Luận văn Quản lý nhà nước về địa chính từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

Quản lý địa chính là một nhiệm vụ quan trọng, đầy khó khăn, phức tạp. Nó luôn là điểm yếu của ngành tài nguyên và môi trường trong nhiều năm qua. Công tác này đã được đề cập từ lâu trong hệ thống pháp luật đất đai nước ta. Đất đai luôn biến động trong quản lý và sử dụng, việc không nhận thức được tầm quan trọng của quản lý chỉnh lý biến động và thông báo cập nhật chỉnh lý biến động sẽ dẫn đến hậu quả sau một thời gian các tài liệu được lập luôn không phản ánh đúng được thực tế quản lý, sử dụng đất . Do đó, việc khai thác sử dụng hồ sơ phục vụ công tác Quản lý nhà nướcvề địa chính cũng như đáp ứng nhu cầu tra cứu thông tin của các thành phần trong xã hội không còn tác dụng. Xuất phát từ thực tế nghiên cứu công tác quản lý địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, đề tài đã đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống Quản lý nhà nướcvề địa chính ở Quận Hai Bà Trưng nói riêng và trong phạm vi cả nước nói chung. Mặc dù tác giả luận văn đã có nhiều cố gắng và nghiên cứu, tìm hiểu trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài nhưng luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự thông cảm, đóng góp ý kiến từ quý Thầy, Cô và các Bạn .

pdf83 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về địa chính từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y định của pháp luật đất đai. Từ trước năm 2010, trên địa bàn quận có 5 phường được UBND thành phố Hà Nội ra quyết định phê duyệt kế hoạch cấp đất giãn dân bao gồm: khu di dân Hồ Việt Xô, khu hồ Atake, khu Đầm Trấu. Trên địa bàn quận đã tiến hành thu hồi đất để thực hiện các dự án xây dựng khu đô thị Times City, khu đô thị Hòa Bình Green City, đường vành đai I (đoạn Ô Đống Mác - Nguyễn Khoái), đường vành đai II, dự án thoát nước, cải tạo và xây dựng khu nhà ở Nguyễn Công Trứ. Về cơ bản, việc thu hồi đất được UBND Quận triển khai tốt, triệt để, đúng đối tượng, đúng luật, góp phần ngăn chặn tình trạng sử dụng đất sai mục đích, kém hiệu quả. Công tác cấp GCNQSỬ DỤNG ĐẤT đối với đất ở đô thị: Thực hiện Quyết định số 65/2001/QĐ-UBngày 29/8/2001, Quyết định số 23/2005/QĐ- UB ngày 18/02/20015, Quyết định số 23/2008/QĐ-UB ngày 09/5/2008, Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009, Quyết định số 13/2013/QĐ-UBNDngày 24/4/2013, Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND ngày 26/6/2014 của UBND thành phố HN, Quyết định số 37/2015/QĐ-UBND ngày 18/12/2015 của UBND thành phố HNtính đến thời điểm cuối năm 2015 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã có 45.703 hồ sơ kê khai cấp GCNQSỬ DỤNG ĐẤT, trong đó, số hồ sơ hợp lệ và đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận là 40.524 hồ sơ, số hồ sơ chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận là 5.179 hồ sơ. Tổng số hồ sơ đã được cấp giấy chứng nhận tính đến 31/12/2015 là 48 33.270hồ sơ. Số hồ sơ chưa cấp là 12.433GCN (số liệu do học viên tự thu thập theo các báo cáo qua từng thời kỳ ở phòng tài nguyên và môi trường quận Hai Bà Trưng). Việc lập hồ sơ được triển khai thực hiện ở tất cả các phường cho 3 loại đất (đất ở, đất sản xuất nông nghiệp và một số loại đất phi nông nghiệp). Các phườngcơ bản có sổ theo dõi biến động đất đai, sổ mục kê, sổ theo dõi cấp GCNQSỬ DỤNG ĐẤT, sổ địa chính, sổ đăng ký kê khai nhưng việc cập nhật các thông tin biến động, chỉnh lý biến động trên bản đồ, hồ sơ chưa đều đặn. Kiểm kê đất đai 5 năm 1 lần thường xuyên được Quận duy trì, cụ thể, quận Hai Bà Trưng đã tiến hành làm tổng kiểm kê đất đai năm 2005, 2010 và 2015 với kết quả được đánh giá với chất lượng tốt. Thống kê đất đai hàng năm được duy trì, hàng năm công tác thống kê đất đai được tiến hành cả trên Quận và dưới các phường. Chấp hành Chỉ thị số 28/2004/CT-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê đất đai; Thông tư số 08/2007/TT- BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, thông tư số 28/2014/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên và môi trường,Sở tài nguyên và môi trường thành phố đã triển khai kế hoạch và phương án thực hiện công tác này đến quận Hai Bà Trưng. Trong năm 2010, 2015 Quận đã tiến hành tổng kiểm kê đất đai theo đúng quy định, được sự chỉ đạo của UBND thành phố, Sở tài nguyên và môi trường tổ chức triển khai, đôn đốc các phường thực hiện kiểm kê theo hướng dẫn mới của bộ Tài nguyên và môi trường. Theo số liệu thống kê đất đai của Quận tính đến hết ngày 31/12/2015, Quận có tổng diện tích tự nhiên là 1025.80 ha. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 kết quả biến động cơ cấu đất đai trên địa bàn Quận được thể hiện chi tiết qua bảng 2.2 (phần phụ lục). 49 2.5. Kết quả đạt được và hạn chế 2.5.1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua QLNN về địa chính là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng cũng khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, vềcơ bản quận Hai Bà Trưng đã đạt được một số kết quả như sau: Trong công tác đo đạc lập BĐĐC: 100% xã, thị trấn đã được thành lập BĐĐC được chuẩn hóa, quản lý sử dụng, khai thác. Trong công tác đăng ký đất đai : đã tổ chức tuyên truyền vận động người sử dụng đất thực hiện kê khai đăng ký lần đầu đã đạt số lượng khá cao 93%, một chỉ tiêu mà trong nhiều năm trước khi có luật đất đai 2003 gần như bị bỏ ngỏ. Trong công tác cấp GCNQ sử dụng đất: đất đai có nhiều nguồn gốc khác nhau, quá trình quản lý gặp nhiều khó khăn, vướng mắc ... Hệ thống HSĐC được số hóa, scan, dữ liệu được cập nhật lên các file máy tính đã phục vụ hữu hiệu công tác QLNN về đất đai cũng như nhu cầu tra cứu của người dân và doanh nghiệp. 2.5.2. Hạn chế, bất cập Tuy đã có những thành tựu vượt bậc nhưng qua công tác cũng thấy bộc lộ một số vấn đề: *Công tác đo đạc bản đồ (thông tin tư liệu địa chính): - BĐĐC khu vực đất ở và đất nông nghiệp, chủ yếu bằng công nghệ truyền thống, những tài liệu hiện tại đã quá cũ và không thống nhất. BĐĐC được đo đạc cho các phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng được đo vẽ từ những năm 1996 - 1997. Do bản đồ giấy nên việc sử dụng rất hạn chế, 100% các đơn vị không thể thực hiện việc cập nhật biến động hình thể thửa đất, không đáp ứng được yêu cầu cấp GCNQ sử dụng đất. Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 tuy là bản đồ mớiđược thành lập nhưng do nền bản đồ sử dụng vẫn là nền BĐĐC cũ nên độ chính xác cũng không cao. 50 BĐĐC và HSĐC nêu trên chỉ dùng làm cơ sở để xem xét hình thể, diện tích, nguồn gốc của thửa đất trong quá trình kê khai đăng ký, cấp GCNQ sử dụng đất, kiểm tra số lượng số GCN cần cấp đổi. Việc lồng ghép, chuyển quy hoạch chuyên ngành (quy hoạch xây dựng, quy hoạch giao thông) lên BĐĐC gặp rất nhiều khó khăn do công tác quản lý cập nhật thông tin quy hoạch trong thời gian qua chưa đầy đủ và chưa kịp thời. Tóm lại, công tác quy hoạch đất đai, đo đạc khảo sát lập hồ sơ, BĐĐC còn diễn ra chậm chạp, chưa chi tiết và kịp thời với yêu cầu kinh tế xã hội ngày nay về đất đai. Điều này làm chậm tiến độ cấp GCNQ sử dụng đất phục vụ cho công tác QLNN về địa chính. *Công tác thông tin tư liệu sổ sách: Hệ thống HSĐC hiện có các phường không đáp ứng được theo yêu cầu của Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ tài nguyên và môi trường về việc Quy định về HSĐC và không đúng với thực tế sử dụng đất của các hộ gia đình cá nhân và quy định hiện hành. HSĐC đã được sắp xếp theo hướng hiện đại, khoa học, xong mới chỉ tự phát, tự sắp xếp để tiện cho việc sử dụng và tra cứu, chưa theo quy định. Phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu địa chính chưa có. *Công tác kê khai đăng ký, cấp GCNQ sử dụng đất. Cơ bản việc chấp hành pháp luật đăng ký sử dụng đất lần đầu của người dân được chấp hành tốt. Nhưng việc thực hiện đăng ký biến động của một bộ phận không nhỏ không được thực hiện kịp thời triệt để. Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, cứng nhắc (để được cấp GCNQ sử dụng đất, phải qua nhiều cấp với nhiều loại giấy tờ, theo quy định phải có ít nhất một trong 16 loại giấy tờ điều này làm cho chậm tiến độ cấp GCN). Tiền thuế sử dụng đất đối với những trường hợp sử dụng đất vượt hạn mức, đất sử dụng sau 51 ngày 15/10/1993 hay những trường hợp nhận chuyển nhượng từ sau ngày 1/1/2008 đều rất cao (nộp tiền sử dụng đất bằng 50% -100% giá đất tại vị trí đất đang sử dụng). Khi giải toả thu hồi đất đai, khi giao đất thì tính giá đền bù đất đai không sát với giá trị thực tế của nó trên thị trường (cụ thể là sự bất hợp lý của khung giá đất và hệ số điều chỉnh K cho các loại đất ở các địa phương) Có sự chồng chéo trong quản lý giữa các cơ quan QLNN về địa chính. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan với cấp chính quyền đặc biệt là ngành địa chính và xây dựng chưa đồng bộ, chưa thống nhất trong việc chỉ đạo triển khai xử lý sự việc cụ thể của QLNN về địa chính. Do thói quen lâu đời của người dân (thực hiện các biến động đất đai mà không thông báo với cơ quan QLNN về đất đai). 2.5.3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, bất cập Hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu tập trung vào một số nguyên nhân chính như sau: Một là, hệ thống pháp luật về đất đai còn chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, đồng bộ. Quy định pháp luật, với vai trò là cơ sở pháp lý cho công tác QLNN tuy nhiên còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, chưa có được sự thống nhất và thiếu nhiều quy định cần thiết cho sự vận hành hệ thống. Quy trình QLNN về địa chính được xây dựng dựa trên các quy định của Luật đất đai, nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của UBND thành phố HN. Tuy nhiên, khi thực hiện công tác quản lý gặp phải nhiều vướng mắc như sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của phòng tài nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội - chi nhánh quận Hai Bà Trưng. Hai là, cơ cấu tổ chức bộ máy và lực lượng nhân sự làm công tác quản lý địa chính thiếu tính ổn định. 52 Lực lượng cán bộ quá mỏng so với yêu cầu của công việc, không có cán bộ chuyên trách cập nhật biến động sử dụng đất ở phường, khối lượng công việc quá bề bộn nên việc cập nhật biến động đất đai rất khó khăn. Trình độ của một số cán bộ địa chính còn hạn chế, hệ thống HSĐC cũ nát, không áp dụng các phần mềm quản lý chuyên ngành nên chủ yếu hoạt động vẫn diễn ra trên các văn bản giấy tờ, sổ sách dạng truyền thống. Việc thực hiện luân chuyển cán bộ địa chính giữa các xã, thị trấn trên địa bàn quậndẫn đến việc thẩm tra xác nhận khi giải quyết thủ tục cấp giấy chứng nhận thực hiện chậm do gặp nhiều khó khăn, việc kiểm soát tình hình biến động đất đai bị hạn chế, làm gia tăng tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất trái phép ở địa phương. 2.5. Đánh giá quản lý nhà nước về địa chính của chính quyền quận Hai Bà Trưng Đánh giá QLNN về địa chính là một công việc phức tạp, nhiều tiêu chí, chỉ tiêu không thể lượng hoá được. Trên cơ sở áp dụng 5 tiêu chí đánh giá chính sách công của Ngân hàng thế giới, tác giả xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp nhằm thực hiện việc đánh giá QLNN về địa chính từ thực tiễn của quận Hai Bà Trưng như sau: Tiêu chí phù hợp Chất lượng QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưng phụthuộc vào những yếu tố được xem là đầu vào của quản lý. Đó là hệ thống văn bản pháp luật về đất đai của Nhà nước còn phức tạp, sự phân quyền, sự phốihợp giữa các cơ quan trong hệ thống chưa thực sự nhịp nhàng. QLNN về địa chính của quận đã theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mặc dù chưa thực sự hoàn chỉnh (chưa có quy hoạch chi tiết cấp phường, quy hoạch phù hợp với định hướng phát triển của thành phố, tuy còn một số điểm chưa phản ánh được thực nhu cầu của người sử dụng đất ). Bộ máy QLNN của quận còn thiếu và yếu, chưa thực sự phù hợp với tốc độ phát triển của đô thị. Chế độ đãi ngộ, lương thưởng của công chức chưa thực sự thoả đáng. 53 Kính phí QLNN về địa chính đã đáp ứng được cho hoạt động quản lý hành chính, nhưng nguồn vốn cho đầu tư phát triển còn hạn hẹp, chưa đa dạng. Trình độ áp dụng công nghệ, đặc biệt là tin học còn hạn chế, mới chỉ dừng ở mức độ tin học văn phòng. Tuy nhiên trong thời gian qua chính quyền quận Hai Bà Trưng đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng QLNN về địa chính, thủ tục hành chính đã được từng bước đổi mới theo hướng đơn giản và thuận tiện. Hiện nay, UBND quận đã áp dụng giải quyết thủ tục hành chính vào sáng ngày thứ 7 theo quy định của Chính phủ. Tiêu chí hiệu lực Tính hiệu lực QLNN về địa chính thểhiệnởvai trò lãnhđạo của cấp uỷ Đảng, việc giám sát thực hiện pháp luật của HĐND, việc tổ chức thực hiện của UBND, sự phối hợp tham gia