Luận văn Thực trạng vận hành luật thuế giá trị gia tăng và tổ chức kế toán thuế giá trị gia tăng trong doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam

Tổng cục thuế quy định mã số cho từng Cục thu mua. Khi khách hàng mua hàng, nhân viên cục thu mua nhập số liệu khách hàng gồm: mã vùng nơi khách hàng đặt trụ sở, mã khách hàng, khối lượng hàng mua, ngày mua Khi cần kiểm tra, cơ quan thuế ở địa phương, nơi doanh nghiệp nộp thuế, sẽ thông qua mạng internet và các chương trình tin học ứng dụng để kiểm tra số liệu tại từng cục thu mua theo số liệu khách hàng cung cấp thông qua bảng kê mua hàng. Như vậy, việc kiểm tra sẽ dễ dàng hơn và cũng dễ phát hiện ra gian lận sai sót hơn.

pdf40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng vận hành luật thuế giá trị gia tăng và tổ chức kế toán thuế giá trị gia tăng trong doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0của Bộ Tài Chính. 1.33. Phương pháp tính thuế. Hiện nay, thuế GTGT mà cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. 1.331. Phương pháp khấu trừ. Theo phương pháp này: Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Trong đó: a) Thuế GTGT đầu ra = giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ bán ra *thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ tương ứng Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ. Doanh thu chưa có thuế được xác định bằng giá bán trừ (-) thuế tính trên giá bán. b) Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT), số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu (hoặc nộp thay cho phía nước ngoài theo quy định tại điểm 9 Mục II Phần C Thông tư122/2000/TT-BTC ngày29/12/2000) và số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ % dưới đây: _ Tỷ lệ 3% trên giá mua theo hoá đơn đối với: + Hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, mua của đơn vị kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá đơn bán hàng; + Hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua vào không có hoá đơn; + Hàng hoá chịu thuế TTĐB cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản xuất để bán ra có hoá đơn bán hàng (kể cả trường hợp mua của đại lý bán hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo đúng giá của cơ sở sản xuất, hưởng hoa hồng). + Tiền bồi thường kinh doanh bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm thuộc đối tượng chịu thuế GTGT (tính trên giá trị bồi thường bảo hiểm) thuộc trách nhiệm bồi thường của cơ sở kinh doanh bảo hiểm. _ Tỷ lệ 2% trên giá trị hàng hoá mua vào theo Bảng kê đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến; đất, đá, cát, sỏi, các phế liệu mua của người bán không có hoá đơn. Riêng đối với cơ sở sản xuất sản phẩm là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến không chịu thuế GTGT, nếu cơ sở dùng các sản phẩm này để tiếp tục sản xuất, chế biến ra các hàng hoá khác thuộc diện chịu thuế GTGT thì giá được tính khấu trừ theo tỷ lệ quy định là giá thành sản xuất của các mặt hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản. Tỷ lệ (%) khấu trừ trên đây áp dụng thống nhất cho cả trường hợp kinh doanh trong nước và xuất khẩu. _ Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ đặc thù (kể cả hoá đơn mua hàng dự trữ quốc gia của cơ quan dự trữ quốc gia) ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và phương pháp tính nêu tại điểm 14 Mục I Phần B của Thông tư này để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. c) Xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ: _ Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. _ Hàng hoá mua vào bị tổn thất do thiên tai, hoả hoạn, bị mất, xác định do trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải bồi thường thì thuế GTGT đầu vào của số hàng hoá này được tính vào giá trị hàng hoá tổn thất phải bồi thường, không được tính vào số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ khi kê khai thuế GTGT phải nộp. _ Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT; số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào chi phí của hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Nếu hàng hoá, dịch vụ mua vào không sử dụng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thì thuế GTGT đầu vào được tính vào chi phí của hoạt động đó. Đối với tài sản cố định mua vào sử dụng riêng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế thì thuế GTGT của tài sản cố định được tính vào nguyên giá của tài sản cố định. _ Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ sử dụng chung cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng cơ sở không hạch toán riêng được thuế đầu vào được khấu trừ, thì thuế đầu vào được tính khấu trừ theo tỷ lệ (%) doanh số của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra. _ Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT được kê khai tạm tính hàng tháng. Khi quyết toán năm, cơ sở phải tính lại số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ doanh số của năm quyết toán. Đối với cơ sở kinh doanh có cơ cấu doanh thu giữa hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT tương đối ổn định, cơ sở kinh doanh có thể đăng ký với cơ quan thuế tỷ lệ tạm tính hàng tháng theo tỷ lệ doanh số năm trước, khi quyết toán năm sẽ quyết toán theo thực tế. Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Trường hợp hoá đơn GTGT hoặc chứng từ nộp thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong tháng nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau, trường hợp do lý do khách quan thì được khấu trừ trong thời gian tối đa là 03 tháng tiếp sau. Văn phòng Tổng công ty không trực tiếp hoạt động kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc như: Bệnh viện, Trạm xá, Nhà nghỉ điều dưỡng, Viện, Trường đào tạo... không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT thì không được khấu trừ hay hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phục vụ cho hoạt động của các đơn vị này. Trường hợp các đơn vị này có hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì phải đăng ký, kê khai nộp thuế GTGT riêng cho các hoạt động này. Cơ sở sản xuất hàng hoá chịu thuế TTĐB trực tiếp hoặc uỷ thác xuất khẩu thì thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng để sản xuất các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu được tính khấu trừ hoặc hoàn thuế theo quy định. d) Đối với hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT được chuyển sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào trước tháng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào. 1.332. Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. a) Xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT GTGT của hàng hóa, Thuế suất thuế của = x phải nộp dịch vụ chịu thuế hàng hoá, dich vụ đó GTGT của Doanh số của hàng hoá, Gía vốn của hàng hoá, = - hàng hóa, dịch vụ dịch vụ bán ra dịch vụ bán ra Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau: _ Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì xác định như sau: Giá vốn Doanh số doanh số doanh số = + - hàng bán ra tồn đầu kỳ mua trong kì tồn cuối kỳ _ Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình. _ Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải. _ Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống, tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ (-) giá vốn hàng hóa, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống. _ Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, giá trị gia tăng là số chênh lệch giữa doanh số bán ra vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra. _ Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế có kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, cơ sở phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào để kê khai thuế GTGT phải nộp của hàng hoá, dịch vụ theo từng hoạt động kinh doanh và phương pháp tính thuế riêng. Trường hợp không hạch toán được riêng thì được xác định phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tương ứng với tỷ lệ doanh thu của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế trên tổng doanh thu bán hàng phát sinh trong kỳ. _ Đối với các hoạt động kinh doanh khác là số chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ (-) giá vốn của hàng hóa, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh đó. Doanh số hàng hóa, dịch vụ bán ra quy định trên đây bao gồm cả các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền. Doanh số hàng hóa, dịch vụ mua vào quy định trên đây bao gồm cả các khoản thuế và phí đã trả tính trong giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào - Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT không được tính giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư, xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào để tính giá trị gia tăng. b) Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau: _ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ. _ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hóa, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân (x) với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. _ Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế; giá trị gia tăng được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) giá trị gia tăng tính trên doanh thu. Tổng cục Thuế hướng dẫn các Cục thuế xác định tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế GTGT phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương. 2.Tổ chức công tác kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp thương mai 2.1. Tài khoản sử dụng. _ Tài khoản 133 - thuế GTGT được khấu trừ Tài khoản 133 dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ. Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Bên Có: - Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ; - Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ; - Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại. Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ, số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng NSNN chưa hoàn trả _ Tài khoản này gồm: + Tài khoản 1331 - Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ Tài khoản 1331 dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. + Tài khoản 1332 - thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định Tài khoản 1332 dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào của quá trình đầu tư, mua sắm tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. _ Tài khoản 3331 "Thuế GTGT phải nộp" Bên Nợ: - Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ - Số thuế GTGT được giảm trừ vào số thuế GTGT phải nộp - Số thuế GTGT đã nộp vào NSNN - Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại Bên Có: - Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ; - Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng, sử dụng nội bộ; - Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập bất thường; - Số thuế GTGT phải nộp của hàng hóa nhập khẩu Số dư bên Có: Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào NSNN _ Tài khoản 3331 có hai Tài khoản cấp 3: + Tài khoản 33311 - Thuế GTGT đầu ra: dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ. + Tài khoản 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu: dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khẩu. 2.2. Kế toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế 2.21. Kế toán thuế GTGT đầu vào (1) Nhập kho vật liệu dụng cụ hàng hoá: Nợ TK 152, 153, 156, 611  Giá mua chưa có thuế Nợ TK 133  Thuế GTGT đầu vào Có TK 111, 112, 131…  tổng số tiền thanh toán (2) Mua vật liệu, dung cụ dùng ngay vào hoạt động bán hàng hoặc quản lý doanh nghiệp. Nợ TK 641, 642  Giá mua chưa có thuế Nợ có TK 133  Thuế GTGT đầu vào Có TK 111, 112, 131... Tổng số tiền thanh toán (3) Hàng hoá mua bán gửi bán hoặc bán ngay cho khách hàng và chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Nợ TK 157, 632, 611  Giá