Luận văn Quan điểm của C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ tư chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản

Trong thời kỳ này đã diễn ra sự biến đổi cơ bản trong mô hình kinh tế, từ mô hình kinh tế quá độ trực tiếp lên CNXH sang mô hình quá độ gián tiếp tức là chuyển sang mô hình kinh tế lấy sản xuất và trao đổi hàng hoá hàng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở một nước kém phát triển về kinh tế làm nội dung cốt lõi.

pdf20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3073 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Quan điểm của C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ tư chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Quan điểm của C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ tư chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản A. Phần mở đầu Chủ nghĩa xã hội không phải là một sự xuất hiện tự nhiên từ một đầu óc thiên tài nào, mà xuất hiện từ hiện thực khách quan của đời sống xã hội, từ quá trình đấu tranh giai cấp. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của xã hội loài người C.Mác rút ra kết luận: Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên. Nghĩa là nó có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Bởi vì do sự tác động của quy luật kinh tế… Chính các cuộc cách mạng xã hội đã làm cho xã hội loài người chuyển từ xã hội thấp lên xã hội cao hơn. C.Mác và Ph.Angghen không những chỉ ra tính tất yếu khách quan sự ra đời của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, mà còn chỉ ra rằng: CNTB lên chủ nghĩa cộng sản tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng, để xoá bỏ pháp quyền tư sản và hoàn thiện các đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. Hai ông đã dùng khái niệm chủ nghĩa cộng sản, coi đây là một phương thức sản xuất phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau này CNXH được coi là giai đoạn thấp của chủ nghĩa công sản. B. Phần nội dung. I. Tư tưởng của C.Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS và về phương thức sản xuất trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô ta”. Phân tích các quy luật phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác cùng với Angghen đã rút ra kết luận về sự diệt vong tất yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự thay thế nó bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Hai ông; trước hết, chỉ rõ sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản, vai trò cực kỳ to lớn của nó trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hoá lao động; mặt khác, cũng chỉ ra giới hạn, tạm thời về mặt lịch sử của chế độ đó. C.Mác-Angghen đã dự báo rằng: “ Sự tập trung tư liệu sản xuất, và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng ta không còn thích hợp vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã điểm. Nhưng kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt”. C.Mác-Ăngghen: 1059/23 Nhưng cái vỏ đó không tự nó vỡ tung ra mà phải thông qua cuộc cách mạng bắt đầu băng việc giai cấp vô sản dẫn đầu quần chúng lao động nội dậy giành lấy chính quyền. C.Mác viết: “ Cách mạng nói chung-lật độ chính quyền hiện có và phá huỷ những quan hệ cũ là một hành vi chính trị. Nhưng CNXH không thể được thực hiện mà không có cách mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị này bởi lẽ nó cần tiêu diệt và phá huỷ cái cũ”. C.Mác-Ăngghen: 616/1 C.Mác chỉ ra rằng: “Giai cấp công nhân biết rằng nó phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giai cấp. Nó biết rằng việc thay thế những điều kiện của lao động tự do và liên hợp, chỉ có thể là một sự nghiệp tiến triển trong thời gian (đó việc cải tạo kinh tế)… sau một quá trình phát triển lâu dài…”. C.Mác-Ăngghen:724-725/17 Trong khi phê phán cương lĩnh Gô-ta, C.Mác đồng thời nêu ra những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh cho cách mạng XHCN, cho thắng lợi của chuyên chính vô sản, cho việc tước đoạt giai cấp tư sản. Nhưng ý kiến đó của C.Mác không những có ý nghĩa vô cung lớn lao trong thời kỳ đó đối với giai cấp công nhân, mà ngay cả bây giờ nữa; những ý kiến ấy cũng giúp cho chúng ta thấy rõ được con đường phải đi trong cái mớ hẩu lớn những học thuyết về CNTB nhân dân do bọn tư bản đưa ra và đủ các loại học thuyết này nọ do bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn cải lương chủ nghĩa và bọn xét lại chủ nghĩa đang tung ra để lừa bịp nhân