của các tổ chức chính trị- xã hội và người sử dụng đất . Đối với quận Hai Bà Trưng công tác này đã được sự quan tâm của chính quyền, tuy nhiên chưa thật sự thường xuyên và có những chương trình, mục tiêu cụ thể. Mức độ chấp hành luật pháp của công chức, người dân trong quận không đồng đều, vẫn còn hiện tượng vi phạm pháp luật trong quản lý và sử dụng. Một bộ phận công chức QLNN về địa chính còn có thái độ chưa tốt khi giao dịch với người dân (phong cách, nắm bắt mục tiêu quản lý, chấp hành kỷ luật, tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy...) còn bị phàn nàn. Việc theo dõi, lấy ý kiến đóng góp khen chê của người dân, doanh nghiệp khi giao dịch với các cơ quan QLNN quận không được tiến hành. Nhiều dự án thu hồi đất không thực hiện đúng tiến độ, chiếm hơn 30%. Một số quyết định hành chính về xử phạt vi phạm đất đai không được thực thi. Công tác bảo vệ môi trường và cảnh quan di tích lịch sử đã được quan tâm, cụ thể như việc công trình hạ tầng kỹ thuật xây dựng kè và đường quanh sông và mương Kim Ngưu, hồ Thanh Nhàn nhằm chống lấn chiếm và thoát 54 nước thải sinh hoạt không qua xử lý ra hồ, sông. Nhìn chung hiệu lực Nhà nước trong quản lý địa chính tại quận Hai Bà Trưng cần phải được điều chỉnh nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của Nhà nước, pháp luật. Tiêu chí hiệu quả Được xem xét trong QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưng thể hiện mức độ hoàn thành 3 mục tiêu tổng quát của quản lý. QLNN về địa chính đã có những tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định kinh tế- xã hội tại quận. Hệ thống cơ sở hạ tầng đang dần được củng cố, bộ mặt quận đã thay đổi theo dáng dấp của một đô thị hiện đại. Các thành phần kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định hàng năm, mức độ tăng trưởng kinh tế theo danh nghĩa được thể hiện trong báo cáo phát triển kinh tế- xã hội quận. Chi ngân sách đáp ứng được nhu cầu cơ bản trên các lĩnh vực đúng quy định của Luật ngân sách,thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư quận cơ bản hoàn thành việc cấp GCNQ sử dụng đất cho các hộ có giấy tờ hợp pháp hợp lệ. Tiêu chí tác động QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưng đã có những tácđộng nhất định đối sự phát triển kinh tế xã hội quận như: các khoản thu ngân sách tăng bình quân hàng năm; ý thức pháp luật của người dân đã được nâng cao; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn ổn định; cảnh quan môi trường và hệ thống hạ tầng kỹ thuật được cải thiện, quận đã có dáng dấp của một đô thị hiện đại, đời sống văn hoá tinh thần cho người dân ngày càng được nâng cao. Ý thức của người dân về chấp hành luật pháp về đất đai, bảo vệ đất đai cảnh quan môi trường đã được nâng lên thể hiện ở số vụ vi phạm quản lý sử dụng đất có giảm. Tuy nhiên, hình ảnh của Quận đổi mới về quản lý và thân thiện trong mắt của người dân, chưa được các cấp quản lý quan tâm đúng mức. 55 Tiêu chí bền vững Để được sự bền vững trong QLNN về địa chính của quận cần 3 yếu tố chính là: bền vững về tài chính; bền vững về nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ; bền vững về mức độ tham gia vào các hoạt động quản lý của người sử dụng đất, các tổ chức chính trị xã hội. Từ các yếu tố trên sẽ đạt được sự ổn định về sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường, văn hoá lịch sử, các công trình phúc lợi công cộng, các chính sách vì người nghèo, phát triển kinh tế xã hội nhưng không ảnh hưởng đến thế hệ sau. Những vấn đề này QLNN về đất đai của quận còn nhiều chỉ tiêu chưa đạt được và đang phấn đấu thực hiện. Tuy nhiên, QLNN về địa chính của chính quyền quận còn hiện vẫn còn lúng túng trước tốc độ phát triển nhanh của công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin. Nguồn thu ngân sách từ đất đai còn chưa ổn định, và còn dựa chủ yếu vào nguồn ngân sách; việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào quản lý còn thấp, chưa đầu tư nghiên cứu trong quản lý; Công tác tuyên truyền giáo dục chưa thực sự tốt, thái độ của người dân còn thiếu nhiệt tình tham gia vào quản lý, chưa thực sự tin tưởng vào sự đổi mới của quận. 56 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Quản lý nhà nướcvề địa chính ở Quận Hai Bà Trưng còn nhiều hạn chế, tồn tại trong quản lý về địa chính do nguyên nhân khách quan và chủ quan, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Quận Hai Bà Trưng đã và đang có nhiều nỗ lực nhằm xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về địa chính hoàn chỉnh, đáp ứng cho yêu cầu quản lý địa chính trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả đến nay hầu như toàn bộ các phường trong Quận đã xây dựng được hồ sơ, sổ sách địa chính phục vụ cho yêu cầu quản lý địa chính. Đặc biệt, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội tại Quận Hai Bà Trưng đã triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính, lập HSĐC dạng số (scan, nhập dữ liệu vào hệ thống máy tính) để thay thế dần cho việc lập sổ sách địa chính dạng giấy, nhằm thiết lập hệ thống thông tin đất đai hoàn chỉnh, hiện đại; tạo điều kiện cho việc khai thác, cung cấp thông tin đất đai một cách thuận lợi, nhanh chóng, chính xác; nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý HSĐC; và cơ sở dữ liệu về địa chính góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường bất động sản minh bạch. Tuy nhiên, hồ sơ đăng ký được lập còn nhiều sai sót và cần phải bổ sung, thêm một số nội dung, thông tin cần thiết nhất là BĐĐC và GCNQ sử dụng đất. Hơn nữa do chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu dạng số và kết nối mạng đồng bộ nên việc cung cấp thông tin đất đai được lưu trữ còn hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu thông tin cho hoạt động quản lý nhà nướctrong các lĩnh vực liên quan, cũng như cho các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng đất . 