mua chưa có thuế Nợ TK 133  Thuế GTGT đầu vào Có TK 111, 112, 331... Tổng số tiền thanh toán (4) Mua TSCD cho hoạt động sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:  Nợ TK 211 (213)  Giá mua chưa có thuế Nợ TK 133  Thuế GTGT đầu vào Có TK 111, 112, 331... Tổng số tiền thanh toán  Trường hợp mua TSCĐ dùng chung cho hoạt động chịu thuế GTGT và hoạt động không chịu thuế GTGT, khoản thuế đầu vào vẫn phản ánh vào TK 133, cuối kì mới xác định thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. (5) Vật tư hàng hoá nhập khẩu dùng sản xuất kinh doanh, các loại hàng hoá dịch vụ chưa thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. (a) Nợ TK 152, 156, 211 Có TK 111, 112 Có TK 3333  thuế nhập khẩu (b) Thuế GTGT đầu vào của hàng nhập khẩu (được khấu trừ) Nợ TK 133 Có TK 33312 (c) Khi nộp thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Nợ TK 33312 Có TK 111, 112 (d) Mua vật tư, hàng hoá dùng đồng thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và không chịu thuế GTGT, nhưng không tách riêng được thuế GTGT đầu vào, kế toán ghi: Nợ TK 152, 156  Giá mua chưa có thuế Nợ TK 133  Thuế GTGT đầu vào Có TK 111, 112, 331... Tổng số tiền thanh toán Cuối kỳ kế toán mới tiến hành phân bố thuế GTGT đầu vào cho doanh thu của hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và doanh thu của hàng không chịu thuế GTGT. 2.22. Kế toán thuế GTGT đầu ra: (1) Khi bán sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng dựa thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ KT ghi: Nợ TK 111  Tổng giá thanh toán Có TK 511  Doanh thu bán hàng (giá mua chưa thuế) Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp (2) Khoản thu nhập hoạt động tài chính,thu nhập khác phát sinh kế toán ghi: Nợ TK 111, 112, 138  Tổng giá thanh toán Có TK 515, 711  thu nhập tính theo giá chưa thuế. Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp (3) Bán sản phẩm hàng hoá theo phương thức trả góp, kế toán ghi: Nợ TK 111, 112, 131  Tổng giá thanh toán Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp Có TK 511  Giá bán trả 1 lần chưa có thuế GTGT Có TK 3387  Lãi trả chậm. (4) Bán hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế để đổi lấy hàng sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, kế toán ghi: (a) Phản ánh doanh thu bán hàng và thuế GTGT phải nộp: Nợ TK 131  Tổng giá thanh toán Có TK 511  Giá bán chưa có thuế GTGT Có TK 3331  thuế GTGT đầu ra phải nộp (b) Khi nhận vật tư hàng hóa trao đổi về có hoá đơn GTGT, kế toán ghi: Nợ TK 156, 152  Gía chưa có thuế Nợ TK 133  Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 131  Tổng giá thanh toán (5) Khi bán hàng hoá, dịch vụ để đổi lấy hàng hoá dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, kế toán ghi: (a) Nợ TK 131  Tổng giá thanh toán Có TK 511  Giá bán chưa có thuế GTGT Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp (b) Nợ TK 152, 156… Có TK 131 (6) Nếu sử dụng hàng hóa để biếu tặng: (a) Doanh thu hàng bán tính theo giá trị chưa có thuế GTGT Nợ TK 641, 642 Có TK 512 (b) Thuế GTGT phải nộp (được khấu trừ) Nợ TK 133 Có TK 33311 Nếu biếu tặng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc không chịu thuế GTGT, thì số thuế GTGT đầu ra không được khấu trừ, kế toán ghi: Nợ TK 641, 642 Có TK 3331  thuế GTGT đầu ra Có TK 512  Doanh thu hàng bán nội bộ Nếu hàng hoá dùng khuyến mại tiếp thị, quảng cáo, không tính thuế GTGT đầu ra thì chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào tương ứng với giá trị sản phẩm hàng hoá khuyến mại, quảng cáo. Nợ TK 641 Có TK 133 Trường hợp sử dụng hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế để biếu tặng được trang trải bằng quĩ phúc lợi hoặc nguồn kinh phí thì tính trừ bằng quỹ phúc lợi hoặc chi bằng nguồn kinh phí, kế toán ghi. Nợ TK 431,161 (giá chưa có thuế GTGT) Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp Có Tk 152  Giá chưa có thuế GTGT (7) Dùng hàng hoá trả lương cho nhân viên: Nợ TK 334  Giá có thuế GTGT Có TK 512  Giá chưa có thuế GTGT Có TK 33311  thuế GTGT đầu ra phải nộp 2.23. Kế toán quyết toán thuế GTGT: Cuôí kì kế toán xác định số thuế đầu vào không được khấu trừ trong tổng số thuế GTGT đầu vào khi mua TSCĐ dùng chung cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT dựa trên cơ sở tỷ lệ doanh thu chịu thuế GTGT và doanh thu không chịu thuế GTGT.Số thuế đầu vào không được khấu trừ hoạch toán như sau: Nợ TK 1421  thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn Nợ TK 642  thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ nhỏ Có TK 133  thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ Và Nợ TK 642 Có TK 1421  thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ phân bổ trong kì Cuối kì phân bố thuế GTGT đầu vào cho doanh thu của hàng chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Mức phân bổ thuế GTGT doanh thu của hàng đầu vào cho hàng chịu thuế GTGT Doanh thu của = X chịu thuế GTGT theo Tổng doanh thu của hàng chịu hàng chịu thuế GTGT phương pháp khấu trừ thuế GTGT và không chịu thuế GTGT Mức phân bổ thuế GTGT Thuế GTGT đầu vào Mức phân bổ thuế GTGT đầu vào co hàng không chịu = - đầu vào cho hàng chịu thuế GTGT có liên quan GTGT theo phương Pháp khấu trừ thuế Nợ TK 632 Có TK 133  mức phân bổ Nếu tính vào kỳ sau: Nợ TK 142: chi phí trả trước Có 133 đến kì sau: Nợ TK 632 Có TK 142 _ Xác định số thuế phải nộp: Nợ TK 3331 Có TK 133 _ Xác định số thuế được giảm trừ: Nợ TK 3331 Có TK 711 _ Số thuế được nhà nước hoàn lại khi nhận tiền ghi Nợ TK 111, 112 Có TK 133 _ Khi tiến hành nộp thuế: Nợ TK 3331 Có TK 111, 112 2.3. Kế toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh. (1) Khi mua hàng hoá kế toán ghi: Nợ TK 152, 153, 156, 211... Có TK 111, 112, 331... (2) Nếu vật tư hàng hoá nhập khẩu kế toán ghi: Nợ TK 152, 156...  