Luận văn Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP quốc tế Việt Nam (VIB) - Thực trạng và giải pháp

- Yêu cầu khách hàng vay phải mua bảo hiểm trong quá trình xây dựng và bảo hiểm công trình (đối với các dự án đầu tư), bảo hiểm hàng hóa Trên thực tế thời gian qua, nhờ sử dụng yêu cầu này mà những tổn thất vốn vay do thiên tai gây ra đã được cơ quan bảo hiểm thanh toán, giảm thiểu đáng kể những tổn thất. - Hoàn thiện về mặt pháp lý của các tài sản bảo đảm tiền vay để thuận lợi trong xử lý tài sản bảo đảm, nguồn thu nợ thứ hai khi rủi ro tín dụng xảy ra. Qua xử lý một số tài sản bảo đảm tiền vay cho thấy sở hữu về tài sản không rõ ràng, không có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nên việc bán tài sản rất khó khăn (cơ quan công chứng không chịu công chứng hợp đồng, người mua e ngại ). Nguyên nhân của tình trạng này là do khách hàng ngại tốn chi phí nên không đăng ký sở hữu tài sản (đặc biệt là đối với nhà xưởng, công trình trên đất), ngân hàng không đôn đốc khách hàng hoàn thiện các thủ tục về tài sản bảo đảm, việc đăng ký sở hữu tài sản trên đất gặp nhiều khó khăn về thủ tục nên khá nhiều tài sản trên đất, đặc biệt là nhà xưởng, công trình xây dựng trên đất thế chấp tại Chi nhánh chưa có giấy tờ về sở hữu tài sản. Do đó hồ sơ bảo đảm tiền vay không đầy đủ, gây khó khăn cho quá trình xử lý tài sản thu hồi nợ. Ðể giảm những rủi ro về mặt pháp lý, cần thỏa thuận việc hoàn thiện về thủ tục đăng ký sở hữu tài sản sau khi dự án hoàn thành là một điều kiện tín dụng, đồng thời thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, liên tục rà soát hồ so pháp lý và thực trạng của tài sản bảo đảm.

pdf120 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4155 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP quốc tế Việt Nam (VIB) - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhiên, các khóa học đào tạo của Ngân hàng thường chỉ được tổ chức mang tính chất hình thức, không diễn ra thường xuyên và không mang lại hiệu quả cao. 92 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM 3.1. Dự báo tình hình rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong thời gian tới Các nền kinh tế trên thế giới đã và đang ngày càng hội nhập, xích lại gần nhau hơn. Điều này có nghĩa là nền kinh tế thế giới đang ngày càng có mối quan hệ gắn bó và có tác động qua lại lẫn nhau. Bất kỳ nền kinh tế nào khi tham gia vào sân chơi toàn cầu đều ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi nền kinh tế khác. Do vậy, khi đánh giá tình hình rủi ro tín dụng của các Ngân hàng tại Việt Nam cần đánh giá tổng thể bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, bản thân nền kinh tế Việt Nam và từ đó đưa ra những dự báo về tình hình rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.1 Bối cảnh nền kinh tế, thị trường tài chính tiền tệ thế giới Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ từ cuối năm 2007 đã nhanh chóng lan rộng ra các nền kinh tế lớn, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái toàn cầu và hiện đang diễn biến rất phức tạp. Nhiều quốc gia đã phải bơm vào nền kinh tế hàng trăm cho đến hàng nghìn tỷ USD để cứu vãn tình hình và ổn định kinh tế. Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không tăng trưởng, rối loạn đang chờ phía trước. Cho đến nay, tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Sự sụp đổ của những ngân hàng lớn đã gây nên những lo ngại và mất niềm tin của dân chúng. Ngay cả các quỹ đầu tư tiền tệ, vốn được coi là góc an toàn bậc nhất trong hệ thống tài chính Mỹ, là nền tảng 93 cho hoạt động đầu tư của nước này, cũng gặp khó khăn khi người dân ồ ạt rút tiền do những quan ngại về sự đổ vỡ tiếp theo.[22] Cuộc khủng hoảng tài chính đã, đang và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trên thế giới, nhất là trong quý IV năm 2008 và năm 2009. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng chậm lại từ mức 5% năm 2007 xuống 3,7% năm 2008 và chỉ còn 2,2% vào năm 2009, trong đó dẫn đầu là sự sa sút của các nền kinh tế phát triển, bởi tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ngày càng lan rộng. Tốc độ tăng trưởng ở khu vực các nước kinh tế phát triển đã giảm 0,3% vào năm 2009. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới, tháng 10, công bố ngày 6- 11-2009, IMF dự đoán nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ giảm 0,7% trong năm 2009 thay vì mức dự báo tăng 0,1% trước đây. Tăng trưởng kinh tế ở khu vực sử dụng đồng ơ-rô được dự báo sẽ giảm 0,5% trong năm 2009 so với tăng 0,2% theo dự báo hồi tháng 10. Nền kinh tế Nhật Bản dự kiến sẽ giảm 0,2% trong năm 2009, giảm mạnh so với mức dự báo tăng 0,5% hồi tháng trước. [24] Cũng trong báo cáo này, IMF đã hạ mức dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 của các nước đang phát triển từ 6,1xuống còn 5,1%. Đối với các nước đang phát triển ở châu Á, IMF dự báo tăng trưởng năm 2010 sẽ là 7,1%, thấp hơn 0,6% so với dự đoán trước đó. Theo IMF, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông Á, trong đó có Trung Quốc, vẫn bảo đảm mức tăng trưởng dương. Tuy nhiên, những dự báo này cũng cho thấy, tốc độ tăng trưởng bùng nổ ở khu vực này vẫn tiếp tục chậm lại. Dự kiến trong vòng 3 năm tới, tình hình tài chính của các quốc gia trong thời gian tới, đặc biệt là các quốc gia có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế toàn cầu như Mỹ, trung Quốc, Đức, Anh, Pháp, Nhật...phần lớn vẫn chịu ảnh 94 hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2010. Hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính đã làm cho 33 ngân hàng hàng đầu của Mỹ đã phá sản. Và với tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, tài chính, cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ này sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng nặng nề tới các nền kinh tế hùng mạnh ở châu Âu, châu Á như: Đức, Anh, Pháp, Nhật, Singapore v.v. Toàn bộ kinh tế thế giới bị đẩy vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, hầu hết các nước đều có mức tăng trưởng âm. Một vài tín hiệu khả quan về việc nền kinh tế toàn cầu đang dần thoát khỏi suy thoái đang được le lói, song tiến trình hồi phục vẫn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua vẫn còn những ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế thế giới. Lĩnh vực tài chính ngân hàng là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng vừa qua. Dự kiến trong thời gian tới, tình hình rủi ro tín dụng của các Ngân hàng sẽ tiếp tục tăng và khó có thể lường trước được do những biến động của thị trường. 