Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh

Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS là một yêu cầu khách quan, mang tính cấp thiết, nó có ý nghĩa rất lớn và giữ vai trò quan trọng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; yêu cầu của hội nhập quốc tế. Do vậy, thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Qua hoạt động thực hiện pháp luật trên thực tế đã góp phần quan trọng cho việc xây dựng và kiện toàn tổ chức, năng lực của cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, nó cũng góp phần tạo ra những biến đổi sâu sắc trong hệ thống những giá trị, chuẩn mực và lối sống của người dân, đồng thời cũng làm giảm thiểu tác động của đại dịch HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh.

pdf118 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2966 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện pháp xã hội trong phòng, chống HIV/AIDS. Nghị định số 108/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật phòng, chống HIV/AIDS, trong đó các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV được bao trùm phần lớn nội dung của văn bản với 11 điều. Vậy tại sao phải triển khai các hoạt động can thiệp giảm thiểu tác hại đối với đối tượng có hành vi nguy cơ cao? Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, sự bùng nổ đại dịch HIV gắn liền với nạn tiêm chích ma tuý và mại dâm, đặc biệt là tiêm chích ma tuý; vì nhiều lý do, những người nghiện đã chích heroin- đó là cách làm lây lan rất nhanh chóng HIV trong nhóm người nghiện chích ma tuý; Theo thống kê ở Việt Nam có khoảng 30- 40% người nghiện chích ma tuý đã bị nhiễm HIV. Việc lây lan nhanh chóng đã làm cho nhóm này trở thành nhóm chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người nhiễm HIV (khoảng 60%). Bên cạnh đó, mại dâm cũng là một tệ nạn làm lây lan HIV nhanh. Ma tuý, mại dâm là những tệ nạn xã hội mà nhà nước ta kiên quyết đấu tranh loại trừ khỏi đời sống xã hội. Luật phòng, chống ma tuý năm 2000, Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 là những văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao do các cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc Hội, uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành, trong đó quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với các tệ nạn này, quy định về trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm. Có thể nói các quy định trong các văn bản pháp luật nói trên là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tiến hành các hoạt động kiên quyết bài trừ ma tuý, mại dâm ở nước ta. Tuy nhiên, có thể nói mặc dù chúng ta đấu tranh phòng, chống các tệ nạn nói trên với tinh thần kiên quyết, không khoan nhượng thì các tệ nạn mại dâm, ma tuý không phải một sớm, một chiều đã có thể giảm thiểu và loại trừ mà điều này đòi hỏi cần phải có thời gian, có chiến lược chương trình quốc gia, có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cơ quan, tổ chức và sự đồng tâm nhất trí của toàn xã hội. Bên cạnh đó, còn bao nhiêu yếu tố khác như điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, công ăn việc làm, hoàn cảnh quốc tế... tác động và chi phối đến hiệu quả thật sự của công tác này. Trong khi đó, tệ nạn ma tuý, mại dâm có quan hệ gần gũi với sự lây truyền HIV/AIDS, do hành vi đặc trưng của hai loại tệ nạn này là quan hệ tình dục và tiêm chích ma tuý có liên quan trực tiếp đến sự lây truyền chủ yếu của đại dịch HIV/AIDS. Vậy thì, một vấn đề thiết thực đặt ra là, trong khi chúng ta chưa loại bỏ mại dâm, ma tuý ra khỏi đời sống xã hội thì cần phải tiến hành một số các biện pháp nhằm giảm thiểu tác hại của tệ nạn này. Pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến áp dụng các biện pháp can thiệp giảm tác hại phòng ngừa lây truyền HIV/AIDS trong nhóm hành vi nguy cơ cao. Các quy định pháp luật trực tiếp liên quan đến các biện pháp can thiệp giảm tác hại phải kể đến là Chỉ thị số 02/2003/CT-TTg ngày 24/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống HIV/AIDS, lần đầu tiên đề cập đến vấn đề áp dụng biện pháp can thiệp giảm tác hại phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm hành vi nguy cơ cao tại điểm 2 của Chỉ thị: Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, uỷ ban Dân số Gia đình và trẻ em nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý trẻ em, người mại dâm, người nghiện ma tuý bị lây nhiễm HIV/AIDS đang ở trong cơ sở giáo dưỡng, giáo dục, trại giam, trại tạm giam, và nhà tạm giữ, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp dự phòng có hiệu quả nhằm giảm sự lây nhiễm HIV/AIDS từ các nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh các biện pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tác hại đối với đối tượng có hành vi nguy cơ cao như sau: Một là, tăng cường đẩy mạnh hoạt động thông tin, truyền thông chuyển đổi hành vi, HIV/AIDS là một bệnh truyền nhiễm đa dạng về đường lây truyền, ủ bệnh kéo dài, hiện nay chưa có vác xin ngăn ngừa và thuốc chữa khỏi. Người nhiễm HIV trở thành nguồn lây lan lâu dài và gây dịch tác động to lớn đối với các cá nhân, gia đình và sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng nếu chúng ta làm cho toàn xã hội nhận thức được tác hại của đại dịch HIV/AIDS và nếu toàn xã hội, nhất là các cấp chính quyền và các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao nhận thức được đúng đắn về vấn đề này, đặc biệt là các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV thì thực sự đấy là vác xin rất hữu hiệu để chặn đứng HIV/AIDS. Hai là, hoạt động trao đổi bơm kim tiêm sạch, tuyên truyền, khuyến khích, hỗ trợ các đối tượng nghiện chích ma tuý thực hiện tiêm chích an toàn thông qua các hoạt động phân phát, trao đổi, hướng dẫn sử dụng bơm kim sạch trong tiêm chích ma tuý là biện pháp hữu hiệu làm giảm sự lây lan HIV trong khi chúng ta chưa tiêu diệt được ma tuý. Ba là, chương trình 100% bao cao su, khuyến khích người nghiện ma tuý, phụ nữ mại dâm và khách làng chơi sử dụng 100% bao cao su trong quan hệ tình dục. Bốn là, chương trình quản lý và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, hỗ trợ người nghiện chích ma tuý, phụ nữ mại dâm tiếp cận các dịch vụ khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, tư vấn và xét nghiệm, chăm sóc và điều trị.. Năm là, Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng các thuốc thay thế, Methadone là một loại ma tuý tổng hợp được dùng bằng đường uống để điều trị nghiện heroin và được chứng minh là một trong những biện pháp điều trị có hiệu quả cho người nghiện ma tuý. Lợi ích của việc dùng Methadone cho cá nhân và cộng đồng: Giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường máu: HIV, viêm gan B, C (methadone được sử dụng bằng đường uống). Thời gian tồn tại của thuốc trong cơ thể kéo dài, do đó người nghiện có thể yên tâm làm việc, học tập, sinh hoạt bình thường. Giảm sử dụng ma tuý trái phép, giảm tử vong liên quan đến ma tuý, giảm tội phạm do ma tuý. Có thể nói, trong thực tế đại đa số những hành vi nguy cơ cao đều ít nhiều liên quan đến tệ nạn ma tuý, mại dâm. Việc tiến hành công tác giảm thiểu tác hại phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS với mục tiêu chủ yếu chính là hạn chế càng nhiều càng tốt sự lây truyền HIV/AIDS qua các tệ nạn xã hội là ma tuý, mại dâm. Những biện pháp này đã được cộng đồng quốc tế triển khai thực hiện ở những mức độ khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới và cũng đã được tiến hành ở mức độ nhất định ở Việt Nam qua các mô hình thí điểm được triển khai. 3.3.2.2. Tăng cường các hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống AIDS trong lĩnh vực y tế Trong công tác phòng, chống AIDS ngành Y tế đóng vai trò chủ đạo nên cần tạo ra bước chuyển biến căn bản, toàn diện và đồng bộ trên tất cả các mặt hoạt động phòng, chống AIDS trong lĩnh vực Y tế. Đảm bảo thực hiện tốt giám sát hành vi và xét nghiệm phát hiện, an toàn truyền máu, an toàn trong các dịch vụ y tế, các dịch vụ xã hội có liên quan đến máu và dịch sinh học, điều trị và chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS. Thứ nhất là: Bảo đảm an toàn truyền máu Máu toàn phần bao gồm các thành phần hữu hình và các yếu tố đông máu có thể có chứa HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao. Từ năm 1985, việc tìm ra các phương pháp xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đã làm giảm rõ rệt nguy cơ lây truyền qua đường máu. Tuy nhiên đối với những người cho máu mới nhiễm HIV thì bằng các xét nghiệm huyết thanh không thể phát hiện được mà phải có các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên vi rút (P24) hoặc phát hiện DNA của vi rút (bằng PCR) hoặc phân lập vi rút. Điều này thực sự hạn chế ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam hiện nay. Chương trình thực hiện chiến lược phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 có quy định tại phần II giải pháp thực hiện, trong nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật tại điểm 2 có quy định các giải pháp sau: Một là, thực hiện chỉ đạo kiểm tra, thanh tra công tác an toàn truyền máu phòng lây nhiễm HIV. Đảm bảo nghiêm túc các quy định của điều lệnh an toàn truyền máu. Hai là, tăng cường sự phối hợp của Đoàn thanh niên, Hội chữ thập đỏ, các Ban ngành đặc biệt là các tổ chức Đảng và Chính quyền các cấp, trong việc tổ chức tuyên truyền vận động những người khoẻ, không có yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV, tình nguyện hiến máu. Ba là, nâng cao chất lượng sàng lọc HIV và các bệnh lây truyền khác qua đường máu, cung cấp 100% đơn vị máu truyền an toàn. Bốn là, phát triển ứng dụng các kỹ thuật hiện đại và chỉ định truyền máu phù hợp: truyền máu từng phần, truyền máu tự thân, lọc bạch cầu... nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV. Năm là, triệt để thực hiện các thường quy, quy định về công tác vô trùng, tiệt trùng trong các dịch vụ y tế nhà nước và tư nhân. Sáu là, trang bị kiến thức an toàn truyền máu, nâng cao kỹ năng cho cán bộ ngành huyết học nói riêng và ngành y tế nói chung về HIV. Xây dựng phòng xét nghiệm chuẩn thức để kiểm nghiệm chất lượng an toàn truyền máu bao gồm: kiểm tra sinh phẩm, kiểm tra quy trình xét nghiệm, trang thiết bị... Thứ hai là: Tăng cường chất lượng công tác quản lý chăm sóc, tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS. Chăm sóc, tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS là rất quan trọng để giúp cho họ cảm thấy là họ không bị đẩy ra ngoài cuộc sống chung của xã hội. Điều này giúp phát triển hoàn cảnh sống tích cực. Chăm sóc, tư vấn có thể làm nhẹ đi những vấn đề của cá nhân đang đi qua và làm họ cảm thấy có ước muốn được tiếp tục sống. Điều này có thể thúc đẩy cuộc sống của người bệnh và ngăn chặn sự chán nản và những ý định tự tử. Nếu một người nào đó được chăm sóc một cách đúng đắn, những ý định như làm lây lan cho người khác “những người khác đáng bị trừng trị” có thể sẽ giảm. Chăm sóc hỗ trợ toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS và những người bị ảnh hưởng sẽ đảm bảo cuộc sống, sức khoẻ của họ và làm giảm lây nhiễm trong cộng đồng vì những hành vi của cuộc sống tích cực của họ mang lại. Chăm sóc, tư vấn cho người nhiễm HIV cần sự thông hiểu rất rõ về sự không ổn định về mặt tinh thần của bệnh nhân. Vấn đề này được ghép với việc khi một người được chăm sóc mà chưa được dậy về cách sống tích cực. Có quá nhiều lời cảnh cáo cho bệnh nhân về việc nên làm cái gì và cái gì không nên làm có thể làm cho họ cảm thấy như bị áp bức, và quá nhiều sự chăm sóc có thể làm cho họ cảm thấy họ trở nên không có giá trị. Người nhiễm HIV trong một thời điểm nào đó có thể thực hiện những điều gây hại cho sức khoẻ của họ. Trong trường hợp như vậy, sự thuyết phục nhẹ nhàng để mang bệnh nhân về hoàn cảnh thực của họ là điều nên làm. Tại thời điểm đó, bệnh nhân có thể phát triển thái độ như là cằn nhằn hoặc tìm ra những lỗi lầm của họ. Điều này có thể quá nguy hiểm cho bệnh nhân khi mà họ cũng tranh cãi với chính họ. Tốt hơn là nhẹ nhàng can thiệp để bệnh nhân dịu xuống. Đối với công tác quản lý, chăm sóc, tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS thực hiện phương châm lấy y tế làm nòng cốt phối hợp với các ban ngành và huy động hỗ trợ của chính quyền các cấp, để thực hiện công tác chăm sóc, tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ để người nhiễm HIV/AIDS ổn định hoà nhập cuộc sống tại gia đình và cộng đồng. Chương trình thực hiện chiến lược phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đưa ra các giải pháp sau: Một là, phát triển hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện. Thiết lập hệ thống chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS trên nền tảng của hệ thống y tế với sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành địa phương. Xác định gia đình, cộng đồng là yếu tố cơ bản trong việc chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Ngành Y tế làm nòng cốt, phối hợp với các Ban, ngành và Chính quyền các cấp để thực hiện công tác chăm sóc, điều trị, tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng. Xác định tuyến huyện là trung tâm của công tác chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS, đồng thời là cơ quan thường trực cùng với việc huy động tham gia của các Ban ngành, Đoàn thể ở địa phương. Khuyến khích tư nhân trong việc chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS, áp dụng các hình thức chữa bệnh bằng y học dân tộc. Hai là, tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Tăng cường phối hợp liên ngành, để đảm bảo tính sẵn có của các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm và các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Tạo điều kiện để những người nhiễm HIV hoặc ma tuý, mại dâm trong các trung tâm giáo dục xã hội, trại giam tiếp cận với các dịch vụ y tế. Tổ chức tập huấn về chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS cho cán bộ y tế, cán bộ tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS. Tập huấn chống phân biệt đối xử, đảm bảo tính bí mật, riêng tư và cung cấp các dịch vụ có chất lượng. Có chính sách khuyến khích người nhiễm HIV/AIDS được tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tăng cường khả năng tiếp cận với các thuốc đặc hiệu kháng vi rút HIV cho người nhiễm HIV/AIDS. Ba là, phát huy tính chủ động tham gia của người nhiễm HIV/AIDS và chống phân biệt đối xử. Giáo dục, truyền thông cho người nhiễm HIV, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người nhiễm HIV đối với bản thân, gia đình và cộng đồng. Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ người nhiễm HIV/AIDS, tự chăm sóc và hỗ trợ nhau. Thứ ba là:Công tác điều trị bệnh nhân AIDS Trước mắt cần phải củng cố hoàn thiện lại hệ thống điều trị tại các bệnh viện, từng bước đầu tư hơn nữa cho công tác điều trị bệnh nhân. Chú trọng việc thiết lập các khoa phòng điều trị tại các tuyến huyện. Tại Điều 39 Luật phòng, chống HIV/AIDS 2006 tại khoản 2 quy định: Ưu tiên cho người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, người bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế, phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, trẻ em dưới 6 tuổi được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV. Thuốc kháng HIV do ngân sách nhà nước chi trả thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ được cấp miễn phí cho người nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS theo thứ tự ưu tiên sau: Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV; người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS; người nhiễm HIV/AIDS có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn [32, tr.36]. Trong Chương trình thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác điều trị bệnh nhân HIV/AIDS. Một là, tạo điều kiện cho người nhiễm HIV/AIDS ở Quảng Ninh được tiếp cận với thuốc điều trị đặc hiệu kháng vi rút HIV. Phấn đấu đến năm 2010 có khoảng 70% bệnh nhân AIDS được tiếp cận với thuốc điều trị HIV. Đến năm 2010 có ít nhất 50% các cơ sở điều trị AIDS được cung cấp đầy đủ các phương tiện chẩn đoán và điều trị hiện đại. Hai là, đầu tư cho khoa truyền nhiễm Bệnh viện đa khoa tỉnh, Trung tâm chống Lao và Bệnh phổi có các phương tiện và số giường bệnh tối thiểu để tiếp nhận bệnh nhân HIV/AIDS vào điều trị, giường bệnh được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Đảm bảo các cơ sở này sẵn có thuốc kháng vi rút HIV trong danh mục thuốc thiết yếu của bệnh viện. Ba là, nâng cao năng lực chẩn đoán, phấn đấu đến năm 2010 có ít nhất 4 đơn vị điều trị có máy đếm tế bào CD4, CD8 và máy đo số lượng vi rút HIV trong máu. Bốn là, các cơ sở y tế tuyến huyện có khả năng chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội do nhiễm HIV gây nên và mở rộng việc tiếp cận thuốc kháng vi rút HIV. Khuyến khích sử dụng các thuốc đông y trong điều trị AIDS. Năm là, đảm bảo 100% các trường hợp bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, các bà mẹ mang thai bị nhiễm HIV được điều trị. Thứ tư là: Tăng cường phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục 21 KÕt qu¶ thùc hiÖn kh¸ m vµ ®iÒu trÞSTI 1. T¹ i c¸ c PK cè ®Þnh ( Theo c¨n nguyª n) T­ nh©nNhµ n­ í c T­ nh©n Nhµ n­ í c T­ nh©n Nhµ n­ í c 567 183 197 26 88 39 30 4 567 1451 268 12 145 7 25 2 71 6 268 350 282 45 97 10 72 12 39 7 282 595 2006 2472569307479Sè ca m¾c bÖnh2 2472569307479Sè ®iÒu trÞ3 32765220Kh¸c­ 1051240139233NÊmCanida­ 12757819Herpes­ 4671009785Sï i mµo gµ­ 64821Trï ng roi­ 4309851141LËu­ 21130Giang mai­ 673520999761264Sèng­ êi kh¸mbÖnh1 Céng 20082007 Néi dungTT Theo báo cáo của khoa da liễu bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh hàng năm, Quảng Ninh đã khám và phát hiện cho hơn 3.000 - 6.000 trường hợp nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục làm tăng HIV theo cả 2 hướng. Người chưa nhiễm HIV dường như dễ bị nhiễm hơn nếu họ đang bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là khi có loét. Người nhiễm HIV cũng dễ truyền HIV cho người khác nếu họ đang bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Như vậy, HIV lây truyền từ người này sang người khác dễ dàng hơn nếu một trong hai người hoặc cả hai người bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục quan trọng trong mối tương tác này là: Giang mai, hạ cam, Herpes sinh dục, nhiễm Chlamidia, lậu, trùng roi. Các bệnh này làm tăng nguy cơ lây truyền HIV từ 2-9 lần khi bị phơi nhiễm. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không loét mà chỉ viêm nhiễm cũng làm tăng lây truyền HIV vì trong dịch tiết có gia tăng bạch cầu đa nhân. Bạch cầu này vừa là mục tiêu, vừa là nguồn của HIV. Hơn nữa, viêm nhiễm có thể gây nên các tổn thương vi thể làm cho HIV dễ dàng xâm nhập vào niêm mạc. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không loét được coi là quan trọng hơn vì chúng thường gặp hơn các bệnh có loét sinh dục. Ngược lại, nhiễm HIV sẽ làm cho người bệnh dễ bị mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục hơn do sức đề kháng bị suy giảm. Cũng chính vì vậy, nên các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở những người này trở nên khó điều trị. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác phòng, chống bệnh lây truyền qua đường tình dục. Theo luật phòng, chống HIV/AIDS tại Điều 34 có quy định: “Việc phòng, chống HIV/AIDS phải gắn với việc phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục”[32, tr.34]. Chương trình thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 cũng quy định: “Phòng, chống lây truyền qua đường tình dục là một trong những mục tiêu trọng tâm của chương trình phòng, chống HIV/AIDS [35, tr.35] (theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, khi bị mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục thì làm tăng khả năng lây nhiễm HIV lên tới 10 lần và có thể cao hơn nữa). Hiện nay, hệ thống giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục ở tỉnh ta được thiết lập (tháng 10 năm 2003), song do còn nhiều khó khăn do nguồn ngân sách hạn hẹp, chưa đáp ứng được nhu cầu”. Trong chương trình 2073/UB ngày 24/9/2004 của UBND tỉnh Quảng Ninh thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Tại điểm 6 cũng quy định các giải pháp nhằm tăng cường phòng, chống nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục: Xây dựng và tăng cường năng lực mạng lưới quản lý, giám sát, chẩn đoán và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (khoản a): Xây dựng mạng lưới giám sát các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở 100% các huyện, thị xã, thành phố vào năm 2005. Lồng ghép chặt chẽ giữa giám sát HIV và giám sát các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Xây dựng hệ thống báo cáo, giúp cho việc dự báo HIV/AIDS/STI và lập kế hoạch tại các tuyến. Cung cấp trang thiết bị xét nghiệm, đảm bảo khả năng phát hiện sớm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Mở lớp đào tạo và đào tạo lại về quản lý, giám sát, chẩn đoán và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho cả hệ thống y tế nhà nước và y tế tư nhân. Các hoạt động dự phòng lây truyền qua đường tình dục (khoản b): Triển khai các biện pháp giáo dục sức khoẻ phòng nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, phấn đấu đến năm 2010 có 100% phụ nữ ở lứa tuổi sinh sản được giáo dục phòng, chống các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. Triển khai các can thiệp dự phòng các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục tại cộng đồng góp phần hạn chế lây nhiễm HIV/AIDS[43, tr.35]. Tăng cường phòng, chống nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục: Một là, thiết lập mạng lưới giám sát trọng điểm CBLTQĐTD, đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ về quản lý và giám sát CBLTQĐTD. Hai là, tăng cường công tác thông tin, giáo dục, truyền thông để nâng cao nhận thức của cộng đồng về HIV/AIDS và thay đổi hành vi cho đối tượng nguy cơ cao, khuyến khích hành vi tình dục an toàn. Ba là, nâng cao năng lực khám chữa CBLTQĐTD cho các thầy thuốc lâm sàng theo quản lý ca bệnh toàn diện. Đào tạo cho cán bộ y tế (y tế nhà nước, y tế tư nhân và các thầy thuốc) về quản lý tiếp cận hội chứng. Bốn là, nâng cao hiểu biết của gái mại dâm, tiếp viên nhà hàng về HIV/AIDS/STI, lợi ích của việc dùng bao cao su trong phòng, chống HIV/AIDS/STI. Cung cấp 25 triệu bao cao su trong đó phân phối miễn phí bao cao su qua hệ thống y tế nhà nước (mỗi năm 1 triệu bao cao su). Số còn lại được tiếp thị xã hội. Năm là, thành lập phòng khám để khám định kỳ, cung cấp thiết bị xét nghiệm CBLTQĐTD và cung cấp thuốc điều trị. Thứ năm là: Tăng cường công tác phòng, chống AIDS trong hệ thống sản nhi. Theo kết quả giám sát trọng điểm năm 2008 ở Việt Nam, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ mang thai toàn quốc là 0,36%. Với ước tính trung bình có 1,5 triệu đến 2 triệu phụ nữ đẻ hàng năm, thì có khoảng 6.000 đến 7.000 trẻ sơ sinh bị phơi nhiễm với HIV. Nếu không có các biện pháp can thiệp, tỷ lệ lây truyền HIV tự nhiên từ mẹ sang con là 30-35%. Tỷ lệ này có thể giảm xuống dưới 10% bằng các biện pháp phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con bao gồm: dùng thuốc ARV cho mẹ và con trước và sau sinh, nuôi con bằng sữa thay thế sữa mẹ hoàn toàn... hiện nay, chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con là một trong những hoạt động ưu tiên của chương trình phòng, chống AIDS quốc gia. Theo báo cáo của Trung tâm Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh Quảng Ninh thì từ năm 2008 đến nay đã tiến hành điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cho 44 bà mẹ mang thai và 22 trẻ đẻ sống sinh ra từ bà mẹ bị nhiễm HIV được điều trị dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. Ở người lớn, phương thức lây truyền HIV/AIDS chủ yếu qua đường tình dục và đường máu, còn ở trẻ em thì phương thức lây truyền chủ yếu là từ mẹ sang con hoặc qua đường máu. Theo thống kê có trên 80% trẻ bị nhiễm HIV là do lây truyền từ mẹ sang con. Người ta đã tìm thấy HIV có trong sữa các bà mẹ nhiễm HIV và cũng đã có một số trẻ em bị nhiễm HIV qua bú mẹ. Song khó đánh giá một trẻ bị nhiễm HIV là do lây nhiễm từ trong bào thai, lúc sinh đẻ hay qua sữa mẹ, bởi vì rất khó chẩn đoán trẻ bị nhiễm HIV lúc mới sinh. HIV cũng có thể lây cho trẻ qua việc sử dụng bơm kim tiêm, dụng cụ chích, làm các thủ thuật, phẫu thuật bị nhiễm HIV mà không được tiệt trùng cẩn thận. Trong trường hợp phát hiện thai phụ dương tính với HIV, các bác sĩ sẽ tư vấn và hướng dẫn cách uống tuỳ theo từng thời kỳ của thai, kể cả trường hợp tình trạng nhiễm HIV của thai phụ được phát hiện muộn, ngay trước khi sinh. Ngay sau khi sinh, em bé sẽ được uống các loại thuốc được bào chế dưới dạng si ro. Những đứa trẻ sinh ra bởi các bà mẹ nhiễm HIV sẽ được tiếp tục theo dõi và chăm sóc sức khoẻ tại phòng khám ngoại trú nhi cho đến bé đủ lớn để làm các xét nghiệm xác định bé nhiễm HIV hay không. Bà mẹ và gia đình hoặc người chăm sóc cũng sẽ được tư vấn về chăm sóc và dinh dưỡng, cách nuôi con bằng sữa mẹ hoặc được cung cấp sữa thay thể kèm theo các hướng dẫn cách pha sữa đúng liều lượng và hợp vệ sinh. Với những người mẹ nhiễm HIV, sự kết hợp tốt