giá trị có thuế Có TK 111, 112, 331... Có TK 3333  thuế nhập khẩu Có TK 33312  thuế GTGT phải nộp Khi nộp thuế nhập khẩu và thuế GTGT của hàng nhập khẩu Nợ TK 3333 Nợ TK 33312 Có TK 111, 112 (3) Khi bán hàng hoá kế toán ghi: Nợ TK 111, 112, 131 Có TK 511, 512 (4) Khi bán hàng đổi lấy vật tư, hàng hoá dùng cho sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp, kế toán ghi: (a) Doanh thu bán hàng Nợ TK 131 Có TK 511  Tổng giá thanh toán (b) Trị giá vật tư hàng nhận Nợ TK 152, 153, 156... Có TK 131 (5) Khi phát sinh các khoản thu nhập hoạt động tài chính, hoạt động khác, kế toán ghi: Nợ TK 111, 112, 113 Có TK 515, 711 (6)Cuối kỳ kế toán xác định thuế GTGT phải nộp cho sản phẩm hàng hoá dịch vụđã bán trong kì. (a) Đối với hoạt động sxkd ghi: Nợ TK 511 Có TK 33311 (b) Đối với hoạt động tài chính, bất thường khác ghi Nợ TK 515, 711 Có TK 33311 (7) Khi nộp thuế KT ghi: Nợ TK 33311 Có TK 111, 112 (a) Nếu được giảm thuế, tính vào số thuế phải nộp. Nợ TK 33311 Có TK 711 (b) Nếu được giảm trừ, nhận lại bằng tiền. Nợ TK 111, 112 Có TK 711 Sơ đồ kế toán thuế giá trị gia tăng 111, 112, 331… 152, 156, 211, 641, 642… 511, 512, 711, 515 111, 112, 131, 136… Doanh thu bán Thu nhập tài chính, bất thường 133 Thuế GTGT được khấu trừ 142, 632, 641, 3331 Thuế GTGT phải nộp Thuế GTGT đầu phát sinh trong kỳ Thuế GTGT đầu không được khấu trừ Thuế GTGT 152, 153, 156, Thuế GTGT hàng khẩu phải nộp NSNN nếu không được khấu trừ Thuế GTGT đã được khấu trừ 111, 112 Thuế GTGT đầu được hoàn lại 711 Thuế GTGT được n ận được tiền của Khi nộp thuế GTGT cho NSNN Thuế GTGT được giảm trừ số thuế GTGT phải nộp Thuế GTGT hàng nhập khẩu phải nộp NSNN được khấu trừ Mua vật tư, hàng hoá, 2.4. Tổ chức kế toán thuế GTGT. 2.41.Chứng từ kế toán a/ Hoá đơn giá trị gia tăng Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng "Hoá đơn GTGT" do Bộ Tài chính phát hành (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá có thuế GTGT Khi lập hoá đơn phải sử dụng mẫu số 01 GTKT – 3Llvới trường hợp bán hàng hoá với số lượng lớn hoặc mẫu số 01 GTKT – 2LL với trường bán hàng hóa với số lượng nhỏ. b/ Hoá đơn bán hàng Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng "Hoá đơn bán hàng" do Bộ Tài chính phát hành. Khi lập hoá đơn bán hàng phải sử dụng mẫu số 02 GTKT – 3LN cho trường hợp bán hàng hoá với số lượng lớn hoặc mẫu số 02 GTKT- 2LN cho hàng hóa bán với số lượng nhỏ. c/ Hoá đơn tự in, chứng từ đặc thù Để sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với mẫu quy định chung (kể cả hoá đơn tự phát hành),doanh nghiệp phải đăng ký với Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) và chỉ được sử dụng sau khi được chấp thuận bằng văn bản. Hoá đơn tự in phải đảm bảo phản ánh đầy đủ các nội dung thông tin theo quy định của hoá đơn, chứng từ (hoá đơn GTGT, hoá đơn bán hàng). - Các chứng từ đặc thù như tem bưu điện, vé máy bay, vé xổ số, giá ghi trên vé là giá đã có thuế GTGT. d/ Bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ Trường hợp cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện phải lập hoá đơn bán hàng thì khi bán hàng phải lập "Bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ" theo Mẫu số 05/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính e/ Bảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất Nếu doanh nghiệp mua hàng hoá là các mặt hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất trực tiếp bán ra không có hoá đơn theo chế độ quy định thì người mua phải lập "Bảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất" theo Mẫu số 04/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính. 2.42. Tổ chức hệ thống sổ chi tiết, tổng hợp về thuế GTGT 2.421. Doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ _ Với doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ Nhật ký – Sổ cái, kế toán cần mở thêm 4 cột để phản ánh tài khoản 133 và tài khoản 3331. Hàng ngày, căn cứ vào chứng từ gốc, kế toán tiến hành ghi vào Nhật ký – Sổ cái, đồng thời phản ánh vào sổ chi tiết tài khoản 133,3331, cuối tháng khoá sổ, khớp số liệu giữa Nhật ký – Sổ cái và bảng tổng hợp chi tiết ( lập từ các sổ chi tiết ). _ Với doanh nghiệp áp hình thức Chứng từ ghi sổ thì hàng ngày, căn cứ vào chứng từ gốc, kế toán lập các chứng từ ghi sổ .Từ các chứng từ ghi sổ, kế toán vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ , sau đó vào sổ cái cho các tài khoản 133,3331. Đồng thời kế toán mở sổ chi tiết cho tài khoản 133,3331. Cuối tháng, kế toán tiến hành đối chiếu số liệu trên sổ cái với số liệu trên sổ tổng hợp chi tiết và từ đó lập bảng cân đối số phát sinh, rồi đối chiếu số liệu giữa sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và bảng cân đối số phát sinh. _ Với doanh nghiệp áp dụng hình thứcNhật ký chứng từ , kế toán căn cứ vào chứng từ gốc phản ánh vào sổ chi tiết tài khoản 133,3331 . Từ các sổ chi tiết này, kế toán mới tiến hành phản ánh vào Nhật ký chứng từ số 10. Cuối tháng, cuối quý khoá sổ Nhật ký chứng từ và xác định số tổng cộng để tiến hành ghi sổ cái tài khoản 133, 3331. Doanh nghiệp dù tiến hành ghi sổ theo hình thức nào cũng phải tiến hành mở sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại ( Mẫu số S02 – DN) và sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm ( Mẫu số S03 – DN ) để hỗ trợ cho cơ quan thuế trong công tác kiểm tra. 2.422. Doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính trực tiếp Việc ghi sổ theo các loại hình khác nhau cũng có trình tự tiến hành như trên nhưng chỉ phản ánh cho tài khoản 3331, đồng thời doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi thuế GTGT ( Mẫu số S01 – DN ) và sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm ( Mẫu số S03 – DN ) để phục vụ cho việc quản lý thuế của cơ quan thuế. 2.43. Báo cáo và quyết toán thuế GTGT. 2.431. Báo cáo tài chính. Cuối kỳ doanh nghiệp cần tiến hành lập các báo cáo tài chính trong đó có phản ánh các chỉ tiêu liên quan đến thuế GTGT. Các báo cáo tài chính này bao gồm: a/ Bảng Cân đối kế toán ( Mẫu số B 01 – DN ) Bảng Cân đối kế toán ( Mẫu số B 01 – DN ) có bổ sung chỉ tiêu có Mã số 133 ( thuế GTGT được khấu trừ ). Chỉ tiêu ” Thuế GTGT được khấu trừ ” ( Mã số 133 ) dùng để phản ánh số thuế GTGT còn được khấu trừ và số thuế GTGT được Cơ quan có thẩm quyền chấp nhận hoàn lại nhưng đến cuối kỳ kế toán NSNN chưa hoàn trả. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu, căn cứ vào số dư bên Nợ Tài khoản 133 trên Sổ Cái tại thời cuối kỳ kế toán. b/ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ( Mẫu số B 02 – DN ) Báo cáo kết quả kinh doanh gồm có 3 phần, trong đó phần III là phần phản ánh thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ khấu trừ cuối kỳ; Số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại; Số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm cuối kỳ. 2.432. Quyết toán thuế. Theo quy định tại điều 14, Nghị định số 79/2000/NĐ - CP thì doanh nghiệp cần tiến hành lập và gửi quyết toán thuế GTGT hàng năm cho cơ quan thuế. Doanh nghiệp sẽ thực hiện quyết toán tài chính theo chế độ Nhà nước quy định. Trên cơ sở quyết toán tài chính, doanh nghiệp phải tiến hành kê khai toàn bộ số thuế phải nộp, số đã nộp, số thuế được hoàn lại tính đến thời điểm quyết toán thuế. Doanh nghiệp phải kê khai đầy đủ, đúng chỉ tiêu và số liệu theo mẫu quyết toán thuế, gửi bản quyết toán thuế đến cơ quan thuế địa phương, nơi cơ sở đăng ký nộp thuế, trong thời gian quy định. Trường hợp cơ sở kinh doanh được áp dụng quyết toán tài chính khác năm dương lịch thì vẫn phải quyết toán thuế theo năm dương lịch. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của số liệu quyết toán thuế và phải có trách nhiệm nộp số thuế GTGT còn thiếu sau 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán, nếu nộp thừa thì số thừa sẽ được trừ vào số phải nộp kỳ sau. Phần II: Thực trạng vận hành luật thuế GTGT và kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam. Luật thuế GTGT tuy đã triển khai nhiều năm nhưng vẫn còn những vấn đề tồn tại gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và Nhà nước.Về phía doanh nghiệp, những vấn đề đó là những điểm chưa hợp lý trong công tác hạch toán kế toán, những quy định chưa tạo ra sự công bằng thực sự cho các doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, đó là hiện tượng ”lách luật” của các doanh nghiệp để gian lận thuế, trốn thuế tạo ra sự thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Do đó, cần đi sâu tìm hiểu những vấn đề này cả từ phía các doanh nghiệp và phía Nhà nước. 1. Những tồn tại trong công tác kế toán thuế GTGT tại các doanh nghiệp thương mại hiện nay. Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp có hoạt động chính là mua hàng vào, bán hàng ra, tiến hành hoạt động kinh doanh trên cả thị trường trong và ngoài nước để tìm kiếm lợi nhuận. Với quy mô kinh doanh rộng như vậy nên trong thực tế hoạt động đã nảy sinh rất nhiều vấn đề cần được xem xét. 1.11. Về chế độ chứng từ hoá đơn Sau khi Luật thuế GTGT ra đời nhiều hoá đơn đặc thù nhằm thể hiện rõ nội dung hoat động kinh tế giữa các bên tham gia. Tuy nhiên, số lượng hoá đơn nhiều nhưng chưa thật đủ, cụ thể là những trường hợp sau: _ Khi doanh nghiệp bán hàng thì sẽ có hoá đơn bán hàng, hoá đơn GTGT phản ánh hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Nhưng vì lý do nào đó, khách hàng trả lại hàng đã mua cho doanh nghiệp. Hàng hoá trả lại có thể là một phần hay toàn bộ hàng hóa đã mua. Nhưng cho dù giá trị trao đổi của hoạt động này nhỏ hay lớn, thì hoạt động này cũng có nội dung rõ ràng, thể hiện tư cách pháp của các pháp nhân độc lập. Như vậy, việc không có một hoá đơn đặc thù để phản ánh hoạt động này là không hợp lý. Ngoài ra, những hoạt động như chiết khấu thanh toán, giảm giá tuy có xảy ra sau giao dịch mua bán nhưng cũng có tính chất như trên, do vậy cũng cần có hoá đơn đặc thù để phản ánh. _ Doanh nghiệp thương mại với hoạt động bán hàng là chủ yếu nên doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng hình thức chiết khâú thương mại để thu hút khách hàng. Chiết khấu thương mại phản ánh sự ưu đãi cho khách hàng khi mua hàng hoá của doanh nghiệp và được tách ra khỏi tổng số tiền thanh toán phải trả. Tuy nhiên, trên hoá đơn bán hàng hay hoá đơn GTGT hiện nay chỉ ghi tổng giá thanh toán mà không ghi rõ phần chiết khấu thương mại người mua được hưởng. Như vậy, việc ghi thiếu đã không phản ánh được hết nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh. _ Một hoạt động khác của doanh nghiệp thương mại là hoạt động nhận uỷ thác xuất, nhập khẩu. Theo quy định của Bộ Tài Chính và Tổng cục thuế, các đơn vị nhận ngoài việc lập hoá đơn GTGT thu phí uỷ thác còn phải lập hoá đơn GTGT khi giao hàng cho cơ sở uỷ thác ( đối với trường hợp nhận uỷ thác nhập khẩu ). Như vậy, hoạt động này phải sử dụng hai hoá đơn khác nhau, sẽ gây khó khăn cho việc kiểm tra sai phạm của các cơ quan chức năng. 1.12. Về tài khoản sử dụng và phương pháp kế toán thuế GTGT _ Tài khoản 133 ’’Thuế GTGT được khấu trừ’’, có tên gọi còn chưa phù hợp với nội dung. Tài khoản 133 phản ánh toàn bộ số thuế GTGT đầu vào, gồm cả thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. Thuế GTGT đầu vào sau khi loại trừ thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ ( phân bổ cuối kỳ ) mới còn lại là thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Do vậy, nếu lấy tên tài khoản là ” Thuế GTGT đầu vào ” thì sẽ bao quát hơn. Tài khoản 133 có 2 tài khoản cấp 2 : 1331’’ Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hóa dịch vụ ’’ 1332 ’’ Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ ’’ Theo em, việc chi tiết này là không cần thiết. Dù đầu tư hay mua hàng hóa, dịch vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì kế toán chỉ cần quan tâm đến phần thuế GTGT được khấu trừ và phần thuế GTGT không được khấu trừ ( phân bổ vào chi phí cuối kỳ ). Như vậy, nên tách tài khoản 133 theo hướng theo dõi thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ chờ phân bổ để tiện cho việc theo dõi và phân bổ. _ Tài khoản 3331 chi tiết thành: 33311 ’’ Thuế