dân thế giới. Đó là một mặt có ý nghĩa quan trọng của tác phẩm này của C.Mác. Mặt khác không hoàn toàn chỉ đóng khung trong luận chiến chông tư tưởng của Lát- xan, nó còn giải quyết một cách chính diện những vấn đề quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng chủ nghia xã hội. Tác phẩm này, tổng kết kinh nghiệm của tất cả các cuộc cách mạng trước kia, của toàn bộ phong trào công nhân thế giới và tổng kết học thuyết của Mác về nhà nước, C.Mác đã đề ra một luận điểm vô cùng quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trong thời kỳ đó: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội công sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. C.Mác “phê phán cương lĩnh Gô- ta” 1975/50. II. Quan điểm của C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ tư CNTB lên CNCS: 1. Quan điểm của C.Mác về thời kỳ quá độ lên CNCS: Luận điểm quan trọng của Mác là luận điểm về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gô-ta”(1875), qua nhận xét về cương lĩnh của Lat-xan dự thảo cho Đảng Công nhân Đức, C.Mác đã trình bày quan điểm của mình về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản về nguyên tắc phân phối trong mỗi giai đoạn. C.Mác chỉ ra rằng, cần phân biệt rõ “xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính no”, hay là “giai đoạn cao hơn”, với “ một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”, hay là “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau những cơn đau đẻ dài”. SĐD tr 36. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng: Nói về giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản C.Mác chỉ ra rằng, đó là một xã hội mà về phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Chính vì vậy, trong giai đoạn này còn có những thiếu sót không thể tránh khỏi. Về mặt kinh tế, đó là sự thiếu sót trong khâu phân phối. Trong giai đoạn này việc phân phối được thực hiện theo nguyên tắc phân phối sản phẩm tiêu dùng theo số lượng và chất lượng lao động. Sự tiến bộ của nguyên tắc này là ở chỗ nó không thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả, bất cứ người lao động nào cũng như nhau. Một cống hiến của mỗi người được đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng hiệu quả lao động . Sự thiếu sót không thể tránh khỏi của nguyên tắc này là ở chỗ nó không thừa nhaahj sự không ngang nhau về thể chất, về tinh thần, năng khiếu, tóm lại về năng lực lao động. Do đó, “quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”. Về việc phân phối những vật phẩm tiêu dung vẫn phải tuân theo nguyên tắc trong việc trao đổi hàng hoá- vật ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác. Vì vậy, ở đây về nguyên tắc cái quyền ngang nhau cũng là cái quyền tư sản, tuỳ rằng ở đây nguyên lý và thực tiễn không còn mâu thuẫn với nhau nữa. Chỉ đến một giai đoạn cao hơn, tức là dưới chủ nghĩa cộng sản thực sự, khi đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần; “khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch con người của họ không còn nữa và cùng với nó, sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay cũng sẽ không còn nữa, khi mà lao động sẽ trỏ thành không những là phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sống. Khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải của xã hội đều tuôn ra dồi dào-chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Điều phân biệt này hết sức quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn. C.Mác- Ăngghen:36/19 2. Quan điểm của V.I. Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH: V.I. Lênin đã kế thừa học thuyết C.Mác và vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào điều kiện cách mạng của nước Nga, một nước có trình độ phát triển kinh tế trung bình, trong thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn độc quyền, long đoạn. Lý luận về thời kỳ quá độ của V.I. Lênin bao gồm một số luận điểm cơ bản: Xuất phát từ so sánh lực lượng về mọi mặt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, V.I. Lênin đã nêu ra luận điểm đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp tư sản dưới hình thức mới, nội dung mới và trong điều kiện mới. Ông đã nêu ra luận điểm nội tiếng: “ CNCS = Chính quyền Xô viết + Điện khí hoá toàn quốc”, và nhấn mạnh nhiệm vụ của công nghiệp hoá cũng như vai trò của việc tăng năng suất lao động để chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Phát triển quan điểm về sự “rút