia và các cán bộ khoa học - công nghệ... đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu trên, tác giả cho rằng cần các giải pháp: Một là, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật, trang bị đầy đủ kiến thức cho người lao động để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo nghề. Cần có các loại hình, hệ đào tạo thích hợp thông qua các trường chính quy, không chính quy, công lập, ngoài công lập, dài hạn và ngắn hạn và đặc biệt đối với nông thôn, miền núi là hình thức chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ thông qua công tác khuyến nông, khuyến lâm để thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Trong điều kiện mới, các loại hình đào tạo đang được đa dạng hóa, cần thay đổ quan niệm và mở rộng khái niệm công nhân kỹ thuật và thay vào đó là lao động đã được đào tạo nghề. Như vậy tất cả những người đã qua các lớp đạo tạo nghề dù là ngắn hạn hay dài hạn và bằng bất cứ hình thức đào tạo đều được coi là có nghề và có nhiều cơ hội để tham gia vào lao động trong các thành phần, các loại hình kinh tế. Tác giả đồng tình và ủng hộ dự án đầu tư xây dựng mới Trường Công nhân Kỹ thuật Ngọc Lặc để đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của 11 huyện miền núi Thanh Hóa. Cải tiến nội dung, chương trình đào tạo nghề như biên soạn giáo trình tài liệu, thiết bị thực hành phải phù hợp với yêu cầu dạy và học, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất, thiên bộ kỹ thuật, thiết bị và công nghệ mới. Nội dung chương trình phải đảm bảo tính giáo dục, đào tạo toàn diện. Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm làm cho người học nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, có năng lực thực hành cải tiến chương trình giảng dạy, thực hiện đào tạo học vấn, kỹ năng cơ bản tại trường và tạo kỹ năng chuyên nghiệp tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Chú trọng đồng thời cả ba nội dung: kỹ năng - tay nghề, kiến thức hiểu biết lý thuyết về nghề nghiệp, xã hội và thái độ - cách ứng xử trong hoạt động sản xuất và trong xã hội. Tăng cường các môn học cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (ngoại ngữ, tin học...). Về nguồn lực tài chính: Bổ sung cho các huyện miềnnúi củatỉnh ngân sách dành cho đào tạo phát triển nhân lực. Tăng tỉ lệ nguồn tài chính của các chương trình đầu tư phát triển cho công tác đào tạo nhân lực khối miền núi. Hai là, đổi mới công tác giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp, đổi mới công tác tyển sinh vào các trường trung học chuyên nghiệp trong tỉnh và đại học Hồng Đức để có một cơ cấu đào tạo hợp lý giữa các bậc đào tạo; đổi mới cơ cấu kiến thức, trang bị các kiến thức cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước gắn đào tạo với sử dụng, thực hiện xã hội hóa đào tạo: người học, người sử dụng và Nhà nước cùng chịu chi phí đào tạo, nhiều thành phần kinh tế tham gia công tác đào tạo. Mục tiêu phát triển các ngành nghề đào tạo trước mắt và lâu dài là tạo nguồn nhân lụ có trình độ phục vụ các vùng kinh tế, các khu công nghiệp của vùng và các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Vì vậy cần có chính sách, biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ: có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đạo tạo các cán bộ đầu đàn cho những ngành công nghệ then chốt; có chính sách hấp dẫn thu hút lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ cao, các thạc sĩ, tiến sĩ về công tác tại miền núi. Đây chính là những tiện đề tạo ra bước phát triển đột phá trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của miền núi Thanh Hóa mà nguồn nhân lực tham gia đóng góp. Ba là, ngoài nhu cầu trí tuệ, sức khỏe nguồng nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cận có phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân vì phẩm chất đáo đức làm cho con người biết sống cao đẹp, sống có ý nghĩa, biết hướng tới cái đúng, cái hợp lý, biết đoàn kết hợp tác trong lao động nhân thêm sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Vì vậy cần phải chú trọng nhiều hơn và có giải pháp thích hợp để bồi dưỡng, tăng cường phẩm chất đạo đức cách mạng của nguồn nhân lực, bao gồm các khía cạnh về tính cần cù, tinh thần vươn lên, nghị lực vượt mọi khó khăn, gian khổ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin, có truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm trong mọi hoạt động lao động, có kỷ luật, tác phong công nghiệp, có khả năng hợp tác với đồng nghiệp, ý chí phấn đấu thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ cá nhân. Đối với nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa với truyền thống và những giá trị tốt đẹp của con người nơi đây, chắc chắn rằng có giải pháp phù hợp thì mục tiêu này sẽ được phát huy tối đa và bền vững trong mọi giai đoạn của đất nước. 3.1.3. Tạo việc làm nhằm sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001-2010 và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV đã chỉ rõ: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông thôn, khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, du nhập và phát triển các nghề mới đẩy mạnh phong trào thanh niên lập nghiệp và xuất lhẩu lao động. Khuyến khich và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế mở mang ngành nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, nhất là các cơ sở có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chương trình chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã mở ra một hướng mới và rộng lớn để các vùng miền kinh tế trong tỉnh có điều kiện phát triển nguồn nhân lục phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội của từng địa phương. Trong phạm vi của miền núi Thanh Hóa, tác giả mạnh dạn xây dựng giải pháp: 3.1.3.1. Khôi phục nghề truyền thống, xây dựng các làng nghề Trong phân công lại lao động khu vực nông thôn miền núi cần hướng vào việc phân công lại lao động tại chỗ là chủ yếu: Thông qua đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi, phát triển và mở rông các hoạt động ngành nghề, sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống và các hoạt động dịch vụ nông thôn cho phù hợp với yêu cầu ngày câng còa của sản xuất và đời sống. Miền núi Thanh Hóa không chỉ sản xuất nông lâm truyền thống mà do yêu của thị trường, đòi hỏi phải có những sản phẩm mới có giá trị không chỉ cho tiêu dùng trong vùng, trong nước mà cho xuất khẩu. Với phương châm "ly nông bất li hương", từng bước giảm tương đối và thuyệt đối số lao động chuyên làm nông lâm nghiệp sang làm các ngành nghề mới. Để có sự chuyển dịch cơ cấu, phân công lao động trên đây, tác giả cho rằng Đối với các dân tộc thiểu số Thanh Hóa, giai đoạn hiện nay rât cần phát triển các ngành nghề: thêu ren,dệt thổ cẩm sản xuất mây tre đan, sản xuất nứa cuốn. Cơ sở cho việc đề xuất giải pháp này: Một là, đối với miền núi Thanh Hóa, hệ số sử dụng thời gian lao động còn rất thấp (dưới 70%)lao động thủ công phân tán, nông nghiệp là chủ yếu, đời sống còn khó khăn đang đòi hỏi những giải pháp cấp bách về tạo việc làm, chuyển đổi cơ cấu phân công kinh doanh xã hội và cải thiện đời sống. Những ngành nghề nêu trên rất phù hợp với lao động nông thôn bở vì người lao động có thể tham gia sản xuất bằng cách tận dụng mùa vụ nông nhân, thời gian rỗi trong ngày để tham gia lao động. Hai là, với tiềm năng dồi dào về nguyên liệu cùng với sự khéo léo và cần cù của đồng bào dân tộc thiểu số Thanh Hóa, những ngành nghề: thêu ren, dệt thổ cẩm, sản xuất mây tre đan sẽ trở thành ngành nghề sử dụng lao động thiếu việc làm tại nông thôn hiệu quả nhất. Do vậy các ngành nghề trên chính là những ngành làm cơ sở cho việc phát huy lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế của vùng. Tuy nhiên để phát triển được các ngành nghề này, một yêu cầu rất quan trọng đặt ra là cần tìm kiếm thị trường tiêu thụ để sản phẩm làm ra được tham gia thị trường, đem lại lợi ích kinh tế thiết thực cho người lao động. Do đó, đội ngũ nguồn nhâ lực then chốt trong ngành phải được đào tạo kỹ năng giao dịch với đối tác, tiếp cận với nhiều loại hình thị trường khác nhau để không ngừng mổ rộng biên độ của ngành nghề. 3.1.3.2. Tăng cường xuất khẩu lao động Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội mang tính toàn cầu đang được các quốc gia quan tâm hành động chung để giải quyết như nghèo đói, phát triển nguồn nhân lực, công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, bình đẳng, tiến bộ và công bằng xã hội, an ninh xã hội. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ diễn ra sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt hơn, đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh. Lúc này ưu thế cạnh tranh nghiêng về các quốc gia có nền chính trị, xã hội an toàn và ổn định, môi trường và thể chế thuận lợi cho đầu tư và có nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và đổi mớicong nghệ một cách nhanh chóng. Thong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều cơ hội tạo việc làm mới ở ba lĩnh vực: đàt thu trực tiếp nước ngoài với công nghệ cao và khoa khọc quản lý hiện đại; doanh nghiệp sản xuất và gia công hàng xuất khẩu với công nghệ sử dụng nhiều lao động mà Việt Nam có ưu thế (dệt may, giày da, thủ công mỹ nghệ, chế biến nông lâm, thủy sản...), xuất khẩu lao động và chuyên gia. Trong đó xuất khẩu kinh doanh và chuyên gia là hướng mũi nhọn tạo việc làm và thúc đẩy tham gia vào thị trường lao động quốc tế và khu vực. Đối với vùng dân tộc thiểu số Thanh Hóa, với hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn thấp, tỉ lệ nhân lực thiếu việc làm còn phổ biến thì đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp có hiệu quả cao. Bởi vì: Thứ nhất, tham gia xuất khẩu lao động, người lao động được đến làm việc ở một số nước trong khu vực và trên thế giới sẽ có điều kiện trực tiếp tiếp thu công nghệ và tác phong làm việc của nước ngoài, làm cho bản thanh có tư duy và tác phong năng động hơn đồng thời trong một thời hạn nhất định (thông thường là 3 năm) lao động sẽ có một khoản thu nhập cao, cải thiện cuộc sống gia đình, xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Thứ hai, trước khi xuất cảnh, lao động đều được đào tạo nghề. Mặt khác, nhiều nước nhập khẩu lao động hiện nay như: Malayxia, Đài Loan, Hàn Quốc, Arập Xê út... đã tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề cho lao động nước ngoài. Như vậy, sau khi hết thời hạn lao động ở nước ngoài, lao động trở về có đủ điều kiện tham gia vào các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh, giảm boet số lượng lao động phải đào tạo nghề tại địa phương, đảm bảo công ăn việc làm cho bản thân. Tuy nhiên, để tăng cường xuất khẩu lao động tại vùng các dân tộc thiểu số Thanh Hóa thì công việc cần được quan tâm là tăng cường công tác thông tin về thị trường lao động: phát triển mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, đẩy mạnh tư vấn về lao động, tư vấn lập dự án tạo việc làm. Xây dựng mạng lưới thông tin thị trường xuất khẩu lao động từ cấp thôn, xã, huyện nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Nhà nước, pháp luật lao động, chính sách cho vay vốn đi lao động ở nước ngoài. Mặt khác, cần thực hiện đa dạng hóa thị trường vàcác tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động, đa dạng hóa hình thức và ngành nghề. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề và tự đào tạo chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật cho người lao động để tạo nguồn lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đồng thời, cần ban hành một số chính sách ưu tiên phù hợp để khuyến khích tạo mới việc làm, đặc biệt là chính sách cho người lao động là người dân tộc thiểu số cận nghèo được vay vốn không phải thế chấp, lãi suất ưu đãi và trả dần hàng tháng vằng thu nhập thông qua các công ty xuất khẩu lao động. Giảm bớt phiền hà trong khâu làm thủ tục vay vốn... Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ 22, huyện Thạch Thành đã để ra chỉ tiêu xuất khẩu 300 kinh doanh / năm. Nếu làm tốt công tác này, trong vòng 5 năm (2005-2010) Thạch Thành sẽ có số lượng lao động đi làm viêc có thời hạn ở nước ngoài là 1500 lao động. Như vây, tác giả cho rằng nếu các huyện miền núi Thanh Hóa thực hiện tố công tác này thì trong thời gian như trên, sẽ có khoảng 27.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, góp phần xóa đối giảm nghèo cho vùng góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân. 3.2. Một số khuyến nghị góp phần phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 3.2.1. Khuyến nghị đối với cơ quan dân tộc miền núi của Chính phủ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã nêu rõ: "Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa dân tộc it người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc... Để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, nâng cao đời sống dông bào các dân tộc. Tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người. Đây là chiến lược nhất quán và lâu dài Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiếp tục thực hiện. Để phát triển nhân lực các dân tộc thiểu số, tác giả mạnh dạn đề xuất khuyến nghị. Cơ quan Dân tộc - Miền núi cần khảo sát, tham mưu cho Chính phủ mở rộng hơn chính sách đào tạo cử tuyển đối với học sinh dân tộc. Tùy theo điều kiện và đặc thù kinh tế - xã hội của từng địa phương mà xây dựng chỉ tiêu, kế hoạch đào tạo. Cần ưu tiên đào tạo các ngành nông lâm nghiệp, bảo quản chế biến nông lâm sản để phục vụ cho các địa phương bởi vì đặc trưng của sản xuất kinh tế miền núi nước ta là nông lâm nghiệp. Cần lựa chọn đối tượng cử tuyển đáp ứng được yêu cầu: kết quả học tập khá giỏi, đạo đức tố và có nguyện vọng được đào tạo để phục vụ địa phương. Hiện nay ở nhiều địa phương coi cử tuyển là chế độ ưu tiên đối với con em dân tộc nên ít khi đặt ra các yêu cầu lựa chọn dẫn đến nhiều đối tượng được cử tuyển là người dự thi quốc gia không đạt hoặc không đúng vùng được tuyển... dẫn đến chất lượng đào tạo yếu kém, không thể tham gia trực tiếp vào các ngành kinh tế đã có chuyên ngành đào tạo. Về số lượng, tác giả cho rằng chỉ tiêu cử tuyển so với nhu cầu là quá ít. Chẳng hạn, miền núi Thanh Hóa trong kế hoạch đào tạo mỗi năm là 11.00 người trong khi đó chỉ tiêu đào tạo cử tuyển là 140 người. Đây cũng là một khó khăn đối với những học sinh có nguyện vọng và có đủ điều kiện nhưng không có chỉ tiêu. Để nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số được đào tạo nhiều hơn, đáp ứng được nhu cầu về lao động tại các cơ sở kinh tế, các ngành kinh tế tại miền núi, rất cần Chính phủ quan tâm đến chính sách này. Cơ quan Dân tộc - Miền núi cũng cần lập kế hoạch chỉ tiêu và đề xuất bổ sung cho các địa phương miền núi ngân sách dành cho đào tạo phát triển nhân lực, hỗ trợ việc làm để các địa phương có đủ điều kiện đào tạo nhân lực, tạo mở việc làm, phát huy được tiềm năng mà miền núi sẵn có. 3.2.2. Khuyến nghị đối với tỉnh Thanh Hóa - Đối với cơ quan miền núi - Dân tộc của tỉnh: Cần tiến hành khảo sát chi thiết các điều kiện cơ bản để tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh lập dự án xây dựng các nhà máy sản xuất, chế biến nông lâm thổ sản làm vệ tinh của khu đô thị Ngọc Lặc. Với tiềm năng và lợi thế về vùng nguyên liệu và nhân lực, 11 huyện miền núi của Thanh Hóa có đủ điều kiện để xây dựng các nhà máy chế biến tinh bột sắn, tinh bột ngô, chế biến cao su, mía đường, thức ăn gia súc..., có quy mô nhỏ, sử dụng nhiều lao động, có thị trường tiêu thụ. Trong khi đó, tại vùng này mới mạng lưới nhà máy còn quá ít. Mục tiêu của phát triển kinh tế giai đoạn từ nay đến 2010 ở Thanh Hóa là đẩy mạnh nghề chăn nuôi gia súc, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, tác giả cho rằng: có được các nhà máy này ở miền núi sẽ xúc tiến việc phát triển kinh tế vùng. Bởi vì nhân dân sẽ giảm bớt được nhiều chi phí trong khâu vận chuyển sản phẩm đến nơi chế biến và sử dụng, các nhà máy giảm chi phí cho đầu tư cho vùng nguyên liệu, giảm bớt các chi phí cho xây dựng nhà ở, ký túc xá cho lao động. Ban Miền núi - Dân tộc cũng cần thường xuyên cung cấp thông tin phản ánh nguyện vọng thiết thực của đồng bào thiểu số nói chung, nhân lực các dân tộc thiểu số nói riên để Đảng và Nhà nước kịp thời nắm bắt, giải quyết, tạo ra niềm tin tưởng vững chắc để nhân dân trong vùng chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc xây dựng quê hương. - Đối với UBND tỉnh: Đảng bộ và chính quyền cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: Vùng vận động định canh định cư tỉnh Thanh Hóa còn nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm năng đất có khả năng nông nghiệp còn lớn có thể khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực bằng việc thâm canh và phát triển nông nghiệp hàng hóa, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, nguyên liệu tập trung có hiệu quả kinh tế cao. Tiềm năng đất lâm nghiệp còn rất lớn cần được đầu tư khai thác để tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân vùng vận động định cư và bảo vệ, phát triển vốn rừng, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tiềm năng về lao động dồi dào, nhân dân cần cù lao động, nếu được đầu tư hỗ trợ của Nhà nước tạo đã cho vùng vận động định canh định cư thì kinh tế - xã hội vùng sẽ phát triển nhanh chóng và ổn định, có thể rút dần khoảng cách chênh lệch về thu nhập và văn hóa - xã hội giữa vùng cao với vùng thấp, giữa miền núi với đồng bằng. Để thực hiện cần khảo sát kỹ địa bàn trước khi đưa dân đến, nên kết hợp giữa dãn dân nội vùng với các hộ di