3.1.2. Dự báo tình hình rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới Với một độ mở rất cao nên ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế tới nền kinh tế Việt Nam là không thể tránh khỏi. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua tới Việt Nam được đánh giá với mức độ khác nhau. Vào 6 tháng đầu năm 2008, trong khi hầu hết các nước đang bị suy thoái nặng nề thì nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng. Mức xuất khẩu cả năm 2008 vẫn đạt gần 30% so với năm trước, trong khi hệ thống ngân hàng của Mỹ, Đức, Anh lâm vào tình trạng khốn đốn thì ở Việt Nam không có ngân hàng lớn, nhỏ nào bị phá sản. Tuy nhiên, trên thực tế khủng hoảng tài chính ở Mỹ cũng có những tác động nhất định đến thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng, chu 95 chuyển vốn thị trường thế giới. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam đã đã hội nhập nên tác động của của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ tới Việt nam là điều không tránh khỏi. [23] Ví như, thời gian qua lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế - LIBOR và SIBOR - đang tăng. Nó có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp. Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp. Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm cho người dân dự đoán USD sẽ xuống giá và họ có thể rút USD khỏi ngân hàng, hoặc bán USD mua tiền Việt gửi vào. Nó có thể làm cấu trúc tài sản của các ngân hàng rơi vào thế bất lợi. Hơn nữa, hiện nay 60% GDP của chúng ta là để phục vụ cho xuất khẩu, mà Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may, da giày, thuỷ sản của Việt Nam. Do vậy trong cuộc khủng hoảng kinh tế này, các doanh nghiệp trên thị trường khó tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng. Điều này đã đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào tình cảnh nợ nần, phá sản. Thêm vào đó giá bất động sản ở Việt Nam cũng có thể xuống thấp hơn nữa. Mà bất động sản xuống thì tài sản ngân hàng cũng xuống theo và nợ xấu có thể tăng lên. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì dư nợ cho vay bất động sản tính đến cuối tháng 9/2009 là 115.500 tỷ VND, chiếm 9,15% tổng dư nợ toàn hệ thống. [24] Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể chững lại, thậm chí vốn đã cam kết sẽ thực hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi không đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân sẽ gặp khó khăn. Rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng sẽ tăng cao. 96 Thêm vào đó, hiện tại, tình hình quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Việt Nam chưa thực sự được coi trọng vì chạy theo thị phần, lợi nhuận, các ngân hàng đã bỏ qua những quy định, những quy tắc của Nhà nước, xem nhẹ quy trình về quản trị rủi ro, hoạt động quản trị rủi ro mới chỉ dừng ở góc độ đối phó với các quy định của Nhà nước. Hoạt động quản trị rủi ro mới chỉ mang tính chất sơ khai. Trong khi đó, tình hình tài chính tiền tệ lại có nhiều biến động. Với việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới với nhiều biến động như hiện nay đòi hỏi các Ngân hàng cần tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng hơn nữa. Tuy vậy, công tác quản trị rủi ro tín dụng không thể thực hiện trong một sớm một chiều. Đó là cả một quá trình liên tục, thường xuyên mà Ngân hàng cần phải thực hiện. Do vậy, trước mắt trong thời gian tới, rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng ở Việt Nam vẫn có xu hướng tăng. 3.2. Định hƣớng tăng cƣờng công tác quản trị rủi ro tín dụng giai đoạn 2009-2013 3.2.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh Nhận thức rõ vị trí hiện tại của Ngân hàng trong số các Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam, biết mình là “kẻ đi sau” chứ không phải là người dẫn đầu và còn nhiều những khó khăn bất cập trong phát triển sản phẩm hay cơ cấu quản lý..., để nâng cao vai trò của Ngân hàng VIB hơn nữa, VIB đã đề ra chiến lược phát triển kinh doanh giai đoạn 2009 – 2013 với nhiều dự án lớn, nhiều cải cách mới được đưa ra. Mục tiêu lớn nhất trong giai đoạn 2009-2013 của Ngân hàng VIB là trở thành Top 3 Ngân hàng TMCP lớn nhất tại Việt Nam. Để làm được điều này, Ngân hàng VIB cũng xác định rõ đưa ra tầm nhìn, nhiệm vụ và vị trí chiến lược rõ ràng như được biết đến với các sản phẩm sáng tạo được phát triển và hướng tới các phân đoạn khách hàng cụ thể; Cơ cấu tổ chức lấy khách hàng 97 làm trọng tâm; Văn hóa ngân hàng tốt, hướng tới hiệu quả; Khen thưởng định lượng, rõ ràng đối với từng cá nhân… 3.2.