57 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỊA CHÍNH TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Phương hướng bảo đảm quản lý nhà nước về địa chính Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cho ta thấy cần thiết phải thực hiện công tác quản lý nhà nướcvề đất đai đặc biệt là công tác địa chính. Bên cạnh những kết quả đạt được và những yếu tố thuận lợi trên, công tác quản lý, sử dụng đất hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện như công tác lập và quản lý HSĐC chưa đồng bộ, kịp thời; quy hoạch, kế hoạch tổng thể và chi tiết còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; các vi phạm về đất đai như lấn chiếm, xây dựng nhà ở trái phép, sai phép, không phép; chuyển nhượng đất đai bất hợp pháp vẫn còn diễn raQuản lý nhà nướcvề địa chính là một nội dung rất quan trọng, là nền tảng cho việc bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, là điều kiện để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ đảm bảo cho đất đai được sử dụng một cách triệt để. Việc thực hiện tốt công tác quản lý địa chính không chỉ tạo tiền đề mà còn là điều kiện hết sức cần thiết cho việc triển khai thực hiện tốt các nội dung, nhiệm vụ quản lý nhà nướcvề đất đai. Trong những năm tới, với mục tiêu hoàn thiện theo hướng hoàn chỉnh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của quản lý, UBND quận Hai Bà Trưng tập trung thực hiện theo phương hướng sau: Thứ nhất, ổn định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là cơ sở cho việc quản lý địa chính. Bên cạnh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần rà soát lại quy trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch để có được tính khả thi, dân chủ và đủ công cụ 58 để đảm bảo tính thực thi, tránh tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo”. UBND quận cần rà soát lại từng khu vực để công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xem xét lại khu vực cần tiếp tục thực hiện, khu vực nào không có khả năng thực hiện thì quyết tâm công bố huỷ bỏ để giải phóng các nguồn lực đang bị “chết”, hoặc đang nằm im. Công khai hoá, minh bạch hoá các mối quan hệ mang tính “lịch sử”, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công chúng về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất . Tạo điều kiện giảm bớt tình trạng tham nhũng, hối lộ xảy ra khá phổ biến hiện nay, gây thiệt hại không nhỏ cho người dân và Nhà nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài vì sẽ xác lập ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nướcvề địa chínhvà làm cơ sở để tiến hành phân bổ quỹ đất cho các ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; khắc phục các mâu thuẫn, chồng chéo trong sử dụng đất giữa các ngành, lĩnh vực; là cơ sở để các ngành, lĩnh vực lập quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; định hướng cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư có hiệu quả vào đất đai. Đồng thời đây cũng là công cụ để huyện thống nhất quản lý về đất đai; là căn cứ để thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất ; là căn cứ để thực hiện công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nguồn tài nguyên đặc biệt và hữu hạn. Tăng cường công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cần tăng cường ở bề rộng và chiều sâu. Bên cạnh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần rà soát lại quy trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để có được tính khả thi, dân chủ và đủ công cụ để đảm bảo tính thực thi. Như vậy, cần xây dựng một lực 59 lượng có kinh nghiệm và trình độ cao để thực hiện công tác kiểm tra phương án quy hoạch đồng thời kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp. Thứ hai, tăng cường thanh tra đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo của dân về đất đai. Trong những năm vừa qua, công tác thanh tra đất đai ít được quan tâm, tiêu cực đã xuất hiện trong công tác này. Tình trạng giao đất nhiều nhưng không sử dụng xảy ra nhiều gây tình trạng lãng phí đất đai. Vì vậy tăng cường thanh tra đất đai bằng cách giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp, ngành đồng thời cấp kinh phí cho người làm công tác này. Còn việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai được hợp tình, hợp lý thì cần sử dụng biện pháp tổng hợp bởi đây là những vấn đề do lịch sử để lại và những bất cập ở hiện tại mang tới. Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nướcvề địa chính. Cần xác định ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý địa chính là quan trọng nhất. Việc này có vai trò quan trọng, tạo bước đột phá trong công tác quản lý, cải cách thủ tục hành chính. Do vậy, để công tác quản lý địa chính được chặt chẽ, khoa học thì ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa các quy trình nghiệp vụ, dịch vụ và tác nghiệp chuyên môn tại cơ sở là rất cần thiết nhằm: Tăng cường khả năng tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, xử lý và khai thác dữ liệu đất đai. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nướcvề đất đai trong tình hình mới. UBND các phường phải ứng dụng các phần mềm chuyên ngành (phần mềm Landinfo) phục vụ công tác quản lý. 60 Với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý địa chính đã góp phần nâng cao hiệu quả công việc, nhất là thống kê, kiểm kê đất đai và thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, đo đạc, lập BĐĐC. Khi có số liệu đo đạc ngoài thực địa, cán bộ đo đạc sử dụng các phần mềm ứng dụng để xây dựng bản đồ theo hệ tọa độ chuẩn. Do đó, số liệu đo đạc có độ chính xác cao hơn so với cách làm thủ công trước đây. Cần áp dụng nhiều phần mềm hỗ trợ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu quản lý địa chính trong tình hình hiện nay. Thứ tư, tạo lập cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai thuận lợi cho tra cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính thay thế cho việc lập HSĐC dạng giấy hiện nay. Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai sẽ phục vụ đắc lực tác nghiệp chuyên môn như đăng ký cấp GCNQ sử dụng đất, quy hoạch, đền bù giải phóng mặt bằng... được thực hiện chính xác, rút ngắn thời gian. Thông tin đất đai được truy vấn, khai thác đơn giản, thuận tiện làm tăng hiệu quả công việc. Thay đổi cách các điều hành công tác HSĐC theo phương pháp hiện đại, phát hiện và làm chuẩn hóa kết quả giải quyết công việc của cán bộ cấp dưới, tăng cường tư duy, năng lực cán bộ. Thứ năm, tăng cường pháp chế trong quản lý nhà nước về địa chính Xây dựng, hoàn thiện Luật đất đai với nội dung đáp ứng cho được nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá: một là tiếp tục xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; hai là, tiếp tục xác lập chế độ sử dụng đất ; ba là, xây dựng hệ thống tài chính đất đai hợp lý tạo cơ sở để xây dựng và phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, tạo cơ chế tốt để phát triển cơ sở hạ tầng cho thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu về quỹ nhà ở cho người có thu nhập thấp. Luật đất đai mới ban hành cũng như ban hành các văn bản để thực hiện Luật đất đai phải nhanh chóng và sớm đưa vào thực hiện nhằm chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. 