GTGT đầu ra ’’ 33312 ’’ Thuế GTGT hàng nhập khẩu ’’ Theo em, kế toán chủ yếu chỉ cần theo dõi thuế GTGT phải nộp, thuế GTGT của hàng nhập khẩu cũng chỉ là một khoản thuế GTGT phải nộp. Do đó, nên đổi tên tài khoản 33312 thành ’’ Thuế GTGT phải nộp ’’ để theo dõi toàn bộ số thuế phải nộp. _ Phương pháp tính thuế hiện nay gồm 2 phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Và dù doanh nghiệp tiến hành tính thuế theo phương pháp nào thì tổng số thuế phải nộp cũng không đổi và đều bằng nhau. Tuy nhiên, theo quy định tính thuế hiện nay thì doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ phải nộp nhiều thuế hơn so với doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Xét một ví dụ như sau: Doanh nghiệp A mua hàng vào với giá mua không thuế là 20 tr, thuế suất thuế GTGT đầu vào là 10% ; bán hàng ra với giá bán chưa thuế là 40, thuế suất thúê GTGT là10%. Gỉa sử, toàn bộ thuế GTGT đầu vào đều được khấu trừ, toàn bộ thuế GTGT đầu ra là thuế phải nộp. + Nếu doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ = 20*10% = 2 tr Thuế GTGT đầu ra = 40*10% = 4 tr Thuế GTGT phải nộp = 4 - 2 = 2 tr + Nếu doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: GTGT = 44 – 22 = 22 tr Thuế GTGT phải nộp = 22*10% = 2,2 tr Như vậy, doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ phải nộp thuế nhiều hơn doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Nguyên nhân là do công thức: GTGT = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra – Gía vốn của hàng hoá, dịch vụ mua vào = (Gía bán không thuế + Thuế GTGT đầu ra) – (Gía mua không thuế + Thuế GTGT đầu vào) = (Gía bán không thuế – Gía mua không thuế) + (Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào) Thuế GTGT chỉ tính trên GTGT của hàng hóa. Theo công thức trên, thuế GTGT đã tính thêm trên phần GTGT của thuế, như vậy là có hiện tượng tính trùng thuế, thuế đánh trên GTGT của thuế. Do đó, theo em, công thức xác định GTGT trong phương pháp trực tiếp là không hợp lý. _ Về vấn đề xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào, Luật thuế GTGT quy định trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh cả hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT, nhưng không hạch toán riêng được thuế GTGT được khấu trừ thì cuối kỳ sẽ phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ (%) doanh số hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hoá dịch vụ bán ra. Theo em, nếu dùng tỷ lên này để phân bổ là không hợp lý. Bởi vì, lượng hàng hoá, dịch vụ mỗi loại bán ra trong kỳ là khác nhau, làm cho tỷ lệ này thay đổi. Và thậm chí, do ảnh hưởng của tỷ lệ này làm thuế GTGT đầu vào được khấu trừ dao động nhiều, có thể được khấu trừ nhiều, khấu trừ ít, có thể không được khấu trừ hoặc được khấu trừ tất cả. Do đó, cần xác định một tỷ lệ hợp lý để không làm lượng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bị biến động quá lớn. _ Một vấn đề cũng khá quan trọng đó là hiện tượng doanh nghiệp bị Nhà nước ’’chiếm dụng vốn’’. Khi mua hàng hoá, doanh nghiệp doanh nghiệp đã phải nộp trước thuế thông qua tiền thuế ẩn trong giá mua thanh toán cho người bán. Doanh nghiệp mua hàng hóa về, nhưng chưa tiêu thụ được ngay mà còn nhập kho. Như vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay, khi áp dụng Luật thuế GTGT phải vay thêm để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng hơn. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán được hàng thì mới thu được thuế GTGT từ người mua. Trường hợp nhập khẩu hàng cũng tương tự. Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam có số vốn không lớn, lại phải vay ngân hàng, mà phải nộp thuế GTGT 10% khi hàng nhập khẩu, để rồi vừa không có vốn kinh doanh lại vừa phải trả lãi suất ngân hàng thì thật bất hợp lý. Để rồi, những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không thể cạnh tranh nổi với những doanh nghiệp trốn thuế khi bán hàng không cấp hoá đơn để giảm giá bán. 2. Những khó khăn trong công tác quản lý của Nhà nước khi thực hiện Luật thuế GTGT. Những vấn đề nêu trên đã cho thấy những khó khăn mà doanh nghiệp còn đang phải đối mặt khi thực hiện Luật thuế GTGT. Nhưng không phải doanh nghiệp là những người bị thiệt còn Nhà nước thì được lợi. Thực tế, Nhà nước lại đối tượng chịu thiệt lớn nhất từ những kẽ hở trong luật thuế. Kẽ hở trong luật thuế là những vấn đề chưa được quy định trong luật hoặc những quy định trong luật nhưng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, hay, các quy định riêng cho các trường hợp đặc biệt nhưng không được cụ thể, rõ ràng. Do đó, khi một doanh nghiệp đã có ý đồ vi phạm, doanh nghiệp đó sẽ tìm hiểu những thiếu sót trong luật, để ” lách luật ” nhằm thực hiện mục đích thu lợi cho mình. Một hiện tượng còn đơn giản là việc các doanh nghiệp chậm nộp thuế. Bởi vì sao? Một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trị hơn một đồng trong tương lai, vì đồng tiền có khả năng tự sinh lời. Do đó,các đối tượng nộp thuế cố gắng đi chiếm dụng vốn của khách hàng, của các đối tượng khác và của cả ngân sách nhà nước qua việc chậm nộp thuế. Tuy nhiên, ranh giới giữa việc chậm nộp thuế và gian lận, trốn thuế chỉ rất mong manh, khi doanh nghiệp có đủ khả năng để hợp lý hoá số liệu, chiếm dụng số thuế phải nộp. Chậm nộp thuế thì Nhà nước còn có thể thu hồi được, nhưng nếu doanh nghiệp trốn thuế thì Nhà nước sẽ bị thiệt hại rất nhiều. Và sẽ còn nguy hiểm hơn khi Nhà nước không những không thu được thuế mà còn bị rút tiền từ việc khai khống thuế GTGT được khấu trừ của các doanh nghiệp. Theo báo cáo của Công an 61 tỉnh và thành phố, tính đến hết tháng 8/2002 cả nước đã phát hiện 147 vụ vi phạm thuế GTGT với tổng số tiền bị chiếm đoạt khoảng 480 tỷ đồng. Hiện cơ quan chức năng đã khởi tố 46 vụ, xử lý hành chính 25 vụ và đang điều tra 76 vụ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là số vụ vi phạm bị phát hiện, trên thực tế chắc chắn sẽ có nhiều tội phạm về thuế "lọt lưới". Nhưng