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro Tiếp tục dẩy mạnh phát triển khách hàng tại các khu vực thị truờng mục tiêu của VIB thông qua việc tiếp thị các sản phẩm hiện có nhằm mở rộng thị truờng hoạt dộng tín dụng tới mọi linh vực, mọi dối tuợng khách hàng mà pháp luật cho phép. Ðẩy mạnh cho vay dối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh bán lẻ dối với tư nhân cá thể, hộ gia đình, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dô thị, khu chung cư và khu dân cư,.. Ðồng thời điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng tín dụng, đo lường và quản trị được rủi ro trong hoạt dộng tín dụng nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng du nợ và không vuợt quy dịnh của Ngân hàng Nhà nuớc. Mục tiêu của ngân hàng về nợ quá hạn và nợ xấu trong giai đoạn 2009-2013 là: - Nợ quá hạn :  2.5% - Nợ xấu :  2% Mục đích của việc đưa ra mục tiêu nợ quá hạn và nợ xấu là kim chỉ nam hàng đầu bởi thị trường tài chính, tiền tệ, cũng như tình hình kinh tế thế giới trong thời gian tới có nhiều biến động và có yếu tố khó lường. Do vậy, Ngân hàng VIB đưa ra chính sách thận trọng về nợ quá hạn và nợ xấu. Đồng thời, Ngân hàng cũng đưa ra chính sách tăng trưởng hoạt động tín dụng đạt mức 20-25% năm và duy trì tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu đảm bảo theo chính sách tín dụng đề ra. Chính sách quản lý rủi ro tín dụng là văn bản cao nhất trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng của Ngan hàng VIB. Trong chính sách quản lý rủi ro tín dụng, Ngân hàng cần phân định rõ bộ máy tổ chức quản lý rủi ro tín dụng; thẩm quyền ban hành các văn bản quản lý rủi ro tín dụng; chính sách về phân 98 loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng; thẩm quyền phán quyết; quy định về báo cáo và kiểm tra giám sát rủi ro. Ngân hàng VIB cũng thống nhất quan điểm tổng quát về quản trị rủi ro tín dụng: + Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho một khách hàng, một ngành nghề/lĩnh vực, các nhóm khách hàng, ngành nghề/lĩnh vực có liên quan với nhau, 1 loại tiền tệ và tại một địa bàn. + Thực hiện phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư tín dụng theo định hướng lựa chọn nhưng ngành nghề, lĩnh vực và nhóm khách hàng có khả năng phát triển và đạt hiệu quả, không đầu tư quá mạnh, đầu tư theo phong trào vào một nhóm ngành hàng/khách hàng do cho ngành nghê/khách hàng đó đang có sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ nhưng có khả năng bão hòa hoặc cung vượt cầu trong tương lai. + Tăng khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động của VIB thông qua nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường kiểm soát, giám sát liên tục, toàn diện và kịp thời trong quá trình cấp tín dụng + Xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu uyển chuyển, hiệu quả, đảm bảo giữ được sự hợp tác của khach hàng trong quá trình xử lý nợ xấu, giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra. + Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro tín dụng + Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải được thực hiện thông qua UBTD và thông qua hội đồng quản trị với nhiều thành viên tham gia quyết định cho vay, đảm bảo tính khách quan trong quá trình cho vay. + Xây dựng CSTD ngành hàng linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. + Áp dụng thành công hệ thống XHTD nội bộ và hệ thống phân loại, quản lý TSBĐ. 99 Đồng thời, ngân hàng cũng đưa ra quan điểm về xử lý nợ nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho VIB: + Phối hợp tích cực giữa các Phòng ban trong quản trị các chỉ số an toàn. + Tăng cường công tác thu hồi nợ và tận thu lãi đọng. + Kiểm soát chặt chẽ nợ nhóm 1, phát hiện sớm các khoản vay có rủi ro cao đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. + Rà soát tổng thể các khách hàng có nợ nhóm 2 và đưa ra giải pháp tối ưu cải thiện tình trạng nợ + Kiểm soát chặt chẽ các lĩnh vực, Ngành hàng có rủi ro cao bằng công tác cảnh báo hệ thống. + Hoàn thiện hệ thống cảnh báo hạn mức tín dụng và nâng tần suất cảnh báo lên 1 ngày/1 lần . + Theo dõi việc nhập đúng, đủ các tỷ lệ an toàn và hạn mức tín dụng, đặc biệt hạn mức trung dài hạn + Triển khai nghiệp vụ Nợ quá hạn trên toàn Hệ thống 3.3. Các giải pháp tăng cƣờng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam 3.3.1.Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro 3.3.1.1. Nâng cao chất luợng thẩm định và phân tích tín dụng Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn trọng và thiếu chính xác dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Ðây là bước cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả cao nhất, ít tổn thất nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng duợc yêu cầu về chất lượng phân tích và thời gian ra các quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở phân tích lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng. Giải quyết các đòi hỏi này cần 100 thực hiện: - Phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể của khách hàng thông qua xác dịnh giới hạn tín dụng theo dịnh kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng có cái nhìn tổng thể về tình hình tài chính, chất lượng kinh doanh và đánh giá triển vọng phát triển của doanh nghiệp để nhận thấy những rủi ro của doanh nghiệp, định ra một giới hạn tín dụng hợp lý, nằm trong giới hạn chịu nợ của khách hàng đối với hệ thống ngân hàng VIB. Tuy nhiên mỗi khách hàng không chỉ vay tại một ngân hàng mà còn có thể vay tại nhiều ngân hàng khác nhau và sự đổ vỡ của bất kỳ khoản vay tại ngân hàng nào cũng sẽ gây ra rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó bên cạnh việc định ra giới hạn tín dụng cần kèm theo các điều kiện tín dụng khác, đặc biệt là điều kiện về tổng dư nợ vay và cơ cấu tài chính của khách hàng, nhằm đảm bảo mức độ an toàn trong kinh doanh. Ðể thực hiện tốt yêu cầu này, cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích môi trường vi mô, vi mô, môi trường nội bộ của doanh nghiệp, lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…) để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của ngân hàng. Trong phân tích định lượng, ứng dụng và hoàn thiện hệ thống cho điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng (trong giai đoạn đầu chỉ nên tập trung vào các doanh nghiệp). Hệ thống này cần được thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và điều kiện kinh tế Việt Nam, không nên cứng nhắc theo những tính toán của các nước có điều kiện không tương đồng. Thông qua việc sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý, phản ánh một cách rõ ràng hơn mức dộ rủi ro của các khoản vay dự kiến và xây dựng những biên pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro truớc khi cấp tín dụng với khách hàng. Nỗ lực xác định giới hạn tín dụng hợp lý sẽ giúp 101 cho ngân hàng luôn ở thế chủ động và có giải pháp kiểm soát rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. - Trên cơ sở giới hạn tín dụng đã được phê duyệt, trong từng lần cấp tín dụng chủ yếu tập trung phân tích rủi ro của chính phương án vay đó để giảm bớt thời gian xử lý các giao dịch. Trong phân tích này, cần tập trung đến tính pháp lý của phương án/ dự án vay, đến nguồn cung cấp, thị trường và khả năng tiêu thụ… Ðồng thời cần đưa ra những rủi ro dự kiến, khả năng kiểm soát của ngân hàng và kịch bản xử lý khi những tình huống xấu xảy ra. - Trong thẩm định các dự án đầu tu, tình trạng nâng giá trị thực tế của dự án để được vay nhiều hơn, thuê đất nhiều hơn khá phổ biến. Ðiều này đã dẫn đến rủi ro bởi vốn tự có tham gia thực sự của khách hàng vay chiếm tỷ lệ thấp dẫn đến tính chịu trách nhiệm của khách hàng không cao, đồng thời khi rủi ro xảy ra thì khả năng thu hồi được nợ đã giảm sút. Ðể đảm bảo xác định khách quan và chính xác giá trị tài sản bảo đảm, cần thuê một tổ chức định giá hoặc kiểm toán độc lập, có uy tín để thực hiện việc kiểm toán toàn bộ việc thanh quyết toán giá trị công trình và định giá tài sản. Ðồng thời thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc việc chứng minh nguồn vốn tự có tham gia dự án của khách hàng, giải ngân đối ứng theo tiến độ công trình. - Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án/dự án, các tài sản bảo đảm …để đảm bảo lợi ích thu được phải tương xứng với mức độ rủi ro. Dựa trên mức lãi suất cơ bản của NHNN ban hành và chi phí vốn của mình, NGÂN HÀNG VIB chỉ nên xây dựng mức lãi suất tham khảo và giao cho các Chi nhánh quyền chủ động xác định mức lãi suất phù hợp đối với từng khách hàng, đồng thời cần xây dựng biểu lãi suất theo thang bậc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp (phần dư nợ vay vuợt giới hạn tín dụng tham khảo nhưng vẫn trong giới hạn tín dụng được phê duyệt phải áp dụng mức lãi suất cho vay 102 cao hơn). Các khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng càng thấp thì cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn tự có, cần lựa chọn những tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao… Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm bảo các quyền lợi của Ngân hàng VIB khi rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra. 3.3.1.2. Quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quá trình giải ngân và sau khi cho vay Thực hiện giải ngân theo đúng các quyết định cấp tín dụng của cấp phê duyệt, đối chiếu giữa mục đích vay, yêu cầu giải ngân và co cấu các chi phí trong nhu cầu vốn của khách hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có đầy đủ chứng từ chứng minh và hợp lệ. Hạn chế giải ngân bằng tiền mặt trừ những trường hợp đặc thù do hoạt động kinh doanh của khách hàng như cho vay thu mua nông, lâm thủy sản của các hộ dân, trả lương công nhân, chỉ áp dụng phương thức thanh toán chuyển khoản để có thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay của khách hàng… Những rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi cho vay không chỉ do bản thân phương án kinh doanh kém hiệu quả, khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích mà còn do ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi kết thúc phương án kinh doanh, dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng nguồn tiền này vào các mục đích kém hiệu quả hay không minh bạch. Ðể phòng ngừa những rủi ro này, cần thực hiện kiểm soát chặt chẽ sau khi cho vay: Thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay phù hợp với đặc thù của các khoản vay, chất luợng khách hàng. Do mỗi khoản vay, mỗi khách hàng vay có sự khác biệt nhất định mà cần xây dựng và lựa chọn một kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn hợp lý, đảm bảo an toàn cho ngân hàng nhưng cũng tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của khách hàng và mối quan hệ giữa các bên. Nên 103 sử dụng xếp hạng tín dụng khách hàng làm co sở cho việc xác định định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc nửa năm kiểm tra sử dụng vốn vay, trong đó những khách hàng có xếp hạng tín dụng cao, có uy tín trong quan hệ tín dụng thì thời hạn kiểm tra sử dụng dài hơn, các khách hàng xếp hạng tín dụng càng thấp thì mật độ kiểm tra nhiều hơn. Ðối với những khách hàng có nợ xấu, cần kiểm tra và phân loại nợ 1 lần/tháng để theo sát tình hình của khách hàng, có nhận định, phân tích và giải pháp đúng đắn nhằm hạn chế rủi ro. Trong kiểm tra sử dụng vốn, cần nghiêm túc thực hiện kiểm tra trên thực tế, có đánh giá về việc sử dụng vốn, về tài sản bảo đảm của khách hàng, kịp thời phát hiện những rủi ro và có biện pháp xử lý, tránh tình trạng thực hiện kiểm tra mang tính đối phó, thực hiện trên giấy tờ. Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời những dấu hiệu của rủi ro như khách hàng có khó khăn trong việc trả nợ, sự thay đổi của môi truờng kinh doanh, tình hình thị truờng ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh, có dấu hiệu vi phạm pháp luật …, dựa trên hệ thống các tín hiệu cảnh báo sớm về rủi ro tín dụng (điều này đang được Ngân hàng VIB thực hiện trong ban hành các văn bản về từng loại hình cho vay trong thời gian gần đây) để nắm bắt khả năng xử lý chủ động, kịp thời các rủi ro có nguy cơ xảy ra. Theo dõi chặt chẽ các nguồn tiền của khách hàng trên cơ sở xây dựng cơ chế tra soát đối với từng loại vay (các khoản vay để xuất khẩu thì kiểm tra ngày xuất hàng, các yêu cầu đòi tiền, bộ chứng từ hàng xuất và thời gian thanh toán; các khoản vay xây dựng cơ bản cần kiểm tra tiến độ công trình, xác nhận của chủ đầu tư về công nợ và cam kết chuyển toàn bộ nguồn tiền thanh toán về tài khoản của khách hàng mở tại chi nhánh; các khoản vay thương mại cần kiểm tra tồn kho, công nợ hàng tháng và kiểm tra việc sử dụng các nguồn thu của khách hàng, quy định nguồn tiền hàng từ phương án vay phải trả nợ ngay sau khi thu được tiền, cho dù khoản vay chưa dến 104 hạn…). Kiểm tra chặt chẽ nguồn tiền từ phương án kinh doanh sẽ giúp ngân hàng kịp thời thu nợ đúng hạn. 3.3.1.3. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ Ðồng thời với việc thiết lập cơ chế “giám sát song song” thông qua chức năng của Phòng Quản lý nợ, cần chú trọng công tác “hậu kiểm” của kiểm tra nội bộ để tăng cuờng khả năng kiểm soát tính tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng, giảm thiểu những rủi ro tín dụng. Trước mắt, khi chưa thực hiện lập Phòng Kiểm tra nội bộ khu vực để đảm bảo đủ thẩm quyền và độc lập trong kiểm tra kiểm soát, nên tạo ra sự không phụ thuộc và độc lập nhất định của Phòng Kiểm tra nội bộ của Chi nhánh bằng cách quy định lương của cán bộ kiểm tra nội bộ sẽ do Hội sở chính trả và nhân sự của Phòng này do Hội sở chính chỉ định, bổ miễn và miễn nhiệm. Có như vậy thì Phòng kiểm tra nội bộ mới đủ thẩm quyền để thực thi các nhiệm vụ của mình. Trong công tác kiểm tra nội bộ, ngoài thực hiện kiểm tra theo định kỳ, cần tập trung và tăng tần suất kiểm tra các khách hàng có nợ xấu, đánh giá việc thực thi các biện pháp quản lý nợ có vấn đề và khả năng thu hồi nợ. Công tác kiểm tra nội bộ cần thực hiện có trọng điểm, theo các ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn nguy co rủi ro để kịp thời chấn chỉnh và đề xuất các giải pháp để tăng cuờng khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng. 3.2.1.4. Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng Trong thời đại ngày nay, muốn thành công trong kinh doanh cần có những thông tin hữu ích. Khi mà tính kém minh bạch trong các hoạt dộng kinh doanh tại Việt Nam còn khá phổ biến thì yêu cầu thiết lập kho dữ liệu thông tin sử dụng cho hoạt dộng kinh doanh là hết sức cần thiết. Mặc dù trong những năm gần dây Trung tâm CIC của NHNN và Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng VIB đã có nhiều nỗ lực trong tạo lập kho dữ liệu về các doanh nghiệp vay vốn cũng như xây dựng đánh giá về các ngành sản xuất 105 kinh doanh, làm cơ sở trong phân tích tín dụng nhưng khả năng đáp ứng các yêu cầu này còn nhiều hạn chế. Ðặc biệt thông tin tín dụng tập trung vào nội dung phản ánh, ít có tính dự báo, đưa ra các giải pháp phòng ngừa và không phản ánh được đặc thù tình hình kinh tế xã hội tại địa phương. Do đó khả năng sử dụng các thông tin này cho công tác thẩm định tín dụng chưa cao và chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa rủi ro. Do đó cần tạo lập hệ thống thông tin tín dụng có tính hữu ích cao hơn theo hướng: - Dựa trên cơ sở hợp tác, NHNN thực hiện kết nối kho thông tin dữ liệu giữa các ngân hàng để bổ sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của kho dữ liệu, không chỉ là các dữ liệu về khách hàng mà còn các đánh giá và dự báo về ngành, làm nền tảng trong phân tích và thẩm định tín dụng. - Dựa trên thông tin về các doanh nghiệp, ngành hàng, dự án dã cấp tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng VIB cần tổng hợp và đưa ra các đánh giá, phân tích và cung cấp các thông tin hữu ích cho toàn bộ hệ thống để sử dụng trong thẩm định tín dụng. Kho dữ liệu này cần có tính mở để có khả năng tích hợp với kho dữ liệu của các ngân hàng khác nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác trong cạnh tranh được đặt ra trong môi trường hội nhập. - Ngân hàng VIB cần thiết lập các mối liên hệ với các tổ chức, dịch vụ cung cấp thông tin trên thế giới để có thể khai thác, mua tin khi cần thiết để đáp ứng yêu cầu thông tin từ các Chi nhánh, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính, hoạt động của các công ty mẹ - đối tác ở nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. - Trên cơ sở mô hình tổ chức hướng đến khách hàng đã được triển khai, hệ thống thông tin khách hàng cần được tổ chức một cách hợp lý, tránh trùng lặp trong thu thập dữ liệu, đảm bảo có những thông tin toàn diện và đầy đủ theo đúng tính chất và đặc thù khách hàng. Ðồng thời với việc thu thập thông 106 tin, cần sử dụng các công cụ phân tích thông tin hiện đại để tăng độ chính xác của các kết quả đánh giá nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn. Trong điều kiện các chương trình hỗ trợ thông tin về khách hàng của chương trình Siverlake còn nhiều hạn chế, Ngân hàng VIB cần thiết lập các phần mềm hỗ trợ cung cấp thông tin về khách hàng (doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ, tình trạng nợ), phân loại nợ tự động để đáp ứng nhu cầu thu thập, xử lý thông tin được nhanh nhạy, chính xác. - Cập nhật và bổ sung thuờng xuyên cẩm nang tín dụng Cẩm nang tín dụng hướng dẫn cho cán bộ những vấn đề cơ bản trong tác nghiệp. Bởi đặc thù của hoạt dộng tín dụng là dựa vào các quy định của pháp luật, sự phát triển của các sản phẩm tín dụng, do đó nó luôn luôn biến dộng và cần cập nhật một cách kịp thời. Năm 2003 Ngân hàng VIB đã ban hành cẩm nang tín dụng để nâng cao hiểu biết nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Từ dó đến nay, mặc dù đã có nhiều thay đổi về quy trình tín dụng, văn bản pháp lý, sự phát triển của các sản phẩm tín dụng mới … nhưng vẫn chưa có sự cập nhật và thay đổi, bổ sung kịp thời. Ðiều này đã làm hạn chế khả năng hệ thống và nắm bắt các vấn đề mới trong nghiệp vụ tín dụng của cán bộ. Do đó cần thực hiện việc rà soát, tái bản có điều chỉnh cẩm nang tín dụng, có thể 2 năm một lần để cập nhật các văn bản pháp lý, các quy định, quy trình, mẫu biểu mới đáp ứng các yêu cầu về đào tạo và nghiên cứu chuyên môn. 3.3.1.5 Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô Như đã trình bày ở các nội dung trước, một phần khá lớn rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất phát từ việc thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không chính xác từ khách hàng, xử lý thông tin thị trường còn sơ sài. Tất cả phần việc trên hiện đều