ngắn” trong phát triển kinh tế xã hội của C.Mác-Angghen; V.I. Lênin đã nêu ra: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa công sản, không phai trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản”. V.I. Lênin: 295/41 Như vậy, đối với nước kinh tế kém phát triển khi dành được chính quyền thì phải quá độ lên chủ nghĩa cộng sản mà là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản). Thời kỳ quá độ này cũng là một yếu tố khách quan: - Trước hết, do bản chất chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này khác về bản chất với mọi cuộc cách mạng xã hội trước đây, không phải chỉ là thay thế hình thức sở hữu tư nhân này bằng hình thức tư nhân khác, và không phải thay nhà nước bóc lột này bằng nhà nước bóc lột khác, mà xoá bỏ tận gốc sở hữu tư nhân và xoá bỏ nhà nước và giai cấp. - Hai là, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội phải tiến hành cải biến cách mạng một cách toàn diện, sâu sắc: từ kinh tế đến chính trị-xã hội; từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng. Nghĩa là đối với những nước phải trải qua nhiều bước quá độ để tạo tiền đề cho những bước tiếp theo. Nhất là phải bắc một cái cầu trung gian, đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước, chỉ có như thế đưa được một nước tuyệt đại là tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội một cách chắc chắn. V.I. Lênin khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa), tất yếu phải là hình thai kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa trên cả 3 yếu tố: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng tầng. Mặt khác ông cũng chỉ ra rằng “chủ nghĩ xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt tới những hình thức hoàn chỉnh của nó, điều đó chúng ta không biết, không thể nói lên được…” bởi chúng ta còn chưa đủ tài liệu để noi về chủ nghĩa xã hội, “những viên cạch để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chưa làm xong. Chúng ta cần phải hết sức then trọng và chính xác. Điều đó, và chỉ điều đó mới sẽ lam cho cương lĩnh của chúng ta có sức hấp dẫn” nếu ngược lại “cương lĩnh đó của chúng ta chẳng qua gì là ảo tưởng”. V.I. Lênin:SĐD, 83/36 Lời giải thích này của V.I. Lênin rất phu hợp của luận điểm của Ph.Angghen khi phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa chủ quan, ảo tưởng duy ý chí là nếu chưa có những điều kiện, những tài liệu đầy đủ mà đã đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể; thì càng cụ thể bao nhiêu càng ảo tương và dễ sai lầm bấy nhiêu. V.I. Lênin:SĐD, 83/36 Theo V.I. Lênin trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế:(1) kinh tế nông dân gia trưởng, (2) kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, (3) kinh tế tư bản tư nhân, (4) kinh tế tư bản nhà nước, và (5) kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tính đa thành phần của nền kinh tế vưà là biểu hiện, vừa là hệ quả của nền sản xuất xã hội hoá ở trình độ thấp. Do nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, nên về mặt xã hội sẽ còn tồn tại nhiều giai cấp. Do đó, về chính trị tất yếu sẽ là chuyên chính vô sản, vì nếu không có chuyên chính vô sản thì mọi thành quả cách mạng không thể giữ nổi. Chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của giai cấp vô sản để bảo vệ quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Hay noi cách khác chuyên chính vô sản là quyền làm chủ của nhân dân lao động, mà nòng cốt là liên minh công nông thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Theo V.I. Lênin, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình chuyên cính vô sản có bốn nhiệm vụ như: (1) Đập tàn sự phản kháng của mọi kẻ thù; (2) cải tạo xây dựng xã hội mới; (3) xây dựng và củng cố quốc phòng; và (4) ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước và các dân tộc. Bốn nhiệm vụ trên được thực hiện thông qua hai chức năng sau: Trước hết là, chức năng bạo lực. V.I. Lênin khẳng định chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp trong tình hình mới, nhiệm vụ mới. Vì giai cấp tư sản mới bị đánh bại chứ chưa bị tiêu diệt. Nó không chịu ngồi yên để mất thiên đường, mà lao vào cuộc đấu tranh với giai cấp vô sản cách mạng quyết liệt, với mọi hình thức, mọi sức mạnh. Nên buộc giai cấp vô sản phải dùng bạo lực để trấn áp sự phản kháng đó của giai cấp tư sản. Thứ hai là, chức năng tổ chức xây dựng. Mặc dù nhấn mạnh chức năng bạo lực nhưng theo V.I. Lê nin đây không phải là chức năng cơ bản nhất. Chức năng cơ bản nhất là chức năng tổ chức xây dưng để xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; tiến hành công nghiệp hoá xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật và tiến hành cách mạng tư tưởng, văn hoá. Chỉ có chức năng tô chức xây dựng thì chuyên chính vô sản mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp hơn chủ nghĩ tư bản. 