dầu sao vài con số trên cũng cho thấy tính chất nguy hiểm, hậu quả nặng nề từ những vi phạm về thuế GTGT gây ra cho ngân sách và sự phát triển của kinh tế Nhà nước. Vấn đề này không chỉ làm vẩn đục nền kinh tế mà còn làm thiệt hại không nhỏ đến lợi ích quốc gia. Những gian lận này đều có thủ đoạn giống nhau, chỉ khác nhau ở mức độ tinh vi khi thực hiện, cụ thể như sau: _ Trước hết, đó là những thủ đoạn gian lận cơ bản như: + Mua từ chợ đen hoá đơn GTGT giả mẫu của Bộ Tài Chính phát hành hoặc hoá đơn thật để ghi chép nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế hoặc đòi được hoàn thuế. + Ghi chép không trung thực giữa các liên trong cùng một số hóa đơn (liên giao cho khách hàng thì ghi đúng thực tế mua bán, còn liên lưu để tính thuế thì ghi rất thấp về doanh số và mức thuế đầu ra). + áp dụng sai thuế suất với hàng hóa, dịch vụ; ’’nhầm” hàng hóa không chịu thuế với hàng có chịu thuế, nhất là khi vận dụng thuế suất 0%... _ Bên cạnh đó, các thủ đoạn còn tiến hành ở trình độ hạch toán kế toán cao hơn như: + Doanh nghiệp tiến hành phân bổ thuế GTGT đầu vào không đúng với quy định, làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Không ít doanh nghiệp tư nhân đưa thuế GTGT của tài sản, thiết bị không dùng trong sản xuất mà phục vụ cho sinh hoạt cá nhân, gia đình (như ô tô, xe máy, đồ dùng gia đình) vào số thuế yêu cầu được khấu trừ trong sản xuất kinh doanh. + Việc gian lận trong mua bán hàng cũng tinh vi hơn. Một doanh nghiệp sau khi đã bán hàng và giao hàng cho người mua, tiến hành ghi vào sổ toàn bộ số hàng hóa đã bán bị trả lại (thực tế là đã bán), rồi tiến hành mua ngoài (không hoá đơn) với giá thấp hơn với số lượng phù hợp với số lượng hàng hóa trả lại. Như vậy, doanh nghiệp đã chiếm dụng được số thuế đáng ra phải nộp Nhà nước. Đây cũng là một cách khá phổ biến hiện nay trong các doanh nghiệp thương mại. + Một số gian lận khác, như: gian lận khi lập bảng kê mua hàng nông sản, thuỷ hải sản, lâm sản của nông dân để xuất khẩu nhằm được khấu trừ khống thuế; móc nối giữa các doanh nghiệp xuất khẩu với đơn vị chế biến hoặc mua gom hàng xuất khẩu để làm hoá đơn giúp nhau được khấu trừ thuế mặc dù thực tế không hề mua bán với nhau. Hiện tượng này nảy sinh xuất phát từ quy định trong luật thuế: doanh nghiệp mua hàng hoá trong nước để cho hoạt động xuất khẩu, nhưng không có hoá đơn khi mua hàng thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Nhưng nếu doanh nghiệp mua hàng của một doanh nghiệp khác để xuất khẩu, có hoá khi mua thì lại được khấu trừ thuế GTGT đầu vào… Trên đây, mới chỉ là những sai sót phổ biến hay xảy ra, trong thực tế thì còn rất nhiều thủ đoạn khác nhau mà chúng ta chưa hề biết đến. Trên thực tế, những trường hợp có sự tiếp tay đắc lực của các nhân viên thuế, nhân viên hải quan biến chất thì dù chính sách có chặt chẽ đến đâu cũng không thể ngăn cản được. Những trường hợp gian lận do có sự thông đồng giữa người mua và người bán, cơ quan thuế cũng có thể dễ dàng phát hiện thông qua đối chiếu hoá đơn. Tuy nhiên, trường hợp dễ thực hiện nhất, khó kiểm tra nhất là lại là hiện tượng doanh nghiệp lập bảng kê mua hàng theo giá cao để được khấu trừ lớn hơn số thực tế. Cơ quan thuế sẽ rất khó khăn để kiểm tra khi kẻ mua, người bán thậm chí ở hai đầu đất nước. Phần III: Một số kiến nghị hoàn thiện công tác kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp thương mại và công tác quản lý thuế của Nhà nước tại Việt Nam Luật thuế GTGT, sau hơn 3 năm đi vào cuộc sống, đã tạo ra bước chuyển biến đáng kể trong hoạt động kinh tế ở các doanh nghiệp. Nó thật sự giải quyết nhiều khó khăn về vốn, khuyến khích đầu tư, XNK. Tuy nhiên, để luật thuế thực sự hoàn thiện thì có lẽ còn cần rất nhiều những điều chỉnh mới, những điều chỉnh phải xuất phát từ thực tế hiện nay và giải quyết được những vướng mắc còn đang tồn tại. Xuất phát từ những tồn tại đã nêu ra ở trên, em xin đề xuất một số kiến nghị sau: 1. Đối với công tác kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp thương mại. 1.1. Về hoá đơn, chứng từ kế toán _ Đối với chiết khấu thương mại, để phản ánh được nội dung này trong hoạt động bán hàng, thì cần phải được thể hiện trên hoá đơn khi tiến hành giao dịch mua bán. Do đó, nên bổ sung dòng ”Trừ chiết khấu thương mại” dưới dòng cộng tiền hàng và trước dòng tính thuế GTGT. Việc bổ sung như vậy vừa giảm được số lượng chứng từ phải lập vừa phản ánh được đầy đủ nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. _ Đối với các nghiệp vụ chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại cũng nên xây dựng các hóa đơn: Hoá đơn hàng bán trả lại, Hoá đơn chiết khấu thanh toán, Hoá đơn giảm giá hàng bán và những hóa đơn này cũng phải được xếp vào hệ thống chứng từ bắt buộc bởi nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân độc lập. Đặc biệt, với hoá đơn hàng bán trả lại còn có thể giúp cơ quan thuế kiểm tra được các hành vi gian lận khi sử dụng nghiệp vụ hàng bán bị trả lại như đã nêu ở trên. _ Đối với hàng nhận uỷ thác nhập khẩu, để vừa đảm bảo phản ánh đúng nội dung nghiệp vụ kinh tế vừa có thể giảm bớt số hoá đơn phải ghi, nên bổ sung thêm hoá đơn ”Phiếu xuất kho hàng nhận uỷ thác”, trên đó phải phản ánh được các nội dung sau: + Gía trị hàng nhận uỷ thác + Phí uỷ thác + Số tiền nhận đặt trước + Số tiền thừa trả lại + Số tiền thiếu còn phải thu Hoá đơn này do đơn vị nhận uỷ thác lập khi trả lại hàng cho bên giao uỷ thác. Kế toán sẽ căn cứ vào đây lập phiếu thu, phiếu chi tiền mặt. 1.2. Về tài khoản và phương pháp kế toán _ Tài khoản 133 đổi tên lại thành ”Thuế GTGT đầu vào” và được chi tiết thành 2 tài khoản cấp 2: 1331 ”Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ” 1332 ”Thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ” Trong kì, thuế GTGT được khấu trừ hạch toán vào TK 1331, còn thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ hạch toán vào TK 1332. Cuối kỳ, khi tiến hành phân bổ, kế toán ghi Nợ TK 