đặt trách nhiệm vào cán bộ tín dụng nên việc xảy ra thiếu sót và sử lý sai lệch là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, hệ thống cung cấp 107 thông tin tín dụng của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và của Ngân hàng Nhà nước đang hoạt động hiệu quả chưa cao vì thông tin cung cấp chỉ thuần tuý là những con số mà thiếu những nhận định chuyên môn, những dự báo đáng tin cậy. Để tránh được rủi ro từ nguyên nhân này, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam nên thành lập Bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lượng khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng an toàn – hiệu quả - bền vững. 3.3.1.6. Giải pháp nâng cao năng lực cán bộ Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất cứ hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng và từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được đưa ra tập trung vào một số nội dung sau: Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam cần quan tâm đúng mức việc đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu về từng nghiệp vụ cụ thể, từng đối tượng khách hàng có đặc điểm đặc thù về sản xuất kinh doanh cụ thể. Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề trao đổi các loại học kinh nghiệm liên quan đến tín dụng. Cập nhật kiến thức nghiệp vụ và tập huấn các quy định pháp luật mới. Ngoài ra, cần tổ chức đội ngũ giảng dạy là các chuyên gia bên ngoài, các cán bộ chuyên viên tín dụng có kinh nghiệm của ngân hàng, biên soạn và cập nhật giáo trình 108 giảng dạy mang tính thực tiễn, trang bị tốt cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy, tổ chức kiểm tra nghiêm túc, khuyến khích tinh thần học tập bằng cơ chế khen thưởng đề bạt. Hiện nay, thực tế cho thấy cường độ làm việc của cán bộ tín dụng trong thời gian qua là khá căng thẳng, thậm chí việc là thêm ngoài giờ cũng khá phổ biến. Và điều này đã dẫn đến những hạn chế các hoạt động tiếp xúc với khách hàng, kiểm tra và kiểm soát các khoản cho vay. Vì vậy, để đảm bảo an toàn tín dụng, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới thì việc tăng trưởng tín dụng đồng thời đảm bảo được chất lượng tín dụng. Ngân hàng cũng cần phải chú trọng nhiều hơn, đòi hỏi cao hơn và có thái độ rõ ràng hơn đối với cán bộ tín dụng nhằm để hạn chế rủi ro trong cho vay như là: - Về năng lực công tác: đòi hỏi những cán bộ có liên quan đến hoạt động cho vay phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững, thực hiện đúng các quy định hiện hành và phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là khả năng phát hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng khách hàng. - Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: Yêu cầu mỗi cán bộ ngân hàng phải luôn tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm. Cán bộ ở cương vị càng cao thì càng phải gương mẫu. Để có được những cán bộ có tiêu chuyển đạo đức tốt, ngay từ khi tuyển dụng Ngân hàng cần chọn lọc kỹ hồ sơ và tỉm hiểu, đánh giá về nhân sự đó thông qua việc kiểm tra chéo thông tin từ những nơi làm việc cũ hay những người được người dự tuyển ghi chú để liên hệ thông tin khi cần thiết. Ngân hàng cũng cần tổ chức các khóa học nêu rõ những yêu cầu về đạo đức cán bộ ngân hàng và đưa ra những hình thức kỷ luật nghiêm đối với các cán bộ ngân hàng vi phạm về đạo đức cán bộ. 109 Thêm vào đó, ngân hàng cần phải có chế độ đãi ngộ, khen thưởng hợp lý, công bằng đối với cán bộ có thành tích xuất sắc thì nên được biểu dương, khen thưởng cả về mặt vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả mà họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước thời hạn hoặc đề bạt lên vị trí cao hơn; đối với cán bộ có sai phạm thì tuỳ theo mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc xử lý kỷ luật. Có như vậy thì kỷ cương trong hoạt động tín dụng, uy tín của ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao và chất lượng tín dụng chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên liên kết, tổ chức các khoá đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ. Nếu chưa gửi người đi đào tạo kịp thời thì có thể đào tạo tại chỗ, các giảng viên là các lãnh đạo phòng hay các chuyên viên có kinh nghiệm. Và ngân hàng cũng cần mở các lớp học bồi dưỡng về ngoại ngữ nhằm rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ cho nhân viên để phục vụ cho nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, ngân hàng không thể bỏ qua việc xây dựng chính sách đãi ngộ nhân sự, thực hiện cơ chế tài chính thông thoáng nhằm thu hút được nhân tài và duy trì đủ nhân lực chất lượng có thể đảm trách các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì việc tăng trưởng tín dụng hàng ngày không đồng bộ với số lượng và chất lượng của cán bộ tín dụng phụ trách nên dễ dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Số lượng cán bộ tín dụng có kinh nghiệm hiện nay tại các chi nhánh, phòng giao dịch của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam luôn thiếu, trong khi đó các ngân hàng mới thành lập lại thu hút nhân sự với chính sách đãi ngộ tốt hơn đã dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” nhất là trong tình hình khan hiếm nhân lực trong ngành tài chính ngân hàng như hiện nay. Đứng trước tình hình như vậy, việc xây dựng chính sách đãi ngộ để thu hút nhân sự là vấn đề bức thiết và cấp bách. 110 3.3.2. Nhóm các giải pháp hạn chế, xử lý rủi ro xảy ra 3.3.2.1. Tăng cường hiệu quả xử lý nợ có vấn đề Nợ xấu là điều không ngân hàng nào mong muốn nhưng nó vẫn luôn tồn tại ở bất cứ ngân hàng nào, do đó thiết lập cơ chế xử lý nợ có vấn đề là một đòi hỏi khách quan. Ðể giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra, cần có sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận có liên quan cũng như một bộ máy đủ mạnh, đủ tầm để giải quyết những vấn đề phát sinh trong tiến trình xử lý. Trong xử lý nợ có vấn đề, cần thực hiện các bước tuần tự và thận trọng cần