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại”. ĐCS VN, Văn kiện lần thứ IX, NXB CTQG, HN 2001, tr 83. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về quá độ lên CNXH ở Việt Nam được hình thành, được chín muồi từ khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin, trở thành người cộng sản vào những năm 20 của thế kỷ XX đến khi Người ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh là người theo đuổi đến cùng lý tưởng và mục tiêu của CNXH.Người trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời phát triển sáng tạo học thuyết, chủ nghĩa ấy và thực sự là Người đã có những đóng góp, những cống hiến làm sống động chủ nghĩa Mác- Lênin trong thực tiễn. Sáng tạo nổi bật và cống hiến xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh là đã giải quyết thành công và có thể coi như một mẫu mực kinh điển về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và nhân loại trên lập trường của giai cấp vô sản, của cách mạng vô sản, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, xã hội và con người, giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã tìm thấy câu trả lời cho sự lựa chọn con đường phát triển của đất nước. Quyết định lựa chọn CNXH là quyết định Người theo đuổi suốt cuộc đời. Đối với Hồ Chí Minh, CNXH là một chân lý, đồng thời là một niềm tin: không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được CNXH phát triển. Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về hình thái kinh tế- xã hội vào việc xác định vị trí của CNXH trong lịch sử tiến hoá của loài người, Hồ Chí Minh khẳng định bằng những lời lẽ trong sáng và giản dị: “xã hội từ chỗ ăn lông, ở lỗ, tiến đến xã hội nô lệ, tiến đến chế độ phong kiến, tiến đến xã hội tư bản, rồi tiến đến XHCN”. Trong bức tranh trên lịch sử loài người phát triển liên tục và CNXH là nấc thang cao của sự tiến hoá, nó xuất hiện kế tục xã hội tư bản, thay thế xã hội tư bản sau khi đã tiếp thu những thành quả của xã hội này. ở đầy khái niệm chế độ XHCN được dùng để chỉ hình thái kinh tế- xã hội CSCN xuất hiện sau hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế xã hội CSCN có hai giai đoạn, “giai đoạn thấp tức là CNXH, giai đoạn cao, tức là CNCS”. Khái niệm CNXH được dùng để chỉ một trong hai giai đoạn của hình thái kinh tế-xã hội CSCN. Bước chuyển từ CNTB lên CNXH-tức là TKQĐ từ CNTB lên CNXH-Theo Hồ Chí Minh, là một “quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển”. Nhưng Người luôn luôn thể hiện niềm tin vững chắc rằng cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng và điều đó có nghĩa là: CNXH và CNCS nhất định sẽ thắng lợi trên khắp địa cầu. Với các nước lạc hậu, tiền tư bản lên CNXH, các nhà kinh điển từ Mác, Ăngghen tới Lênin đều đặc biệt nhấn mạnh phải phát triển lực lượng sản xuất, chỉ như vậy mới có thể dần dần xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ triệt để tình trạng bóc lột, áp bức, bất bình đẳng, xác lập chế độ công hữu đảm bảo cho sự phát triển của con người, xã hội tới dân chủ, tự do, công bằng, bình đẳng thực sự. Theo Người, đặc điểm lớn nhất ở những nước lạc hậu trong TKQĐ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải không qua giai đoạn phát triển TBCN. Cho nên, Người xác định toàn diện các nhiệm vụ xây dựng CNXH ở những nước này là phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, phát triển giáo dục, xây dựng con người mới... Mấu chốt của vấn đề kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất. Mấu chốt của vấn đề chính trị là giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng...Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào sự phát triển con người và xã hội. Và, thực chất của vấn đề văn hoá là xây dựng con người mới, đạo đức mới... Theo Người, tức là phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước. Từ những quan điểm trên ta có thể tóm tắt khái niệm TKQĐ như sau: TKQĐ đó là thời kỳ đặc biệt nằm trong giai đoạn thấp của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. TKQĐ được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã thiết lập được chính quyền Nhà nước và trức tiếp bắt tay vào cải taọ xã hội cũ xây dựng xã hội mới cho đến khi xây dựng xong những cơ sở về kinh tế, chính trị-xã hội và văn hoá tinh thần để CNXH bước vào quá trình phát triển trên cơ sở của chính nó. Hay chúng ta có thể nói cách khác: TKQĐ lên CNXH là thời kỳ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội XHCN sẽ được thực hiện. Như vậy, XHCN chỉ ra đời khi những nhiệm vụ cơ bản của TKQĐ đã được hoàn thành. III. Phương thức sản xuất CnCs. Hai giai đoạn của xã hội CNCS:… Sự khác nhau về mặt khoa học giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩ cộng sản là ở chỗ: Danh từ trên chỉ giai đoạn đầu(giai đoạn thấp) của xã hội mới, lọt lòng từ CNTB, còn danh từ dưới chỉ giai đoạn sau đó giai đoạn cao hơn của xã hội đó. V.I. Lênin, toàn tập; 49/29 1. Giai đoạn thấp. Trong cuốn sách “phê phán cương lĩnh Gô-ta”, giai đoạn này là giai đoạn chưa phát triển trên cơ sở của riêng nó , nó vừa thoát thai từ CNTB. Vì vậy trên mọi phương diện còn mang những dấu vết của xã hội cũ C.Mác viết: “ Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây (trong khi phân tích cương lĩnh của Đảng công nhân) là một xã hội cộng sản, nhưng không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ sở riêng của nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa trong xã hội tư bản thoát ra; vì vậy mà, mọi phương diện kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội ấy còn mang những dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã đẻ ra nó”*. C.Mác-Ph. Angghen “ Phê phán cương lĩnh Gô-ta, tr 31. Chính cái xã hội cộng sản ấy, xã hội vừa mới thoát thai từ CNTB mà ra và trong mọi lĩnh vực, mà vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ, C.Mác gọi là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản. …Giai đầu của CNCS chưa thể thực hiện được công bằng và bình đẳng về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, bất công nữa; nhưng tình trạng người bóc lột người thì không còn nữa, vì không ai có thể chiếm tư liệu sản xuất, công xưởng, máy móc, đất đai… làm của riêng được. Trong khi bác bỏ cầu nói mơ hồ và tiểu tư sản cuả Lat-xan về bình đẳng và công bằng nói chung. C.Mác vạch ra tiến trình phát triển của xã hội Cộng sản, xã hội này phải bắt đầu phá huỷ chỉ riêng cái “điều bất công” nay là việc cá nhân chiếm hữu tư liệu sản xuất làm của riêng nhưng không đủ sức phá huỷ ngay điều bất công kia, tức là việc phân phối vật phẩm tiêu dụng theo lao động chứ không theo nhu cầu. Những nhà kinh tế học tầm thường trong đó có bọn giáo sư tư sản, kể cả Tu-gan của “chúng ta” nữa, luôn luôn trách những người XHCN là quên mất sự bất bình đẳng giữa người ta với nhau và mơ ứơc xoá bỏ sự bất bình đẳng ấy. Rõ ràng là sự trách móc ấy chỉ là chứng tỏ rằng các ngài tư tưởng gia tư sản hết sức dốt. C.Mác tính rất sát không những đến sự bất bình đẳng không thể trách được giữa người ta với nhau, mà còn tính cả đến điểm sau này là chỉ riêng bạn thân việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu chung của toàn thể xã hội, ( CNXH theo nghĩa thông thường) thì cũng không xoá bỏ được những khuyết điểm của sự phân phối và sự bất bình đẳng của pháp quyền tư sản, pháp quyền này vẫn tiếp tục thống trị, vì sản phẩm được phân phối theo lao động. Mác nói “… Nhưng những khuyết điểm ấy không thể nào tránh khỏi được trong giai đoạn đầu của XHCS , là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản mà ra, sau một thời kỳ sinh để lâu dài và đau lớn. Quyền lợi không bao giờ có thể cao hơn trình độ văn minh của xã hội thích ứng với tình trạng của kinh tế ấy” … Như thế là trong giai đoạn dầu của XHCS ( mà người ta vẫn thường gọi là CNXH ), pháp quyền tư sản không bị xoá bỏ hoàn toàn mà chỉ xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ trong phậm vi mà cách mạng kinh tế được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi có liên quan đến tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. CNXH biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung. Chính là trong phạm vi ấy, pháp quyền tư sản mới bị xoá bỏ. Trong giai đoạn này nguyên tắc phân phối là phân phối theo lao động, về vấn đề này C.Mác viết: “ ở đây rõ ràng cũng là một nguyên tắc như nguyên tắc điều tiết việc trao đổi hàng hoá, miễn là sự trao đổi ngang nhau. Nội dung và hình thức khác nhau vì những điều kiện vốn đã khác nhau, thì không ai có thể cung cấp được cái gì khác ngoài lao động của mình, và mặt khác vì ngoài những vật phẩm tiêu dùng của cá nhân ra thì không còn cái gì khác có thể trở thành tài sản của cá nhân được. Nhưng đối với việc phân phối những vật phẩm ấy giữa những người sản xuất cá biệt thì nguyên tắc chỉ đạo cũng vẫn như là đối việc trao đổi hàng hoá ngang giá; cùng một số lượng lao động dưới một hình thức này đổi lấy cũng một số lượng lao động như thế dưới một hình thức khác”. C.Mác-Ph. Angghen “ Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, tr 32-33. 