61 Thứ sáu, thúc đẩy việc hình thành và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản. Việc xây dựng thị trường bất động sản được xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước được đề ra trong Đại hội của Đảng và xuất phát từ yêu cầu của thực tế đó là việc giao dịch, mua bán kinh doanh bất động sản đang là nhu cầu của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, thị trường bất động sản lại thiếu văn bản pháp quy, thiếu quản lý ngành dọc. Vì vậy, thị trường này đang thả nổi, phát triển theo hướng tự phát không có sự quản lý Nhà nước. Để quản lý thị trường bất động sản trước hết cần nâng cao việc quản lý các chuyển dịch và cập nhật các biến động về đất đai. Thứ bảy, hoàn thành công tác đăng ký đất đai lần đầu, lập HSĐC, cấp GCNQ sử dụng đất. Trong những năm tới cần tập trung đầu tư, hướng dẫn hoàn thành tốt công tác ĐKĐĐ lần đầu đối với những trường hợp chưa được cấp GCNQ sử dụng đất, hoàn thiện công tác lập HSĐC tại cấp cơ sở, cấp GCNQ sử dụng đất. Để quản lý chặt chẽ đất đai, chúng ta cần phải có một hệ thống HSĐC, BĐĐC hoàn chỉnh. Vì đây là nhiệm vụ thường xuyên nhưng tầm quan trọng của nó thì rất đặc biệt. Trong quá trình xây dựng HSĐC ban đầu, chúng ta cần triển khai, chỉnh lý biến động. Việc chỉnh lý biến động chậm sẽ làm cho việc quản lý diễn ra phức tạp hơn, gây lãng phí nhiều hơn. Quá trình đăng ký đất đai, lập HSĐC cần phải kết hợp chặt chẽ với quá trình tin học hoá hệ thống quản lý bằng việc xây dựng hệ thống đất đai. Thứ tám, tổ chức đổi mới bộ máy quản lý nhà nướcvề địa chính theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ và thực hiện cải cách hành chính. Bộ máy quản lý nhà nướcvề đất đai là 1 hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước gồm các cấp từ TW đến địa phương, chịu trách nhiệm quản lý nhà nướcvề đất đai trên tầm vĩ mô. 62 Để đổi mới bộ máy quản lý nhà nướcthì cần thực hiện chuyên môn hoá, hợp tác hoá giữa các cấp, các ngành quản lý địa chính. Cần phân công rõ ràng nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp tránh chồng chéo, trách tình trạng “cha chung không ai khóc”. Đầu tiên, ta cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của cơ quan địa chính theo hướng gọn nhẹ, phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ và đồng bộ đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt đảm bảo bộ máy hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả. Bên cạnh việc phân công rõ ràng cần có sự phối hợp trong hoạt động đảm bảo sự điều hành tập trung thống nhất, thông suốt, kỷ luật cao. Đặc biệt đối với công tác phức tạp là xây dựng hệ thống quản lý địa chính đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý nhà nướccùng những các ngành có liên quan trong việc thực hiện. Để bộ máy quản lý nhà nướchoạt động có hiệu quả cần tăng cường công tác đào tạo và tu nghiệp đội ngũ cán bộ địa chính. Trước hết phải làm cho họ nhận thức được vai trò của đất đai trong thời đại mới -quản lý địa chính đặt trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Điều này cần phải tổ chức đào tạo lại nghiệp vụ cho toàn bộ đội ngũ cán bộ địa chính làm công tác đăng ký đất đai, lập HSĐC, nhất là cán bộ địa chính phường, những người mang trách nhiệm và nhiệm vụ nặng nề. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ổn định, am hiểu tình hình địa phương, nâng cao chế độ giám sát theo đúng tiêu chuẩn. Tăng cường giám sát, xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm khi thực hiện công tác đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận và thực tiễn. Cần thiết áp dụng và thực hiện nghiêm túc cơ chế “một cửa” nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các thủ tục được quy về một mối, giảm thiểu phiền hà cho tổ chức, cá nhân. 63 3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về địa chính 3.2.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quản lý về địa chính Hệ thống pháp luật của nước ta quy định về lập, quản lý hệ thống địa chính từ năm 1993 đến nay đã thay đổi khá nhiều nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý địa chính trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự thay đổi thường xuyên những chế định của pháp luật, nhất là những quy định về lập sổ sách địa chính dẫn đến những khó khăn cho các địa phương trong quá trình thực hiện, trong đó có quận Hai Bà Trưng. Do đó, cần có sự ổn định và thống nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, đồng thời bổ sung và hoàn thiện cho đầy đủ nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nướcvề địa chính. * Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trình tự, thủ tục quản lý địa chính Quy trình quản lý địa chính được xây dựng dựa trên quy định của Luật đất đai và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai. Để các cơ quan chuyên môn về quản lý địa chính dễ thực hiện công đoạn của quá trình quản lý địa chính, Nhà nước nên ban hành Luật về thủ tục quản lý địa chính. * Hệ thống văn bản do UBND Quận hướng dẫn thực hiện văn bản của cơ quan quản lý cấp trên Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành của UBND Quận là cơ sở để phòng tài nguyên và môi trường, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện giải quyết hồ sơ, quản lý địa chính cần được tập hợp hóa thành cơ sở dữ liệu văn bản về địa chính, được quản lý tại một kho dữ liệu địa chính trực thuộc phòng tài nguyên và môi trường Quận. Một hệ thống văn bản hướng dẫn đầy đủ, đồng bộ và kịp thời sẽ giúp cho công tác quản lý địa chính đơn giản, hiệu quả và khoa học. 64 3.2.2. Hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý địa chính Có thể thấy cơ quan tài nguyên và môi trường là cơ quan tham mưu, giúp việc cho cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp, với phạm vi, mức độ quyền hạn do các cơ quan hành chính quyết định giao cho. Cơ quan quản lý địa chính là một trong những bộ phận hợp thành cơ quan hành chính Nhà nước, chịu trách nhiệm quản lý ngành, lĩnh vực được phân công. Cơ quan Nhà nước chỉ xem xét, ký và ban hành các quyết định. Do vậy, muốn