thiết, không nên nóng vội mà phá vỡ những mối quan hệ đã duợc thiết lập với khách hàng, đặc biệt là các khách hàng truyền thống, cụ thể: - Làm rõ thực trạng kinh doanh, tài sản bảo đảm, thái độ của khách hàng: phân tích về khả năng phục hồi tình hình sản xuất kinh doanh, mức độ trả nợ, sự hợp tác của khách hàng; tình trạng và khả năng xử lý tài sản bảo đảm. - Lựa chọn phương pháp xử lý: phương pháp khai thác hay phương pháp thanh lý. Việc lựa chọn phương pháp xử lý cần uyển chuyển, áp dụng phù hợp với đặc thù của từng khách hàng và khả năng của từng Chi nhánh, đảm bảo hiệu quả cao với chi phí hợp lý. Trên thực tế, khi xử lý nợ xấu nếu giao cho cán bộ chi nhánh thực hiện thì hiệu quả và tốc độ thực hiện rất chậm bởi những mối quan hệ ràng buộc trước đây khiến cho cán bộ chần chừ, thiếu kiên quyết. Do đó, khi có vấn đề phát sinh, chi nhánh cần thông tin ngay tới các bộ phận liên quan là giám sát tín dụng và xử lý nợ để phối hợp thực hiện. 3.3.2.2. Sử dụng các công cụ bảo hiểm và bảo đảm tiền vay Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân rất đa dạng mà đôi khi những rủi ro đó ngân hàng không thể lường trước được. Vì vậy sử dụng các công cụ bảo hiểm và áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để hạn chế tổn thất 111 khi rủi ro xảy ra là cực kỳ quan trọng. Một số giải pháp cần thực hiện: - Yêu cầu khách hàng vay phải mua bảo hiểm trong quá trình xây dựng và bảo hiểm công trình (đối với các dự án đầu tư), bảo hiểm hàng hóa… Trên thực tế thời gian qua, nhờ sử dụng yêu cầu này mà những tổn thất vốn vay do thiên tai gây ra đã được cơ quan bảo hiểm thanh toán, giảm thiểu đáng kể những tổn thất. - Hoàn thiện về mặt pháp lý của các tài sản bảo đảm tiền vay để thuận lợi trong xử lý tài sản bảo đảm, nguồn thu nợ thứ hai khi rủi ro tín dụng xảy ra. Qua xử lý một số tài sản bảo đảm tiền vay cho thấy sở hữu về tài sản không rõ ràng, không có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nên việc bán tài sản rất khó khăn (cơ quan công chứng không chịu công chứng hợp đồng, người mua e ngại…). Nguyên nhân của tình trạng này là do khách hàng ngại tốn chi phí nên không đăng ký sở hữu tài sản (đặc biệt là đối với nhà xưởng, công trình trên đất), ngân hàng không đôn đốc khách hàng hoàn thiện các thủ tục về tài sản bảo đảm, việc đăng ký sở hữu tài sản trên đất gặp nhiều khó khăn về thủ tục…nên khá nhiều tài sản trên đất, đặc biệt là nhà xưởng, công trình xây dựng trên đất thế chấp tại Chi nhánh chưa có giấy tờ về sở hữu tài sản. Do đó hồ sơ bảo đảm tiền vay không đầy đủ, gây khó khăn cho quá trình xử lý tài sản thu hồi nợ. Ðể giảm những rủi ro về mặt pháp lý, cần thỏa thuận việc hoàn thiện về thủ tục đăng ký sở hữu tài sản sau khi dự án hoàn thành là một điều kiện tín dụng, đồng thời thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, liên tục rà soát hồ so pháp lý và thực trạng của tài sản bảo đảm. 3.3.2.3. Thực hiện nghiêm túc phân loại nợ và trích lập dự phòng Thực hiện nghiêm túc phân loại nợ, tránh tình trạng vì kết quả kinh doanh mà không tuân thủ tính chính xác trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Chủ động phân loại nợ theo tính chất, khả năng thu hồi nợ của khoản vay, kiên quyết chuyển nợ quá hạn đối với các truờng hợp vi phạm hợp 112 đồng tín dụng có nguy cơ gây ra rủi ro và hạ bậc nợ, thực hiện trích lập dự phòng nhằm bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra. 3.4 Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nƣớc và Chính Phủ 3.4.1 Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín dụng để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro. Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng thương mại, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các ngân hàng thương mại về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mại tài sản nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ chức Tín dụng, của cơ quan công an, của chính quyền cơ sở, của Sở Tài nguyên Môi trường làm cơ sở pháp ly để đi đến ban hành thông tư liên ngành hướng dẫn thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ, cụ thể hoá từng công việc trong thi hành án. Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các ngân hàng thương mại áp dụng chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phát sinh khác. Đồng thời, tổ chức đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các ngân 113 hàng thương mại vừa đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng. 3.4.2. Tăng cường hoạch định chính sách Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức, thay đổi định hướng quá đột ngột gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nói riêng, chẳng hạn như: Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế. Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quán đến đảm bảo tiền vay, làm thế nào để trong trường hợp ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định về thế chấp, cầm cố tài sản khi cho vay thì khi xử lý nợ, ngân hàng được toàn quyền trong việc thanh lý tài sản nhận làm đảm bảo đó để thu nợ nhằm khắc phục các khó khăn về quy trình, thủ tục và thời gian xử lý tài sản đảm bảo thu hồi vốn vay như hiện nay. 114 Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng. 3.4.3 Nâng cao chất lượng của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) Một trong những bộ phận được ngân hàng thương mại sử dụng là Trung tâm thông tin tín dụng (mạng CIC). Và một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện quản trị rủi ro tốt là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Chất lượng thông tin càng cao thì rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các Tổ chức Tín dụng càng giảm. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là rất cần thiết chẳng hạn như là: thông tin tín dụng phải bao hàm tất cả các thông tin về tình hình vay vốn của khách hàng tại các Tổ chức Tín dụng, phải có sự phân tích thông tin tổng hợp về khách hàng để lưu ý các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, cần chú trọng đổi mới và hiện đại hoá các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho việc thu nhập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được thông suốt, kịp thời. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách tuyển chọn và dào tạo cán bộ làm công tác quản lý mạng CIC không chỉ am hiểu về công nghệ thông tin mà còn phải có khả năng thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo thích hợp thay vì những con số báo cáo thống kê khô khan cho các ngân hàng thương mại tham khảo. Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu là do muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nên có những biện pháp thích hợp để các ngân hàng nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ CIC nhằm góp phần ngăn chặn và hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích các ngân háng sử dụng 115 thông tin tín dụng từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay. 3.4.4 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp. Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu nhập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh manh tính hình thức, nội dung thanh tra nên được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được ngân hàng thương mại, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ. Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát về nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận giúp ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động. Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra. Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an toàn của ngân hàng thương mại. Về việc đánh giá hệ thống kiểm 116 soát rủi ro của các ngân hàng thương mại thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước thực hiện được vai trò đánh giá giữa hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng thương mại, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh doanh của các ngân hàng thương mại. 117 KẾT LUẬN Cùng với những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, chất lượng tín dụng của khối Ngân hàng nói chung và của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam nói riêng đang có dấu hiệu giảm sút nghiêm trọng. Do đó, nâng cao chất lượng tín dụng thông qua hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, luận văn đã rút ra được những kết luận chủ yếu sau đây : Thứ nhất, hoạt động tín dụng hiện vẫn là một trong những hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho các Ngân hàng Việt Nam và cũng là hoạt động ẩn chứa nhiều rủi ro nhất trong các hoạt động ngân hàng. Thứ hai, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong hoạt động của các Ngân hàng. Bằng nhiều biện pháp, Ngân hàng có thể hạn chế, giảm thiểu rủi ro tín dụng trong hoạt động của mình. Thứ ba, hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam trong những năm trở lại đây cho thấy còn nhiều vấn đề bất cập, thể hiện qua tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng đang có xu hướng tăng và còn tồn tại nhiều rủi ro. Thứ tư, luận văn đã đưa ra những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng VIB. Từ đó, luận văn tập trung đưa ra hai nhóm giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng VIB trong đó có sáu giải pháp phòng ngừa rủi ro và hai biện pháp xử lý rủi ro xảy ra, cùng các kiến nghị đối với NHNN và Chính phủ. Do hạn chế về thời gian và kiến thức nên luận văn không tránh khỏi có những thiếu sót, tác giả rất mong được sự chỉ bảo và ý kiến đóng góp từ phía các nhà khoa học, các bạn đọc và những người quan tâm tới luận văn này. Xin chân thành cảm ơn ! 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nxb Thống kê, Tp Hồ Chí Minh 2. Ngô Quang Huân (1998), Quản trị rủi ro, Nxb Giáo dục, thành phố Hồ Chí Minh 3. Lê Văn Hùng (2007), "Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng – nhìn từ góc gộ đạo đức", Tạp chí Ngân hàng, (16), Tr.33-35. 4. Trịnh Thanh Huyền (2007), "Để Ngân hàng vươn ra biển lớn. Điều trị "căn bệnh" nợ xấu của NHTM:, Tạp chí Tài chính (tháng 5), Tr 20 – 22, 28. 5. Nguyễn Văn Nam, Hoàng Xuân Quyến (2002), Rủi ro tín dụng thực tiễn và phương phá đánh giá, Nxb Tài chính, Hà Nội 6. Bùi Thị Kim Ngân (2008), " Một số vấn đề nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHTM Việt Nam", Tạp chí Ngân hàng (số chuyên đề), Tr 29-33 7. Nguyễn Văn Tiến (1999), Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Tiến (2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội. 9. Lê Văn Tư (2005), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính. 10. PGS.TS Nguyễn Đình Tự (2008), "Ngành Ngân hàng VN sau 1 năm gia nhập WTO", Tạp chí Ngân hàng số 1, Tr 32-35 11. Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các NHTM Việt Nam, Nxb Thống kê 119 12. Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Thực trạng rủi ro tín dụng của các NHTM ở VN hiện nay và các giải pháp phòng ngừa hạn chế, NXB Thống kê. TIẾNG ANH 13. Andrew Fight (2004), Credit Risk Management 14. Basel Committee on Banking Supervision (1999), Principles for the Management of Credit Risk. 15. Edward I.Alman (2001), Managing credit risk: A challenge for the new millenium. 16. Hennie van Greuning – Sonjatanovic (1999), Alnalyzing banking risk, the world bank 17. John Wiley and Sons Ltd (2002), Risk management in Banking, Second Edit 18. Morton Glantz, Johnathan Mun (2008), The Banker’s Handbook on Credit Risk Management II 19. A. Saunder và H.Lange (2002), Financial Institutions Management – A Modern Perpective TÀI LIỆU TỪ NGUỒN INTERNET: 20. Cổng thông tin điện tử Chính phủ: 120 21. Người lãnh đạo loi-nhuan-ngan-hang/32/49201.star 22. Tạp chí kế toán mai/rui-ro-tin-dung-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-cua-cac-ngan-hang- thuong-mai-tai-t.html 23. Thời báo Việt: 24. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3346_2449.pdf
Luận văn liên quan