1331: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Nợ TK 632,641,642: Thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ Có TK 1332: Thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ Bên Nợ của TK 1331 cuối kì lúc này là toàn bộ số thuế GTGT được khấu trừ chờ kết chuyển. _ Đổi tên tài khoản 33312 thành ”Thuế GTGT phải nộp” Trong kì, toàn bộ số thuế GTGT đầu ra hạch toán vào TK 33311, riêng thuế GTGT hàng xuất khẩu hạch toán vào TK33312(vì đây chắc chắn là số phải nộp) Cuối kỳ, khi tính ra số thuế phải nộp, kế toán ghi: Nợ TK 33311: Số thuế GTGT đầu ra còn lại Có TK 1331:Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Có TK 33312:Số thuế phải nộp ngân sách nhà nước Nếu được miễn giảm thuế, kế toán ghi: Nợ TK 33312 Có TK 711 _ Với doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp, theo em nên thay đổi cách tính GTGT như sau: GTGT = Doanh số của hàng hóa, dịch vụ (đã loại bỏ thuế GTGT đầu ra) – Gía vốn của hàng hoá, dịch vụ mua vào (đã loại bỏ thuế GTGT đầu vào 2. Đối với cơ chế tài chính và công tác quản lý của Nhà nước. Để hạn chế những gian lận đang xảy ra, theo em, về phía Nhà nước cần tiến hành một số biện pháp sau: _ Điều chỉnh lại cơ chế tài chính, thay đổi những điểm còn tạo ra kẽ hở trong luật thuế + Việc áp dụng hai phương pháp tính thuế khác nhau đã tạo ra kẽ hở cho doanh nghiệp ẩn lậu thuế. Về lâu dài cần nhanh chóng hoàn thiện để tiến đến áp dụng duy nhất một phương pháp tính thuế. Trước mắt, nên mở rộng đối tượng hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, thu hẹp đối tượng hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, đồng thời phân loại chuyển các hộ kinh doanh này sang phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Trước tiên là áp dụng với hộ kinh doanh có doanh số lớn, địa điểm cố định và có nhiều hàng hoá dịch với các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn GTGT. + Nhà nước nên cho phép khấu trừ khống với trường hợp hàng hoá mua vào không có hoá đơn làm nguyên liệu để sản xuất hàng hoá dùng cho xuất khẩu, để tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, không tạo ra kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng được khấu trừ thuế. + Thay đổi cách xác định tỷ lệ phân bổ thuế GTGT đầu vào, để xây dựng được tỷ lệ hợp lý hơn, không tạo ra sự biến động qua mức của thuế GTGT đầu vào được khấu trừ _ Một số biện pháp trong công tác quản lý của Nhà nước + Việc gian lận thuế một phần do ý thức của người tiêu dùng không chú ý đến vấn đề lấy hoá đơn khi mua hàng. Do đó, để khuyến khích người dân lấy hoá đơn khi mua, Nhà nước có thể tiến hành hình thức trợ giá cho người dân thông qua việc hoàn lại một phần nhỏ số thuế GTGT trong tổng số thuế trên những hóa đơn mà họ mua hàng. Điều này có thể đánh vào tâm lý người tiêu dùng, vì nếu họ không được gì thì họ cũng không quan tâm đến việc có lấy hoá đơn hay không, nhưng nếu việc lấy hóa đơn lại thu thêm được một chút lợi ích thì chắc chắn họ sẽ không bỏ. Khi đó sẽ hạn chế được phần nào gian lận của các doanh nghiệp. + Để đảm bảo không xảy ra hiện tượng ghi giá trong hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế, Nhà nước nên quy định các doanh nghiệp thương mại bán hàng hoá có giá trị lớn cần niêm yết bảng giá công khai với khách hàng, cuối kỳ, khi nộp thuế, cần nộp kèm bảng giá và ghi rõ từng thời điểm biến động giá. Như vậy, doanh nghiệp không thể có chuyện ghi gia thấp rồi bán giá cao,điều này sẽ làm doanh nghiệp mất uy tín với khách hàng hoặc ghi giá cao, rồi bán giá quá thấp, gây ra sụt giảm doanh thu lớn, tạo điều kiện gian lận thuế GTGT đầu vào. + Cơ quan thuế có thể áp dụng phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán với các hoá đơn mua hàng hoá đầu vào có giá trị lớn để chọn ra những hoá đơn có khả năng vi phạm cao, rồi tiến hành kiểm tra. Bởi vì, một hoá đơn dạng này, nếu vi phạm sẽ có mức thuế GTGT đầu vào được khấu trừ khống lớn hơn rất nhiều so với những hoá đơn có giá trị nhỏ. + Để hạn chế tình trạng mua hàng hoá không rõ xuất xứ, lập bảng kê gian lận thuế, Nhà nước cần lập các Cục thu mua ở từng địa phương. Điều này vừa hạn chế tình trạng gian thương ép giá của nông dân, vừa có thể giúp Cơ quan thuế dễ dàng kiểm tra xuất xứ hàng hóa bằng cách sau: Tổng cục thuế quy định mã số cho từng Cục thu mua. Khi khách hàng mua hàng, nhân viên cục thu mua nhập số liệu khách hàng gồm: mã vùng nơi khách hàng đặt trụ sở, mã khách hàng, khối lượng hàng mua, ngày mua…Khi cần kiểm tra, cơ quan thuế ở địa phương, nơi doanh nghiệp nộp thuế, sẽ thông qua mạng internet và các chương trình tin học ứng dụng để kiểm tra số liệu tại từng cục thu mua theo số liệu khách hàng cung cấp thông qua bảng kê mua hàng. Như vậy, việc kiểm tra sẽ dễ dàng hơn và cũng dễ phát hiện ra gian lận sai sót hơn. + Nhà nước nên khuyến khích việc giao dịch qua ngân hàng, bởi khi người mua, người bán có tài khoản và tiến hành giao dịch qua ngân hàng, cơ quan thuế sẽ dễ dàng kiểm tra số tiền khách hàng thanh toán, hoặc số tiền chi ra mua hàng hoá đầu vào qua các giấy báo nợ, giấy báo có của ngân hàng kết hợp đối chiếu số liệu tại ngân hàng. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn trong việc ghi giá thấp khi bán, ghi giá cao khi mua, vì lúc này còn có cả bên thứ ba tham gia xác nhận, đó là ngân hàng, từ đó có thể hạn chế phần nào gian lận thuế như hiện nay. Kết luận Trong giai đoạn hiện nay, thuế GTGT và công tác kế toán thuế GTGT đang là vấn đề rất được quan tâm ở nước ta. Đặc biệt, trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, việc xây dựng một chế độ kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế là rất cần thiết. Chính vì vậy, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thêm về công tác kế toán thuế GTGT, đưa ra được những ý kiến để phần nào đóng góp cho việc hoàn thiện công tác kế toán nói chung, công tác kế toán thuế GTGTnói riêng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf70097_8106.pdf
Luận văn liên quan