2. Giai đoạn cao của XHCS: C.Mác nói: …“ Trong giai đoạn cao của XHCS, khi mà cá nhân không còn phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự đối lập giữa lao động tri óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa, khi mà lao động sẽ không phải chỉ là một phương tiện để sống nữa, mà tự nó sẽ biến thành nhu cầu bậc nhất cho đời sống, khi mà lực lượng sản xuất cũng đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân và tất cả những nguồn tài phú công cộng đều tuôn ra dồi dào, thì chỉ khi đó người ta nói có thể hoàn toàn vượt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. C.Mác-Ph. Angghen “ Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, tr 34-35. …Về mặt chính trị thì chắc chẵn là sự khác nhau giữa giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp và giai đoạn cao của CNCS, sau này sẽ rất lớn… Nhưng về mặt khoa học thì sự khác nhau giưa CNXH và CNCS thật là rõ ràng. Cái mà người ta thường gọi là CNXH thì C.Mac gọi là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của CNCS . Trong chừng mực tư liệu sản xuất đã biến thành sở hữu chung thì danh từ “CNCS” ở đây có thể đúng được, miễn là đừng quên rằng đó không phải là CNCS hoàn toàn. Nhưng lời giải thích của C.Mác sở dĩ có giá trị lớn là ở đây C.Mác cũng áp dụng một cách triệt để phép biện chứng duy vật thuyết tiến hoá và xem CNCS là một cái gì phát triển từ CNTB mà ra. C.Mac không bám vào những định nghĩa tượng tưởng có tính chất kinh viện và giả tạo, không bám vào những cuộc tranh luận vô ích về danh từ ( thế nào là CNXH, thế nào là CNCS ?), trái lại C.Mác phân tích cái mà người ta có thể gọi là những trình độ chín muồi về kinh tế của CNCS. Trong giai đoạn đầu, trong bước đầu CNCS chưa thể hoàn toàn chín muồi về mặt kinh tế, chưa thể hoàn toan thoát khỏi những tập tục hay những tàn tích của CNTB. Do đó có hiện tượng đáng chú ý là: “Cái quan điểm chật hẹp của pháp quyền tư sản”, vẫn được duy trì dưới chế độ cộng sản, trong giai đoạn đầu của nó. Đương nhiên về mặt phân phối vật phẩm tiêu dùng thì pháp quyền tư bản tất nhiên đòi hỏi phải có một nhà nước kiểu tư sản, vì nếu không có một bộ máy đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của quyền lợi thì quyền lợi có cũng như không… V.I. Lênin: tr 535-539-541-542/25. Nếu chúng ta tự hỏi : CNCS và CNXH khác nhau thế nao, thì chúng ta phải trả lời rằng CNXH là một xã hội trực tiếp phát sinh từ CNTB, là hình thức đầu tiên của xã hội mới, còn CNCS là hình thức xã hội cao hơn và chỉ có thể phát triển được sau khi CNXH hoàn toàn được củng cố. CNXH có nghĩa là làm việc không có sự giúp đỡ của nhà nước tư bản, là lao động xã hội dưới sự kiểm kê, kiểm soát và giám sát nghiêm ngặt nhất của đội tiên phong có tổ chức, tức bộ phận tiên tiến của những người lao động, đồng thời phải quy định mức độ lao động và sự thù lao cho lao động. Sở dĩ cần phải quy định như vậy, là vì xã hội TBCN đã để lại cho chúng ta những tàn tích và tập quán như lao động riêng lẻ, không tin vào nền kinh tế tập thẻ, thói quen cũ của người tiểu chủ, …hết thảy những cái đó đều chiếm địa vị thống trị trong tất cả các nước nông dân. Tất cả những cái đó đều trái với kinh tế CSCN chân chính. CNCS mà chúng ta nói đây là chế độ trong đó mọi người đều có thói quen thực hiện nghĩa vụ xã hội mà không cần đến những cơ quan cưỡng bức đặc biệt và lao động không lấy thù lao để phục vụ lợi ích chung trở thành hiện tượng phổ biến. V.I. Lênin: tr 356/30. Như vậy, trên cơ sở kế thừa có phê phán những tư tưởng, quan điểm của các nhà kinh tế tư sản, với thực tiễn của CNTB, C.Mác-Angghen đã thành công trong việc phân tích chủ nghĩa tư bản. Các ông đã khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn tại vĩnh viễn mà tất yếu sẽ diệt vong và được thay thế băng phương thức sản xuất cao hơn, tốt đẹp hơn, nên nó phải phát triển qua hai giai đoạn để hình thành nên những đặc trưng cơ bản của nó. IV. Vận dụng tư tưởng về thời kỳ quá độ vào thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian qua. 1. Về cơ sở lý luận và thực tiễn: Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này thời kỳ quá độ về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với Việt Nam một nước đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài. Theo Chu tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là thời kỳ lịch sử mà: “ Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH… tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phai cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài ”. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, HN1996, T 10, tr 13. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch sử đối với Việt Nam, vì: Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng XHCN tránh cho nhân dân những đau khổ của con đường TBCN. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua những biện pháp kế hoạch đông thời việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuỳ nhiên cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm được nhanh chóng “ Tiến lên CNXH, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục”; “CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần”. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, HN1996, T 8, tr 228,226. Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ bỏ qua hay rút ngắn này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta khác phục được quan niệm giản đơn duy ý chí về thời kỳ qua độ lên CNXH từ một nước mà CNTB kém phát triển. CNXH theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “…trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, HN1996, T 8, tr 228,226. Quán triệt tư tưởng cơ bản đó, định hướng XHCN cho sự phát triển nền kinh tế quá độ là sự tác động quản lý vĩ mô và vi mô, đặc biệt là quản lý vĩ mô nền kinh tế, sao cho nền kinh tế dựa trên cơ sở vật chất-kỹ thuật cao trên nền tảng chế độ công hữu XHCN ngày càng phát triển và hoàn thiện, từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. 2. Quá trình phát triển nền kinh tế quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Xét một cách tổng thể, từ năm 1955 đến nay nền kinh tế của Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau. Căn cứ vào đặc trưng của mỗi thời kỳ, có thể phân chia sự phát triển và biến đổi về kinh tế qua các thời kỳ khác nhau: * Thời kỳ từ 1955 - 1964: Đây là thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo XHCN. ở thời kỳ này sự phát triển kinh tế được thiết kế trên cơ sở xác định 3 đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH: từ nên sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH; có hệ thống XHCN vững mạnh; đất nước bị chia cắt. Mục tiêu kinh tế này được ĐH III (tháng 9-1960) xác định là xây dựng đơi sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Nhìn tổng quát, thời kỳ này đã đạt được những thàn tựu kinh tế-xã hội không nhỏ làm cho miền Bắc tiến những bước dài, chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đây cũng là thời kỳ phát triển nhanh về các lĩnh vực kinh tế-xã hội, cơ sở vật chất trong công nghiệp, nông nghiêp, cơ sở hạ tầng được xây dựng. Tốc độ phát triển kinh tế cao, giao dục, y tế phát triển khá nhanh, xã hội miền Bắc trở thàn xã hội do những người lao động làm chủ, đời sống tinh thầnh lành mạnh. Chính nhờ những thành tựu này mà miền Bắc trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc để nhân dân cả nước có thể đánh thắng đế quốc Mỹ. * Thơi kỳ từ 1965 - 1975: Đây là thơi kỳ cả nước chiến tranh, trực tiếp chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tương và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế, tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy mục tiêu phát triển trong thời kỳ này phải phục vụ cho nhiệm vụ “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “tất cả để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”, Hoàn cảnh đó đem lại cho việc xây dựng kinh tế ở thời kỳ này đặc điẻm mô hình kinh tế “cộng sản thời chiến”. Mô hình kinh tế này là mô hình kinh tế có tính tập trung cao nên đã động viên được lực lượng để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt bằng sự chỉ đạo tập trung nghiêm ngặt, bằng chế độ phân phối bình quân, bao cấp… Tuỳ nhiên, ngay trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước đã dẫn đầu thấy ra được những nhược điểm của mô hình kinh tế đó và bắt đầu có chủ trương cải biến một phần cơ chế quản lý kinh tế. Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành TW khoá III (tháng 9-1975) đã đề cập đến việc duy trì nền kinh tế nhiều thành phần ở miên Nam trong một thời gian nhất định, ra sức sử dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lý để đẩy mạnh sản xuất. Những tư tưởng này được tiếp tục phát triển và vận dụng vào thực tiễn những năm sau. * Thời kỳ từ 1976 – 1986: Đây là thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH trong tinh hình đất nước chịu đựng những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt lâu dài, với những diễn biến trong tình hình thế giới có mặt không thuận lợi. Là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. ĐH V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước từ năm 1976-1980 (kế hoạch kinh tế 5 năm) là thời kỳ nên kinh tế ở trạng thái trì trệ. Trên mặt trận kinh tế, Việt Nam đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan như nên kinh tế đang gánh chịu những hâu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, phải đối phó với hai cuộc đấu tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc, viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ chiến tranh. Những nguyên nhân chủ yếu, làm trầm trong thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô hình kinh tế không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Mô hình kinh tế đó đã phát triển mức cao và được áp dụng trong phạm vi cả nước cho nên hậu quả càng nặng nề trên quy mô lớn. Chính những khó khăn đó buộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải duy nghĩ, phân tích tình hình và nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp, từ đó thực hiện đổi mới ở các cơ sở, đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần. Tóm lại, đã có những quan niệm, chủ trương ban đầu đổi mới mô hình kinh tế cũ theo tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra”, nghĩa là đổi mới hình thức quan hệ sản xuất để giải phóng l]c lượng sản xuất. Từ những thay đổi bộ phận mô hình kinh tế cũ như trên, đất nước đã thu được những thành tựu đáng kích lệ. Điều đáng ghi nhận nhất là ở thời kỳ này là tư duy mới từng bước hình thành và phát triển, biểu hiện chủ yếu ở Nghị quyết Hội nghị 6 của Ban Chấp hành TW khoá IV, Nghị quyết ĐH V, Nghị quyết Hội nghị 8 Ban Chấp hành TW khoá V và cuối cùng là Nghị quyết Bộ Chính trị khoá V về các quan điểm kinh tế. Đến đây quan điểm cốt lõi của mô hình kinh tế về cơ bản đã hình thành. Sự phát triển tiệm tiến này đã dẫn đến bước nhảy vọt trong Đại hội VI về mô hình kinh tế mới. Đại hội quyết định đường lối đổi mới, và đường lối đó đi vào cuộc sống nhanh chóng vì đó là một đường lối đúng, được chuẩn bị trước không chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà cả về mặt tổ chức thực tiễn. * Thời kỳ từ 1986 đến nay: Đó là thời kỳ đổi mới toan diện mô hình kinh tế thông qua những nghị quyết của các Đại hội lần thứ VI,VII và VIII. Mô hình kinh tế cũ bị xóa bỏ, mô hình kinh tế mới được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong thời kỳ này đã diễn ra sự biến đổi cơ bản trong mô hình kinh tế, từ mô hình kinh tế quá độ trực tiếp lên CNXH sang mô hình quá độ gián tiếp tức là chuyển sang mô hình kinh tế lấy sản xuất và trao đổi hàng hoá hàng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở một nước kém phát triển về kinh tế làm nội dung cốt lõi. Đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH của Việt Nam, vận dụng một cách có phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản V.I. Lênin về “Chinh sách kinh tế mới” vao những điều kịên lịch sử ở Việt Nam và thế giới ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ. Từ những quan điểm của các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII và từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, có thể rút ra được một số đặc trưng cơ bản và chủ yếu của mô hình kinh tế mới này là: - Chuyển nền kinh tế từ kinh tế hiện vật bao cấp là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là cach tổ chức sản xuất tối ưu để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH mà hiệu quả kinh tế cuối cùng là năng suất lao động cao, tạo ra nền sản phẩm thăng dư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Quan điểm của C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ tư chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.pdf
Luận văn liên quan