giữa bác sĩ sản khoa và sản phụ sẽ mang lại niềm hy vọng và quyền được sống khoẻ mạnh của em bé với cơ hội thoát khỏi căn bệnh thể kỷ. Trẻ có thể lây nhiễm HIV từ mẹ trong thời kỳ còn là bào thai, trong quá trình chuyển dạ đẻ hoặc trong thời gian cho con bú. Nếu không được can thiệp kịp thời, cứ 100 bà mẹ mang thai nhiễm HIV sẽ có khoảng 30 cháu bé sinh ra bị nhiễm HIV. Nhưng nếu được can thiệp, điều trị kịp thời và đúng cách, tỷ lệ này có thể giảm rất nhiều và chỉ còn dưới 2%. Sản phụ nhiễm HIV hoàn toàn có thể hy vọng nếu có được sự hiểu biết nhất định khi sử dụng các biện pháp can thiệp giảm lây nhiễm. Theo Cục phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế cho biết: Nếu mẹ có nhiễm HIV mà không uống thuốc ARV dự phòng trong thai kỳ và trẻ dùng sữa mẹ trong 6 tháng, thì khả năng trẻ bị lây nhiễm là 30-40%. Trường hợp mẹ không uống ARV và trẻ không bú sữa mẹ thì tỷ lệ lây cho con là khoảng 20-30%. Nhưng nếu mẹ và con uống ARV dự phòng và trẻ không dùng sữa mẹ hoàn toàn thì tỷ lệ lây nhiễm cho con giảm đáng kể, chỉ còn 2%- 6%. Phụ nữ nhiễm HIV nếu sinh con thì vi rút HIV có thể lây sang bé qua nhau thai khi bé còn nằm trong bụng mẹ, qua máu và chất dịch của mẹ khi sinh và một số nhỏ lây qua sữa mẹ khi mẹ cho bé bú. Trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV thường không sống được quá 3 năm. Trẻ do nhiễm HIV sinh ra thường xét nghiệm dương tính, tức là trong cơ thể bé có kháng thể kháng HIV. Nhưng như thế không có nghĩa là bé đã bị nhiễm. Ở trong bụng mẹ và khi bú sữa mẹ, bé nhận các chất kháng thể của mẹ để giúp bé chống bệnh tật, có thể bé không bị nhiễm HIV, nhưng cơ thể bé còn lưu nhiều kháng thể mẹ truyền cho, trong đó có cả kháng thể kháng HIV. Do đó, xét nghiệm của bé là dương tính mặc dù không bị nhiễm vi rút. Bé chỉ có kết quả xét nghiệm chính xác vào khoảng 6-12 tháng sau khi sinh. Khi đó trong máu của bé không còn các kháng thể của mẹ, mà chỉ còn các kháng thể do bé tự sinh ra. Nếu kết quả là dương tính thì mới xác định bé nhiễm HIV. Chương trình thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đưa ra các giải pháp để dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: Một là, nâng cao nhận thức của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ về nguy cơ lây nhiễm HIV và khả năng lây truyền từ mẹ sang con, Tăng cường công tác thông tin, giáo dục truyền thông, lồng ghép với chương trình truyền thông dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con với giáo dục sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, chú trọng nhóm phụ nữ bị thiệt thòi như: mại dâm, phụ nữ nghèo ở nông thôn. Hai là, tăng cường năng lực cho hệ thống làm công tác dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, thiết lập mạng lưới tư vấn xét nghiệm HIV ở tất cả các tuyến, huy động các Ban ngành, đoàn thể như Thanh niên, Hội phụ nữ tham gia hoạt động tư vấn và hỗ trợ xã hội cho các phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV, hoặc phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn. Đào tạo lại cho cán bộ thuộc mạng lưới ở các tuyến về lĩnh vực lây truyền HIV từ mẹ sang con như: xét nghiệm tự nguyện, chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn đường sinh dục, điều trị và chăm sóc cho trẻ em bị nhiễm HIV, phụ nữ nhiễm HIV mang thai. Cung cấp trang thiết bị cho các khoa sản của bệnh viện các tuyến để có khả năng chẩn đoán HIV, sử dụng thuốc trước khi chuyển dạ. Tư vấn và hỗ trợ sữa thay thế cho trẻ sơ sinh khi mẹ bị nhiễm HIV. Ba là, tăng cường hoạt động dự phòng để sớm tránh nhiễm HIV từ mẹ sang con. Khuyến khích hành vi tình dục an toàn, đặc biệt đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, tạo điều kiện họ dễ tiếp cận với bao cao su. Khuyến khích xét nghiệm HIV trước khi kết hôn, trước khi đẻ được tư vấn và được cung cấp đầy đủ thông tin về lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con và cách phòng tránh. Bốn là, chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Đảm bảo đủ thuốc điều trị đặc hiệu và điều trị nhiễm trùng cơ hội cho các cháu bị nhiễm HIV, có kế hoạch hỗ trợ cơ sở vật chất cho Trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi để tiếp nhận trẻ em nhiễm HIV bị bỏ rơi. Cung cấp thông tin, kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ em lang thang, trẻ em đường phố (đặc biệt là trẻ em gái) làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho nhóm này. Huy động sự tham gia mạnh mẽ của các ban ngành, đoàn thể vào công tác chăm sóc, điều trị hỗ trợ trẻ em bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng do HIV. 3.3.2.3. Công tác đào tạo cán bộ phòng, chống HIV/AIDS Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh, nhất là trong điều kiện triển khai Luật phòng, chống HIV/AIDS, công tác đào tạo cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS đang trở thành vấn đề mang tính cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu này, Chương trình thực hiện chiến lược phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Thứ nhất, có chính sách nhằm phát huy nhân lực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có đầy đủ hiểu biết, kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn để quản lý, giám sát, triển khai có hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS. Thứ hai, tuyển chọn, đào tạo đội ngũ tuyên truyền viên trong ngành giáo dục làm cơ sở lâu dài giảng dạy kiến thức cho học sinh. Thứ ba, tuyển chọn, đào tạo mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên, bao gồm cả những người nhiễm HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Thứ tư, huy động việc sử dụng các cơ sở đào tạo hiện có của các ngành, nhất là hệ thống trường Y, huy động đội ngũ giảng viên của các trường học, cán bộ thuộc các ngành, đoàn thể có kinh nghiệm thực tiễn tham gia giảng dạy, đào tạo về HIV/AIDS. Thứ năm, xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống tài liệu, giáo trình đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, cập nhật kiến thức, phù hợp với từng đối tượng. Tổ chức đào tạo về ứng dụng các chương trình quản lý thông tin trên máy vi tính và trên mạng cho các cán bộ cấp tỉnh, thị xã, thành phố. 3.3.2.4. Nguồn lực kinh phí Đây là một trong những giải pháp căn bản, hỗ trợ sự thành công của