cơ quan tài nguyên và môi trường đủ mạnh thì cơ quan hành chính Nhà nước cần có sự phân cấp, giao quyền dứt khoát, rõ ràng cho cơ quan quản lý địa chính, sớm chuyển chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này từ cơ quan tham mưu, giúp việc sang thành cơ quan quản lý thực thụ, tạo sự chủ động cho ngành tài nguyên và môi trường giải quyết các vấn đề thuộc ngành, tự chịu trách nhiệm và báo cáo công tác khi thực hiện nhiệm vụ quản lý của ngành trước cơ quan hành chính cùng cấp. Phân định rõ chức năng đăng ký đất đai thuộc hệ thống văn phòng đăng ký đất đai với chức năng quản lý của cơ quan tài nguyên và môi trường. Văn phòng đăng ký đất đai trên cơ sở quản lý HSĐC và thông tin đất đai, không thể đơn thuần là một đầu mối tiếp nhận hồ sơ, rồi chuyển giao cho cơ quan quản lý và cập nhật những biến động theo quyết định của các cơ quan này. Sau khi quyền sử dụng đất đã được xác lập theo quyết định của cơ quan hành chính, dựa trên căn cứ này, trách nhiệm của Văn phòng đăng ký đất đai là tổ chức hoạt động đăng ký, xây dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai và cung cấp thông tin cho người có nhu cầu. Sự phân công, phân cấp quyền hạn rõ ràng, rành mạch sẽ tăng cường tính kỷ luật, tự chịu trách nhiệm của cơ quan, cán bộ quản lý; đảm bảo tính khách quan trong kết quả của hoạt động địa chính; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để ngành tài nguyên và môi trường có thể kiện toàn tổ chức và xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ. 65 Bộ máy làm công tác quản lý nhà nướcvề địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng là tài nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh quận Hai Bà Trưng và bộ phận địa chính tại UBND các phường.Do vậy, cần cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn chức năng bộ máy của cơ quan quản lý địa chính của quận Hai Bà Trưng ngày một chính quy, hiện đại, đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3.2.3. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về địa chính * Đo đạc lập bản đồ địa chính chính quy Đo đạc, lập BĐĐC là cơ sở quan trọng cho khâu kê khai đăng ký, lập HSĐC và cấp GCNQSỬ DỤNG ĐẤT, phục vụ đắc lực trong công tác quản lý nhà nướcvề đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý địa chính và sử dụng đất trong giai đoạn hiện nay của quận Hai Bà Trưng đòi hỏi phải có BĐĐC chính quy nhằm đảm bảo độ chính xác thông tin của từng thửa đất. Vì vậy tiến hành triển khai dự án hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống quản lý địa chính Việt Nam (VILAP) trên địa bàn quận và xây dựng thực hiện các dự án khác cho mục đích đo đạc lập BĐĐC trên phạm vi toàn quận là rất cần thiết. * Đẩy mạnh, nhanh việc đăng ký đất đai, cấp GCNQ sử dụng đất: UBND quận chỉ đạo các phường thực hiện việc rà soát, xác định lại kết quả cấp GCNQ sử dụng đất, thống kê tình hình tồn đọng chưa cấp GCNQ sử dụng đất. Căn cứ vào khối lượng tồn đọng, mục tiêu cơ bản của từng địa phương, UBND quận cần giao chỉ tiêu khối lượng cần cấp GCNQ sử dụng đất cho từng phường phải thực hiện và hoàn thành trong năm 2016. Rà soát cải cách thủ tục hành chính trong cấp GCNQ sử dụng đất cho phù hợp với quy định của pháp luật đất đai hiện hành, rút ngắn thời gian, 66 giảm phiền hà cho người sử dụng. Các văn bản giải quyết vướng mắc, tồn tại trong cấp GCNQ sử dụng đất cần phải cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế, không quá cầu toàn mà nên phân chia các vướng mắc, tồn tại thành nhiều nhóm để ban hành thành nhiều văn bản cho thống nhất, bảo đảm tính kịp thời. Các trường hợp đang có tranh chấp, vi phạm pháp luật đất đai đối với một phần diện tích mà chưa thể giải quyết ngay thì xem xét cấp GCNQ sử dụng đất trước đối với phần diện tích đất không tranh chấp, vi phạm. Các trường hợp do quản lý yếu kém, để dân lấn chiếm hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp thành đất ở hay người dân lấn chiếm đất công đã ổn định từ trước 1/7/2014 cần rà soát, xem xét cấp GCNQ sử dụng đất cho người sử dụng để thực hiện quản lý và tạo nguồn thu ngân sách Nhà nước. Mặt khác, UBND quận và UBND các phường cũng tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật để người sử dụng đất thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó có trách nhiệm đăng ký quyền sử dụng đất đối với các cơ quan Nhà nước . *Giải pháp về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Tiếp tục xây dựng quy hoạch chi tiết cho toàn bộ các phường trong quận, thực hiện tốt việc quản lý địa chính theo quy hoạch. Phối hợp với các ngành chức năng của thành phố thực hiện việc cắm mốc giới trên thực địa đối với các dự án chính theo quy hoạch chi tiết về sử dụng đất đã được thành phố phê duyệt tại Quyết định số 1402/QĐ-UB ngày 13/2/2014; Công bố, công khai quy hoạch chi tiết các dự án đã được phê duyệt cho nhân dân trong quận biết và tự giác thực hiện. * Giải pháp về công nghệ : Đối với công tác quản lý địa chính thì việc áp dụng công nghệ tin học hiện đại hóa quản lý hệ thống địa chính là một nhu cầu tất yếu. Vì vậy, giải pháp đưa ra cho quận Hai Bà Trưng để có thể nhanh chóng xây dựng được cơ sở dữ liệu địa chính là cần phải: 67 Trang bị đầy đủ hạ tầng kỹ thuật cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, phòng tài nguyên và môi trường, UBND các phường (máy tính có kết nối mạng internet và phần mềm chuyên ngành quản lý cơ sở dữ liệu địa chính). Thiết lập và hoàn thiện cơ sở dữ liệu địa chính trong đó có hệ thống mạng kết nối giữa Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, phòng tài nguyên và môi trường, UBND các phường. Triển khai cung cấp thông tin về cơ sở dữ liệu địa chính trên mạng Internet. * Giải pháp về nhân lực: - Để công tác quản lý nhà nướcvề địa chính ngày càng hoàn thiện, được sử dụng một cách có hiệu quả thì sự quan tâm đối với lực lượng nhân sự làm công tác này cũng là vấn đề không kém phần quan trọng. Do vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự đảm nhận công tác quản lý địa chính cần chú trọng: Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn và tin học cho cán bộ một cách thường xuyên. Đào tạo, tập huấn cho cán địa chính của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, phòng tài nguyên và môi trường, UBND các phường về thành lập và quản lý HSĐC, hồ sơ mốc giới, hồ sơ địa giới hành chính dạng số và các phần mềm chuyên ngành, kỹ năng quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu địa chính. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn một cách thường xuyên theo các hình thức phù hợp: dài hạn, ngắn hạn,... Đảm bảo tính ổn định, chuyên nghiệp cho chức danh cán bộ Địa chính cấp phường. Cán bộ địa chính ở phường phải công tác liên tục ở địa bàn, không thay đổi cán bộ địa chính theo nhiệm kỳ của UBND và HĐND cấp hành chính cơ sở, không kiêm nhiệm các công tác khác (quản lý xây dựng đô thị, giao thông,...). 68 - Tăng cường năng lực cho cán bộ địa chính phường để đảm bảo tiêu chuẩn: Cán bộ địa chính phường phải là người am hiểu chính sách, pháp luật quản lý đô thị nói chung và quản lý địa chính nói riêng; hướng dẫn người sử dụng đất chấp hành chính sách, pháp luật đất đai, nhà cửa; thực hiện việc hoà giải khi có tranh chấp đất đai, nhà cửa; nắm chắc hiện trạng và quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch đô thị của phường; cụ thể đến nguồn gốc từng thửa đất, đến từng người sử dụng và từng mục đích sử dụng; theo dõi, chỉnh lý kịp thời mọi biến động về đất đai; hướng dẫn người sử dụng đất chấp hành thủ tục đăng ký biến động đất đai; có hiểu biết về công nghệ quản lý địa chính đáp ứng yêu cầu quản lý ở cơ sở; quản lý tốt tài liệu, hồ sơ về đất đai; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả; có ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác; trung thực, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Đảm bảo chế độ chính sách thoả đáng và ổn định cho cán bộ địa chính phường, quan tâm và có hướng bồi dưỡng lâu dài cho đội ngũ làm cán bộ hợp đồng. Hiện nay về cơ bản chế độ chính sách đã được cán bộ cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên chế độ, chính sách hiện nay còn chưa thoát khỏi tư duy phụ cấp, còn mang tính chất bình quân: cán bộ phường ở đô thị, giá cả sinh hoạt đắt đỏ cũng giống như cán bộ xã nông thôn, miền núi. Điều này không công bằng và không khuyến khích được cán bộ phường. Vì vậy cán bộ địa chính phường cần được hưởng lương, bảo hiểm xã hội như cán bộ, công chức, ngoài ra còn có chế độ phụ cấp thâm niên, phụ cấp đắt đỏ đối với người công tác lâu năm, hoặc tại các vùng đắt đỏ, khó khăn và áp dụng hình thức thưởng đối với các phường làm tốt công tác quản lý địa chính. Đảm bảo tính ổn định, chuyên nghiệp cho cán bộ địa chính. Cán bộ địa chính cấp cơ sở phải công tác liên tục ở địa bàn, ít luân chuyển, không kiêm nhiệm công tác khác (quản lý xây dựng đô thị, giao thông). 69 *Đầu tư tài chính, kỹ thuật Ngoài đầu tư bằng ngân sách hàng năm dành cho hoạt động sự nghiệp địa chính, cần tận dụng các nguồn tài chính khác để nhanh chóng hoàn thiện và hiện đại hệ thống quản lý địa chính, thông qua ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin. đảm bảo cho hệ thống hoạt động kết nối được với hệ thống cơ sở dữ liệu các cấp thông suốt. Nghiên cứu, lựa chọn phần mềm quản trị dữ liệu phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin, đảm bảo vừa phục vụ được yêu cầu quản lý, vừa phục vụ được yêu cầu tra cứu cung cấp thông tin chính xác, nhanh chóng; phục vụ công tác cấp GCN, cập nhật chỉnh lý các biến động trong quản lý sử dụng đất nhanh chóng và chính xác. Trước mắt ưu tiên đầu tư kinh phí để cập nhật tốt các loại quy hoạch (chi tiết xây dựng, giao thông, thủy lợi) lên BĐĐC đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật (về tỷ lệ, hệ tọa độ bản đồ.) để phục vụ tốt việc khai thác sử dụng thống nhất, hiệu quả kết quả đo đạc. *Một số giải pháp khác: Tăng cường tuyên truyền, phổ biến đến toàn thể cán bộ, nhân dân trong quận tự giác thực hiện các chính sách hiện hành liên quan đến lĩnh vực nhà, đất, vận động nhân dân tự giác chấp hành . Phối hợp với các ngành chức năng của thành phố, các Phòng, ban chuyên môn của quận tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát việc quản lý, sử dụng đất của các tổ chức cá nhân, có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời xử lý đối với các trường hợp cố tình vi phạm Luật đất đai. Tiến hành rà soát, kiến nghị với thành phố và xử lý dứt điểm các trường hợp vi phạm về sử dụng đất còn tồn đọng hoặc còn tồn tại do lịch sử để lại. Tăng cường hơn nữa sự quan tâm, chỉ đạo của Quận uỷ, HĐND quận, UBND quận sự phối hợp tích cực, có hiệu quả của các ban ngành thành phố và UBND các phường trong quận. 70 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Từ thực tế công tác quản lý nhà nướcvề địa chính tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nhận thấy để công tác này được ngày một tốt hơn cần phải: - Ban hành hệ thống pháp luật đất đai cho công tác quản lý địa chính khoa học rõ ràng, hiện đại thống nhất . - Đi đôi với đầu tư để tổ chức thực hiện công tác quản lý địa chính. Cần ban hành quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng của mỗi cấp; nâng cao ý thức trách nhiệm và tổ chức thực hiện triệt để việc cập nhật, thông báo cập nhật chỉnh lý biến động. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc phát huy tác dụng là công cụ phục vụ quản lý nhà nước. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đất đai có tính định hướng và độ ổn định cao. Tranh thủ mọi nguồn lực tài chính để tổ chức thực hiện đồng thời các bước (đo đạc, đăng ký cấp GCNQ sử dụng đất, lập HSĐC) nhanh chóng đạt được mục tiêu quản lý địa chính tại cấp cơ sở. Việc đầu tư nâng cấp, bảo hành, bảo trì, bảo mật, bảo vệ hệ thống, cũng như đào tạo nguồn nhân lực cũng phải được quy định là một việc thường xuyên bắt buộc đối với đối tượng, mọi cấp ngành liên quan. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực vừa đủ về số lượng, vừa tốt về chất lượng cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến công tác quản lý địa chính. Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ mọi nguồn lực cho đào tạo, cho tổ chức thực hiện nội dung nhiệm vụ. Nâng cấp, hoàn chỉnh phần mềm quản trị dữ liệu địa chính ở cấp quốc gia cũng là điều cần được tích cực thực hiện. 71 KẾT LUẬN Quản lý địa chính là một nhiệm vụ quan trọng, đầy khó khăn, phức tạp. Nó luôn là điểm yếu của ngành tài nguyên và môi trường trong nhiều năm qua. Công tác này đã được đề cập từ lâu trong hệ thống pháp luật đất đai nước ta. Đất đai luôn biến động trong quản lý và sử dụng, việc không nhận thức được tầm quan trọng của quản lý chỉnh lý biến động và thông báo cập nhật chỉnh lý biến động sẽ dẫn đến hậu quả sau một thời gian các tài liệu được lập luôn không phản ánh đúng được thực tế quản lý, sử dụng đất . Do đó, việc khai thác sử dụng hồ sơ phục vụ công tác Quản lý nhà nướcvề địa chính cũng như đáp ứng nhu cầu tra cứu thông tin của các thành phần trong xã hội không còn tác dụng. Xuất phát từ thực tế nghiên cứu công tác quản lý địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, đề tài đã đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống Quản lý nhà nướcvề địa chính ở Quận Hai Bà Trưng nói riêng và trong phạm vi cả nước nói chung. Mặc dù tác giả luận văn đã có nhiều cố gắng và nghiên cứu, tìm hiểu trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài nhưng luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự thông cảm, đóng góp ý kiến từ quý Thầy, Cô và các Bạn . 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ tài nguyên và môi trường (2009), Thông tư 17/2009/TT-BTNMT, Quy định về GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 2. Bộ tài nguyên và môi trường (2009), Nghị định 88/2009/NĐ-CP, về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 3. Bộ tài nguyên và môi trường (2010), Thông tư 17/2010/TT-BTNMT, quy định về chuẩn dữ liệu địa chính. 4. Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 5. Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về HSĐC. 6. Hoàng Huy Biểu (1993), Địa chính các nước Châu Âu. Tạp chí quản lý ruộng đất số 1, 1993. 7. Chính phủ (2014), Nghị định 47/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 8. Chính phủ (2004), Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật đất đai. 9. Chính phủ (2014), Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai. 10. Chính phủ (2003), Nghị định 132/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 6/11/2003 về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các quận Long Biên, Hoàng Mai, thành lập các phường trực thuộc quận Long Biên, Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Quận Hai Bà Trưng cũ 24 đơn vị hành chính được chia tách 04 phường chuyển sang thành quận Hoàng Mai. 73 11. Nguyễn Bá Dũng, Vương Thị Hòe (2014), Giáo trình địa chính đại cương, NXB Chính trị Lao động. 12. Trần Thị Minh Hà (2000), “Chính sách và tình hình sử dụng đất đai của Ôxtrâylia”, Báo cáo chuyên đề Tổng hợp về Chính sách và tình hình sử dụng đất đai của một số nước trong khu vực và trên thế giới, Vụ Khoa học và Hợp tác Quốc tế - Bộ Khoa học và Công nghệ. 13. Đinh Xuân Hải và Vũ Sỹ Cường (2014), Giáo trình tài chính và quản lý đất đai, NXB tài chính. 14. Nguyễn Đức Khả (2003), Lịch sử quản lý đất đai, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 15. Phòng tài nguyên và môi trường quận Hai Bà Trưng, Số liệu thống kê đất đai, kiểm kê đất đai và các số liệu khác liên quan đến quản lý và sử dụng đất các năm. 16. Phòng Thống Kê quận Hai Bà Trưng, Số liệu thống kê tình hình kinh tế, xã hội các năm. 17. Quốc hội, (1993, 2003, 2013), Luật đất đai 1993, Luật đất đai 2003, Luật đất đai 2013, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. 18. Nguyễn Trọng San (2008), Giáo trình địa chính đại cương. Trường đại học Mỏ địa chất. 19. Nguyễn Khắc Thái Sơn (2007), Giáo trình Quản lý nhà nướcvề đất đai. NXB Nông nghiệp. 20. Tổng cục Địa chính (1998), Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập HSĐC và cấp GCNQSDĐ. 21. Tổng cục Địa chính (2001), Thông tư số 1900/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 hướng dẫn đăng ký đất đai, lập HSĐC và cấp GCNQSDĐ. 22. Lê Đình Thắng và các thành viên (2005), Giáo trình Đăng ký và thống kê đất đai. NXB Hà Nội. 74 23. Trần Văn Tuấn (2011), Quản lý tài chính đất đai, Tập bài giảng. Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Hà Nội. 24. Tạp chí địa chính ( 2002). Các văn bản pháp luật về quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam giai đoạn 1945 - 6/2001, NXB Bản đồ (3 tập). 25. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2001),Quyết định số 65/2001/QĐ-UB ngày 29/8/2001 ban hành quy định về cấp GCNQSDĐ ở, đất ao và vườn liền kề khu dân cư nông thôn trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 26. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Quyết định số 23/2002/QĐ-UB ngày 18/02/2005 ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của UBND thành phố được Luật đất đai 2013 và Nghị định của Chính phủ giao về đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác găn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhận, công đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhận nước ngoài; chuyển mục đích sử đụng dất vườn, ao liền kề và đất vườn, ao xen kẹt trong khu dân cư (không thuộc đất công) sang đất ở trên địa bàn thành phố Hà Nội. 27. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 ban hành quy định về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội. 28. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 13/2013/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 ban hành quy định về cấp 75 GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội. 29. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2014 ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của UBND thành phố được Luật đất đai 2013 và Nghị định của Chính phủ giao về đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác găn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhận, công đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhận nước ngoài; chuyển mục đích sử đụng dất vườn, ao liền kề và đất vườn, ao xen kẹt trong khu dân cư (không thuộc đất công) sang đất ở trên địa bàn thành phố Hà Nội. 30. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 47/2014/QĐ-UBND ngày 20/8/2014 về việc thu phí thẩm định cấp quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. 31. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 60/2014/QĐ-UBND ngày 20/8/2014 về việc thu phí địa chính trên địa bàn thành phố Hà Nội. 32. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 18/12/2015 ban hành Quy định về đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; công nhận quyền sử dụng đất; cấp GCNQSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài; chuyển mục đích sử dụng đất vườn, ao liền kề và đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư sang đất ở trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dia_chinh_tu_thuc_tien_quan_hai.pdf
Luận văn liên quan