dân vào dự án để hình thành những cụm điểm, làng dân mới thuận lợi trong giao lưu kinh tế - văn hóa và tiết kiệm vốn đầu tư. Ưu tiên đầu tư các hạng mục xây dựng hệ thống giáo dục, Y tế, văn hóa đáp ứng tốt nhu cầu học tập, chữa bệnh và văn hóa cho nhân dân. Hoàn thành căn bản việc xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thông giao thông tạo ra mạng lưới giao thông liên hoàn, giao lưu thuận tiện và hệ thống thuỷ lợi nội đồng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân. Đặc biệt, thực hiện định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới phải gắn với chương trình 5 triệu hecta rừng, chương trình hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn và sắp xếp lại dân cư một cách khoa học, thực hiện định canh định cư bền vững. Để hoàn thành mục tiêu đến năm 2010 thực hiện định canh định cư vững chắc cho 44.950 hộ (239.140 khẩu) đang sổng rải rác ỏ 612 bản thuộc 77 xã của 10 huyện miền núi và vùng cao trong tỉnh, tác giả mạnh dạn đưa ra khuyến nghị trên. Đây không chỉ là những cơ sở để nâng cao thu nhập , ổn định đời sống cho nhân dân mà còn là những điều kiện quan trọng để phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa. Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại tại miền núi. Đã có nhiều thông tư liên bộ, liên ngành hướng dẫn các tiêu chí của mô hình trang trại nhưng điều khó khăn nhất của kinh tế trang trại hiện nay vẫn là vốn. Nếu được đầu tư và vay vốn đủ nhu cầu thì kinh tế trang trại sẽ là kiểu hoạt động kinh tế đem lại lợi nhuận cao, tận dụng được nguồn lao động tại địa phương, tăng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần phát triển kinh tế miền núi Thanh Hóa. Từ việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hoá trong những năm gần đây và thực tế tìm hiểu, nhìn thấy đánh giá của bản thân, tác giả xây dựng một số giải pháp và đề xuất một số khuyến nghị nêu trên. Kết luận Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhu cầu phát triển tất yếu của các quốc gia song mỗi nước đều có những mô hình phát triển riêng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và các đặc trưng về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa của từng nước. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển... tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao". Như vậy, nội dung là tính chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó con người là trung tâm. Do đó phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp con người ở nước ta không chỉ đơn thuần là chỉ đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế (mặc dù đây là yêu cầu quan trọng và bức xúc) mà còn hướng vào đáp ứng các yêu cầu phát triển con người và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên tinh thần chủ trương đó, tác giả đã tìm hiểu các yếu tố liên quan, nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hóa, đặc biệt là thực trạng nhân lực trong thời gian từ năm 1999 đến nay, tìm ra nguyên nhân của thực trạng và đề xuất một số giải pháp khuyến nghị để góp phần phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hoá trong giai đoạn đẩy manh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong phần giải pháp, luận văn đặc biệt nhấn mạnh vào đào tạo nguồn nhân lực trong đó chú trọng đến vấn đề củng cố, nâng cao chất lượng đào tạo phổ thông và vấn đề bức thiết cần quan tấm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, chế độ ưu đãi nhân tài và đào tạo cán bộ đầu đàn cho những ngành công nghệ then chốt. Ngoài ra, luận văn cũng nhấn mạnh yêu cầu tạo mở việc làm tại các địa phương. Trong phần khuyến nghị, luận văn chú ý đề xuất tăng cường công tác đào tạo cử tuyển đối với học sinh dân tộc thiểu số, xúc tiến xây dựng một số nhà máy vệ tinh của khu đô thị miền Tây Thanh hoá để đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hóa, đào tạo sử dụng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số Thanh Hoá hợp lý và hiệu quả hơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Hoàng Chí Bảo(1993),”ảnh hưởng của văn hoá đối với việc phát huy nguồn lực con người”,Tạp chí triết học,(1). 2.Hoàng Chí Bảo,(1998), “Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về con người”,Tạp chí triết học,(2). 