công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh, nhằm tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho các tổ chức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS và đội ngũ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chương trình thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đưa ra giải pháp về đầu tư kinh phí: Thứ nhất, đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí của chương trình. Thứ hai, tăng dần mức đầu tư và huy động nguồn kinh phí cho phòng, chống HIV/AIDS một cách hợp lý, phấn đấu đạt mức tăng tương ứng với mức đầu tư của các nước trong khu vực, mỗi năm đầu tư 10-15% so với năm trước. Bảng 3.1: Nhu cầu ngân sách (dành riêng cho các hoạt động chuyên môn chưa tính lương và phụ cấp cho mạng lưới) phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 Đơn vị tính: 1.000.000 đồng Năm Đầu tư mức trung bình Mức thấp 2004 5.000 3.000 2005 5.500 3.300 2006 6.000 3.900 2007 6.600 4.100 2008 7.300 4.500 2009 8.000 5.000 2010 8.800 5.500 Tổng cộng 47.200 29.300 Trong nguồn kinh phí này, phụ thuộc diễn biến của dịch ở các thời điểm khác nhau để lựa chọn chi phí hợp lý trong điều kiện ngân sách có thể đáp ứng. Mục dự toán hàng năm, đề nghị TW và Quốc tế hỗ trợ 2/3, còn lại địa phương bổ sung và chịu trách nhiệm chi trả lương và phụ cấp cho mạng lưới hoạt động. Có thể thấy rằng, nguồn kinh phí trên không thể đáp ứng kịp thời cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Cần phải khai thác, mở rộng và huy động mọi nguồn lực thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá công tác phòng, chống HIV/AIDS. Tăng cường việc tận dụng các nguồn lực hiện có của các cấp, các ngành, các đoàn thể, cá nhân, các tổ chức hảo tâm trong tỉnh Quảng Ninh cũng như người Việt Nam sống ở các tỉnh, thành phố khác kể cả sống ở nước ngoài. Thực hiện cơ chế phân bổ nguồn ngân sách hợp lý, sử dụng và quản lý có hiệu quả các nguồn kinh phí, tất cả các nguồn lực đều được quản lý tập trung. Thống nhất theo quy định của Nhà nước. Quảng Ninh là một tỉnh có nền kinh tế - xã hội phát triển, nên hơn lúc nào hết tỉnh cần có kế hoạch đầu tư đáng kể cho công tác phòng, chống HIV/AIDS và giai đoạn tiếp theo. Đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm nên tập trung vào một số lĩnh vực cấp bách. 3.3.2.5. Xã hội hoá công tác phòng, chống AIDS Xã hội hoá công tác phòng, chống AIDS vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài. Bởi lẽ HIV/AIDS không đơn giản chỉ là vấn đề sức khoẻ mà còn là vấn đề kinh tế - xã hội, vấn đề chính trị - an ninh của mỗi quốc gia, dân tộc. Nên việc huy động lực lượng của cả cộng đồng vào công tác phòng, chống AIDS là cần thiết. Do vậy, cần đẩy mạnh các giải pháp sau đây: Thứ nhất, xã hội hoá công tác giám sát phát hiện, an toàn trong truyền máu. Thứ hai, xã hội hoá công tác truyền thông- giáo dục sức khoẻ, chăm sóc, tư vấn và các hoạt động khác trong phòng, chống HIV/AIDS tại khu dân cư mà hạt nhân là ngành y tế có vai trò chủ đạo. Thứ ba, tăng cường các hoạt động đào tạo, giảng dạy ở các trường học. Ở cả các trường chính trị, dạy nghề, phổ thông của tỉnh, mở rộng các lớp đào tạo, tập huấn cho người quản lý, chỉ đạo và chuyên trách phòng, chống HIV/AIDS. Thứ tư, thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS phải hướng về cơ sở, nhất là tập trung ưu tiên mọi khả năng sẵn có và huy động cộng đồng cho những xã, phường, khu dân cư còn nghèo nhưng có tỷ lệ người nhiễm HIV cao, phối hợp chặt chẽ phòng, chống HIV/AIDS với phòng, chống tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm). 3.3.2.6. Hợp tác quốc tế. Chương trình thực hiện chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 đưa ra một số giải pháp sau: Thứ nhất, xem xét, phê duyệt các dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS để dự án được triển khai đúng tiến độ. Thứ hai, xây dựng cơ chế chung cho việc điều phối, quản lý, sử dụng các dự án viện trợ, đảm bảo các dự án phải theo đúng chương trình mục tiêu quốc gia. 3.4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ Phòng, chống HIV/AIDS là một vấn đề y tế- xã hội hết sức phức tạp. HIV/AIDS lại liên quan đến tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm... để công tác phòng, chống HIV/AIDS có hiệu quả. Tác giả xin đề xuất một số kiến nghị sau. 3.4.1. Uỷ ban phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý mại dâm Thứ nhất, thống nhất mô hình tổ chức và quy định cụ thể giữa phòng, chống AIDS và phòng, chống các tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm). Thứ hai, tăng cường nguồn thuốc điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội cho bệnh nhân AIDS và thuốc điều trị dự phòng cho cán bộ phơi nhiễm, cán bộ bị tai nạn rủi ro nghề nghiệp bị nhiễm HIV/AIDS. Cho bà mẹ mang thai bị nhiễm HIV. Thứ ba, đào tạo cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS ở các trường đào tạo, quản lý chuyên môn khác nhau cho các cấp nhất là tỉnh, huyện, xã, phường. Thứ tư, tăng cường trang thiết bị y tế, phương tiện đi lại, phương tiện làm việc, phương tiện truyền thông cho tỉnh, cho huyện, cho xã, phường. Thứ năm, đầu tư kinh phí đảm bảo cho công tác phòng, chống HIV/AIDS ở các cấp (100% xã, phường). Bởi vì phòng, chống HIV/AIDS phải lấy dự phòng là chính, thông tin- giáo dục- truyền thông là then chốt. 3.4.2. Đối với Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội… Thứ nhất, mọi cấp, mọi ngành, các tổ chức đoàn thể cần nhận rõ nguy cơ của đại dịch HIV/AIDS không chỉ gây tác hại to lớn về sức khoẻ mà còn tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và giống nòi. Do vậy, chương trình phòng, chống HIV/AIDS phải được quan tâm và được đặt ở vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Thứ hai, xây dựng mô hình tổ chức với đủ cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS từ tỉnh đến cơ sở, củng cố Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm) ở các cấp. Thứ ba, phải có những văn bản quy định phối hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm) từ tỉnh xuống cơ sở để thống nhất và áp dụng có hiệu quả. Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá hơn nữa công tác phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường các nguồn lực hiện có tại địa phương và từ cộng đồng (có thể vận động cộng đồng xây dựng quỹ phòng, chống HIV/AIDS), đẩy mạnh công tác phòng, chống HIV/AIDS có hiệu quả. Thứ năm, để triển khai tốt những việc cần làm trên cần nâng cao vai trò của ngành y tế, đảm bảo vừa tham mưu vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành trong các lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS. Nhất là trong chăm sóc, chữa trị và dự phòng, can thiệp ngăn ngừa hành vi nguy cơ cao. Đó cũng là những việc làm cần thiết để ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS ở Quảng Ninh cũng như cả nước. Kết luận chương 3 Hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh là một bộ phận của hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam. Do đó, trên cơ sở các yêu cầu, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước phòng, chống HIV/AIDS nói chung. Hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh ngoài mang những đặc điểm riêng có căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thì cũng thể hiện những đặc điểm của hoạt động phòng, chống HIV/AIDS nói chung. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa, yêu cầu thực hiện phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường hơn nữa hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS là một mục tiêu và yêu cầu tất yếu. Để đạt được hiệu quả của công tác phòng, chống HIV/AIDS trên thực tế, đảm bảo các yêu cầu, cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng, thì cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp đã nêu ở chương 3, không nên coi trọng hay xem nhẹ một giải pháp nào. KẾT LUẬN Trên cơ sở các vấn đề đã nghiên cứu, luận văn rút ra một số kết luận chủ yếu sau: 1. Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS là một yêu cầu khách quan, mang tính cấp thiết, nó có ý nghĩa rất lớn và giữ vai trò quan trọng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; yêu cầu của hội nhập quốc tế. Do vậy, thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Qua hoạt động thực hiện pháp luật trên thực tế đã góp phần quan trọng cho việc xây dựng và kiện toàn tổ chức, năng lực của cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, nó cũng góp phần tạo ra những biến đổi sâu sắc trong hệ thống những giá trị, chuẩn mực và lối sống của người dân, đồng thời cũng làm giảm thiểu tác động của đại dịch HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh. 2. Thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Từ các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh cho thấy, pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh đã trở thành một hệ thống tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến tổ chức và thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS; rút ra được những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những nguyên nhân của nó trong quá trình thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS. Qua đó, cũng thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. 3. Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh là một bộ phận của thực hiện pháp luật nói chung, do đó cũng cần quán triệt sâu sắc các quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói chung và trong lĩnh vực cải cách tư pháp, cải cách hành chính nói riêng. Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh phải biết kế thừa và phát huy những thành quả đã có, những điểm tiến bộ và còn phù hợp, biết tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của các địa phương khác cho phù hợp với đặc điểm của địa phương mình, sao cho thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn Quảng Ninh có hiệu quả nhất. 4. Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở Quảng Ninh, đưa ra một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh; như bảo đảm an toàn truyền máu, tăng cường chất lượng công tác quản lý chăm sóc, tư vấn, công tác điều trị bệnh nhân, tăng cường công tác phòng, chống lây qua đường tình dục, trong hệ thống sản nhi; Công tác đào tạo cán bộ, nguồn lực kinh phí; hoàn thiện pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS theo hướng xã hội hoá; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS. Tóm lại, qua công tác thực hiện pháp luật ở tỉnh Quảng Ninh có thể nhận thấy rằng, Trong những năm qua, công tác thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc phòng, chống căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Nhận thức của mọi người ngày một tốt hơn về căn bệnh nguy hiểm này và đã có những thay đổi hành vi trong lối sống, trong ứng xử mà hướng đi quan trọng là chống kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS, tăng cường trách nhiệm của gia đình, xã hội với người nhiễm và của người nhiễm HIV/AIDS với gia đình và xã hội. Những hành vi an toàn hơn, những hoạt động trong lĩnh vực y tế về chữa trị và công nghệ phòng tránh mới, được ứng dụng kịp thời. Rõ ràng mỗi người, từng gia đình và cộng đồng đã nhìn căn bệnh HIV/AIDS bằng một tinh thần đổi mới và nhân ái, tìm một hướng ứng xử với người bệnh giàu lòng thương yêu, giúp đỡ. Tình thương và trách nhiệm là một liều thuốc cực mạnh giúp cho người bệnh vượt qua những rào cản phân biệt đối xử, vượt qua mặc cảm đau đớn, sống tự tin giác ngộ hơn, bớt hận thù với cuộc sống, với đồng loại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 30/11/2005 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới, Hà Nội. 2. Ban Khoa giáo Trung ương (2005), HIV/AIDS những thông tin cần thiết cho cán bộ khoa giáo, Hà Nội. 3. Ban Khoa giáo Trung ương (2006), Triển khai thực hiện Chỉ thị 54-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới, Hà Nội. 4. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh (2007), Sổ tay hướng dẫn công tác phòng, chống HIV/AIDS cho cán bộ cơ sở, Quảng Ninh. 5. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Bộ Y tế (2005), Công tác tư tưởng với việc phòng, chống HIV/AIDS, Hà Nội. 6. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2006), Hướng dẫn công tác thông tin, giáo dục truyền thông nhằm xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS, Hà Nội. 7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội (2006), Thông tin về các biện pháp giảm tác hại nghiện ma túy, Hà Nội. 8. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 9. Bộ Y tế (2005), Hỏi, đáp pháp luật về chế độ, chính sách trong phòng, chống HIV/AIDS, Hà Nội. 10. Bộ Y tế - Vụ Pháp chế (2006), Hỏi đáp Luật phòng, chống HIV/AIDS, Hà Nội. 11. Bộ Y tế - Cục Phòng, chống HIV/AIDS (2006), Tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, Nxb Y học, Hà Nội. 12. Bộ Y tế - Cục phòng, chống HIV/AIDS (2006), Đào tạo tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, Nxb Y học, Hà Nội. 13. Bộ Y tế (2008), Cẩm nang truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, Hà Nội. 14. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn sử dụng tài liệu truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội. 15. Cục Phòng, chống HIV/AIDS (2008), Tạp chí AIDS và cộng đồng số 10 (117) 2008 năm thứ 10, Hà Nội. 16. Cục phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam, Bộ Y tế, Tạp chí AIDS và cộng đồng, Hà Nội. 17. Cục Y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS (2005), Sổ tay chăm sóc nhiễm HIV/AIDS, Hà Nội. 18. Dự án phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên, Cẩm nang đào tạo kỹ năng sống trong phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên, Hà Nội. 19. Dự án Smartwork Việt Nam (2005), Hướng dẫn nhà quản lý và công đoàn về chương trình, chính sách phòng ngừa HIV/AIDS tại nơi làm việc, Nxb Lao động, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 23. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Nhà nước pháp luật (2004), Tài liệu học tập về nghiên cứu môn học Nhà nước pháp luật, Tập 2, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. 24. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Nghiên cứu quyền con người (2006), HIV/AIDS và quyền con người, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 25. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện nghiên cứu quyền con người (2007), Tôn trọng và bảo vệ quyền con người của người nhiễm HIV/AIDS, Hà Nội. 26. Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2003), Nghị quyết 39/NQ-HĐ ngày 20/2/2003 của HĐND tỉnh Quảng Ninh về phòng, chống các tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, Quảng Ninh. 28. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 29. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 30. C.Mác - Ph.Ăngghen (1005), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), Hà Nội. 32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2006), Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) gọi tắt là Luật phòng, chống HIV/AIDS ngày 29/6/2006, Hà Nội. 33. Sở Y tế - Trung tâm Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS (2008), Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh năm 2008 kế hoạch năm 2009, Hạ Long. 34. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010. 35. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 36/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 36. Tỉnh ủy Quảng Ninh (1998), Chỉ thị 13/CT-TU ngày 10/2/1998 của Tỉnh uỷ về tăng cường lãnh đạo trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, Quảng Ninh. 37. Tỉnh uỷ Quảng Ninh (2004), Chỉ thị 33/CT-TU ngày 7/5/2004 của Tỉnh uỷ về tăng cường lãnh đạo trong công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới, Quảng Ninh. 38. Tỉnh uỷ Quảng Ninh (2006), Chương trình số 03/CTr –TU ngày 5/5/2006 của Tỉnh uỷ về việc thực hiện Chương trình 54-CT/TW của Ban Bí thư TW về việc tăng Ch iÒu h ­ í T Ø lÖ h iÖ n n h iÔ m ( % ) cường công tác lãnh đạo phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới, Quảng Ninh. 39. Tổ chức Care quốc tế tại Việt Nam (2003), Chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại nhà, Nxb Y học, Hà Nội. 40. Tổ chức Care tại Việt Nam (2007), Tăng cường các nỗ lực ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS, Hà Nội. 41. Trường đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 42. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 43. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2004), Quyết định số 2073/QĐ-UB ngày 24/9/2004 của UBND tỉnh phê duyệt chương trình thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Ninh đến 2010 và tầm nhìn đến 2020, Quảng Ninh. 44. USAID (2008), Hỏi và đáp về pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, Hà Nội. 45. Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (2005), Một số thông tin cơ bản về HIV/AIDS và kỳ thị, Hà Nội. 46. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2006), Bản tin Jvnet. 47. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội. 48. MỤC LỤC 49. Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 7 1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 25 1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 27 1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS 31 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, 35 CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 2.1. Khái quát đặc điểm và tình hình dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 35 2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 37 Chương 3: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH QUẢNG NINH 67 3.1. Yêu cầu và quan điểm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh 67 3.2. Mục tiêu thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại tỉnh Quảng Ninh 84 3.3. Các giải pháp nhằm bổ trợ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS tại Quảng Ninh 90 3.4. Một số khuyến nghị 116 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121 50. 51. 52. 53. 54. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 55. 56. 57. AHF : Dự án do tổ chức chăm sóc sức khoẻ AIDS, Hoa Kỳ 58. AIDS : Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải 59. ARV : Thuốc kháng vi rút HIV 60. CBLTQĐTD : Chữa bệnh lây truyền qua đường tình dục 61. CD4, CD8 : Máy đếm tế bào 62. DFTD : Dự án phòng lây nhiễm HIV tại Việt Nam 63. FHI : Tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế 64. HIV : Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người 65. NAV : Tổ chức Bắc Âu trợ giúp Việt Nam 66. PSI : Sự án do tổ chức dân số thế giới tài trợ 67. STI : Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục 68. UNAIDS : Chương trình Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS 69. USAID : Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ 70. WHO : Tổ chức Y tế thế giới 71. XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13_3969.pdf
Luận văn liên quan