3.Bộ Khoa học –Công nghệ và Môi trường,Viện dự báo chiến lược khoa học và công nghệ(1995),Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020,Nxb Chính trị Quốc gia. 4.Nguyễn Trọng Chuẩn(1994),”Nguồn lực trong công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước”,Tạp chí Triết học ,(2). 5.Đặng Vũ Chư-Ngô Văn Quế(1997),”Phát huy nguồn lực yếu tố con người trong sản xuất kinh doanh”,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6.Cơ quan báo cáo phát triển con người LHQ(1995),”Chỉ tiêu và chỉ số phát triển”,Nxb Thống kê, Hà Nội. 7.Trương Minh Dục (1996),”Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hía, hiện đại hoá ở Miền Trung”,Tạp chí Thông tin lý luận ,(4). 8.Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương khoá VII. 9.Đảng Cộng sản Việt Nam(1994),Văn kiện hội nghị lần thứ VII BCH Trung ương khoá VII,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. 11.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12.Đảng Cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX,Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội. 13.Phạm Minh Hạc(1996), “Phát triển giáo dục ,phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế-xã hội “,Nxb Khoa học xã hội , Hà Nội. 14. Nguyễn Thị Hằng (1997),”Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta,Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội. 15. Nguyễn Văn Huyên (1992),”Chủ nghĩa Mác trong sự phát triển con người Việt Nam thời gian qua và triển vọng của nó”,Tạp chí Triết học,(4). 16.Hồ Chí Minh(1995),Về xây dựng con người mới, Nxb Sự thật ,Hà nội. 17.Đoàn Văn Khải (1995), “Nguồn lực con người- yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước “, Tạp chí Triết học, (4). 18.Lê Xuân Kiên (1998),”Phát triển kinh tế nông thôn theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí lý luận, (2). 19.Bùi Sĩ Lợi (2002), “Phát triển nguồn lực của Thanh Hoá đến năm 2010 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị Quóc gia, Hà Nội. 20.V.I.Lê-nin(1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 21.Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997),”Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp”,Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội. 22.Nguyễn Thế Nghĩa (1996),”Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước “,Tạp chí Triết học ,(1). 23. Nguyễn Thế Nghĩa (1997),Triết học với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá,hiện đại hoá ,Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội. 24.GS Trần Nhâm ( Chủ biên ) ( 1980 ), Tìm hiểu chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 25.Nghiên cứu văn hoá, con người nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI, Kỷ yếu hội thảo quốc tế ( 2003 ), Hà Nội. 26.C.Mác-Ph.Ăng ghen(1981),Toàn tập,tập 3,Nxb Sự Thật, Hà Nội. 27.C.Mác-Ph.Ăngghen (1981),Tuyển tập,tập 6,Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Đỗ Mười(1997), ”Dành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ”, Tạp chí công tác tư tưởng văn hoá, (1). 29.Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay (1993 ), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 30. Uỷ ban quốc gia DS-KHHGĐ và Trung tâm nghiên cứu dân số nguồn lao động,Bộ LĐTB&XH ( 1996 ),Một số vấn đề dân số,nguồn nhân lực và việc làm ở Việt Nam, Hà Nội. 31.Lê Khả Phiêu (1998), “Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hoá, tiếp tục thực hiện chiến lượng xây dựng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam”, Tạp chí phát triển giáo dục, (3) 32. Phan Thanh Phố - An Như Hải (1995), “Phát triển nguồn lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá” NXB KHXH Hà Nội. 33. Lưu Ngọc Phải (1998), “ Thanh Hoá - Tiềm năng và phát triển” , Nhà báo và công luận, (3). 34. Bùi Tất Thắng (chủ biên) (1997), “Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ CNH-HĐH” , NXB Thống kê, Hà Nội. 35. “Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực” , Kỷ yếu hội thảo khoa học (2002), Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, NXB Giáo dục , Hà Nội. 36. Thực trạng nông nghiệp nông thôn Thanh Hoá, Đề tài nghiên cứu khoa học KX 03- 21B. 37. Phạm Nghiêm ích - Nguyễn Đình Phan (1995) “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực , NXB thống kê , Hà Nội. 38. “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (nghiên cứu xã hội) (1996) , NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số Thanh Hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.pdf
Luận văn liên quan