Luận văn Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam

Nêu được tình hình chung của xuất khẩu nông sản, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, thủy sản, cao su, Qua đó thể hiện được tốc độ tăng trưởng, kim ngạch xuất nhập khẩu. Ngoài ra các nước nhập khẩu nhiều hàng nông sản của nước ta cũng được nói tới như Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, EU, Thuận lợi, khó khăn là điều không thể tránh khỏi để rồi từ đó có thể đưa ra các giải pháp tối ưu nhất cho từng mặt hàng, từng quốc gia nhập khẩu nông sản của nước ta.

doc30 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 12457 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Sự thay đổi đó thể hiện rất rõ ở kết quả xuất khẩu nông sản cuả Việt Nam năm 2008, 2009, 2010, 2011 và 10 tháng đầu năm 2012. Trong những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản đã có những chuyển biếm tích cực như sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất khẩu hàng húa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Trong số các nước ở Châu Á như Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta sang các nước đó cũng đó thay đổi theo hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sản xuất nông nghiệp trong năm 2008 gặp không ít khó khăn về thời tiết, dịch bệnh cũng như điều kiện thị trường. Đầu năm là những đợt rét chưa từng có trong vòng nhiều thập kỷ qua đã ảnh hưởng lớn không chỉ đến cây trồng, vật nuôi mà cả đến đời sống của người nông dân. Tiếp đó là thiên tai bão lụt mà tiêu biểu đợt mưa ngập ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, gây thiệt hại lớn về mùa màng và nuôi trồng thủy sản, v.v… Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ giữa năm 2008 đã tạo nên những cơn bão giá (giá xăng dầu thế giới tăng đã làm cho hàng loạt các vật tư nhập khẩu đầu vào của nông nghiệp tăng mạnh) làm tăng chi phí của người sản xuất tăng vào những tháng giữa năm. Đặc biệt, những tháng cuối năm điều kiện thị trường của nông sản đã biến động bất lợi cho ngành nông nghiệp: xuất khẩu khó khăn, nông sản khó tiêu thụ, v.v… Xuất khẩu thủy sản trong các tháng cuối năm giảm mạnh, đi ngược lại xu thế chung trong những năm trước đây và sẽ còn tiếp tục trong năm tới. Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một năm đầy những yếu tố bất thường đối với ngành: kể cả thuận lợi cũng như khó khăn. Mặc dù vậy, ngành nông nghiệp vẫn đạt được những thành tựu nhất định. Sản lượng lương thực tăng mạnh (7,5% so với năm 2007), kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt hơn 2,8 tỷ USD, cà phê – hơn 2 tỷ USD. Xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt ngưỡng 4 tỷ USD. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 có những thuận lợi: Chính phủ triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ lãi suất để kích cầu và tăng cường đầu tư cho sản xuất, thời tiết về cơ bản thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và khai thác thuỷ sản, dịch bệnh diễn ra ở qui mô nhỏ,... Tuy nhiên, năm 2009 sản xuất cũng gặp nhiều khó khăn: mưa lũ lớn trên diện rộng cuối năm 2008 đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất cây vụ đông, khu vực Tây Nguyên quí I bị hạn, thiếu nước, mưa bão trong quý III ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, giá cả nhiều nông sản giảm mạnh từ cuối năm 2008, giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao, thị trường xuất khẩu một số sản phẩm khó khăn,... Do vậy, kết quả sản xuất năm 2009 vẫn tăng so với cùng kỳ nhưng ở mức tăng thấp so với những năm trước. Sản lượng lương thực có hạt đạt 43,33 triệu tấn tăng 24 ngàn tấn so với năm ngoái (tương đương 0,1%), trong đó sản lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 116 ngàn tấn (tương đương 0,4%), sản lượng ngô giảm khoảng 3,1% (tương đương 141 ngàn tấn) đạt mức 4,4 triệu tấn. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu gạo của năm 2009 đạt mức cao nhất từ trước đến này: ước đạt 5,8 triệu tấn với trị giá kim ngạch 2,6 tỉ USD, so cùng kỳ năm trước tang 22,67% về lượng, nhưng giảm 10,34% về giá trị. Xuất khẩu nông lâm thủy sản tuy không đạt được mức của năm ngoái do tác động của khủng hoảng kinh tế và giảm giá thế giới nhưng cũng vượt mức đề ra (kế hoạch của ngành là 12 triệu USD và chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao là 14 tỷ USD). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 12/2009 ước đạt trên 1,3 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2009 ước đạt 15,34 tỷ USD, giảm 6,91% so cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, ước đạt 7,8 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước giảm 10,88%, thuỷ sản ước đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,73% so cùng kỳ, lâm sản ước đạt 2,74 tỷ USD, giảm 10,94% so cùng kỳ. Năm 2010 diễn biến thời tiết không mấy thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: vụ đông xuân thiếu nước trên phạm vi rộng; nắng nóng kéo dài đầu vụ hè thu và vụ mùa; mưa, bão ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng lúa hè thu và lúa mùa ở các tỉnh miền Trung và Bắc Trung Bộ; dịch bệnh cây trồng, vật nuôi lan rộng ở nhiều địa phương, nhất là bệnh rầy nâu trên cây lúa và dịch bệnh tai xanh trên lợn. Tuy nhiên, nhờ có các chính sách và biện pháp cụ thể kịp thời kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2010 đạt khá so với năm trước. Năm 2011 giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2011 ước xấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 27,9% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, các mặt hàng nông sản chính có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nhóm hàng này, ước đạt 13,7 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 33,2%; thuỷ sản ước đạt 6,1 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ; lâm sản chính ước đạt 4,1 tỷ USD (trong đó gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,9 tỷ USD), tăng 12,7% so cùng kỳ năm 2010. Năm 2012 tính đến tháng 10 thì xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 10 ước đạt 2,25 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính 10 tháng đầu năm ước đạt 12,2 tỷ USD, tăng 7,7%; thuỷ sản ước đạt 5 tỷ USD, tăng 1,7%; lâm sản chính ước đạt gần 4 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản chính 10 tháng đầu năm có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, ngoại trừ mặt hàng gạo và cao su. Giá trị nhập khẩu các đầu vào cho sản xuất nông lâm sản 10 tháng đầu năm 2012 ước đạt 13,76 tỷ USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2011. Như vậy, xuất siêu ngành Nông nghiệp 10 tháng đầu năm ước đạt 8,74 tỷ USD. Thực trạng xuất khẩu một số nông sản chính Hoạt động xuất khẩu gạo Trong tháng xuất khẩu 436 nghìn tấn, tăng 51,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch năm. Giá bình quân xuất khẩu gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007. Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là 2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng 88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,… Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á đạt 3,21 triệu tấn, tăng 19,9% so với năm 2008 và chiếm 53,8% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu với 1,71 triệu tấn, tăng nhẹ 0,9%; các nước còn lại 1,5 triệu tấn, tăng 52,6%). Tiếp theo là Châu Phi: 1,67 triệu tấn, tăng 41,7%; Châu Mỹ: 497 nghìn tấn, giảm 9,2% so với năm trước… Philippin là đối tác dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2009 với 1,48 triệu tấn, giảm 13,6% so với năm trước; tiếp theo là các thị trường: Singapore đạt 539 nghìn tấn, tăng 64,7%; Cuba đạt 472 nghìn tấn, tăng 5%. Mặc dù, xuất khẩu gạo giảm ở thị trường lớn nhất Philippin, nhưng tăng mạnh ở một số thị trường mới nổi như thị trường Inđônêxia đạt 687 nghìn tấn (năm 2009 chỉ là 17,8 nghìn tấn); Bănglađét đạt 359 nghìn tấn (năm 2009 là hơn 5 nghìn tấn);… Năm 2011 thì mặt hang gạo vẫn là một mặt hàng nông sản chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của nước ta (chiếm 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản). Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy năm 2011 lượng gạo xuất khẩu đạt 7,1 triệu tấn và trị giá đạt 3,66 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 3,3% về lượng và tuy nhiên tăng khá 12,6% về trị giá so với năm trước. Năm 2012 lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 9 năm nay là 673 nghìn tấn, giảm 17,4%, trị giá đạt 303 triệu USD, giảm 17% so với tháng trước. Như vậy, tính đến hết quý III/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,23 triệu tấn, tăng 5% và trị giá đạt 2,82 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Trong 3 quý qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,71 triệu tấn, tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp theo là Philippin: 1,04 triệu tấn, tăng 13,1%; Malaixia: 542 nghìn tấn, tăng 36,1%; Bờ Biển Ngà: 465 nghìn tấn, tăng 65,7%; Inđônêxia: 325 nghìn tấn, giảm 72,5% và Ghana: 263 nghìn tấn, tăng gấp hơn 2 lần;... Hoạt động xuất khẩu thủy sản Theo Tổng cục Hải Quan, xuất khẩu thuỷ sản 11 tháng đạt 4,2 tỷ USD với khối lượng xuất khẩu 1,15 triệu tấn, tăng 22,06% về giá trị và 33,60% về khối lượng. Do những bất ổn trong tình hình kinh tế thế giới nên xuất khẩu thuỷ sản tháng 12 chỉ ước đạt 300 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thuỷ sản cả năm là 4,5 tỷ, tăng 19,64% so với năm 2007 và vượt kế hoạch 5,92%. Năm 2008 là năm thành công của cá tra, basa. Thời điểm đầu năm, giá xuất khẩu xuống thấp, các doanh nghiệp thiếu vốn thu mua cá khiến hàng ngàn tấn cá nguyên liệu tồn đọng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, gây tâm lý lo ngại cho bà con nuôi cá tra, basa. Nhưng sau một thời gian ngắn, nhờ đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước Đông Âu, EU và mở rộng thị trường sang các nước vùng Trung Đông, nên mặt hàng cá tra, basa vẫn duy trì mức độ tăng trưởng cao. Sau 11 tháng đã xuất khẩu được 584,7 ngàn tấn cá tra, basa đạt giá trị 1,33 tỷ USD, tăng 66,65% về khối lượng và 48,84% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007. Các thị trường xuất khẩu cá tra, basa quan trọng là Nga (171,24 triệu USD, gấp 2,22 lần so với năm 2007, chiếm 12,84% giá trị xuất khẩu cá tra, basa). Nếu năm 2007 U-cơ-rai-na là nước nhập khẩu cá tra, basa lớn thứ bảy của Việt Nam thì đến năm nay đã vươn lên vị trí thứ hai (133,06 triệu USD, gấp 3,57 lần năm 2007, chiếm 9,98%). Tây Ban Nha từ thị trường tiêu thụ cá tra, basa đứng đầu trong năm 2007, đã tụt xuống vị trí thứ ba, nhưng vẫn tăng trưởng cả về khối lượng (42,22 ngàn tấn, tăng 28,87% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị (111,34 triệu USD, tăng 20,54%). Các nước khác trong khối EU cũng là những khách hàng tiêu thụ cá tra, basa quan trọng của Việt Nam như Đức (99,24 triệu USD, chiếm 7,44%), Hà Lan (85,39 triệu USD, chiếm 6,4%), Ba Lan (78,12 triệu USD, chiếm 5,86%, nhưng giá trị xuất khẩu năm 2008 sang thị trường này lại có sự sụt giảm 6,55% so với cùng kỳ năm 2007),… Một thị trường khá mới nữa là A-rập Xê-út đã trở thành thị trường tiềm năng, từ vị trí thứ 76 năm 2007 (83,62 ngàn USD), đã vươn lên vị trí 14 (22,93 triệu USD). Mặt hàng tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu số một. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm cũng đang gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính. Người tiêu dùng các nước phát triển phải cắt giảm chi tiêu, các mặt hàng tôm đắt đỏ trước đây đã dần được thay thế bằng các loại thuỷ sản khác rẻ tiền hơn, dẫn đến giá tôm xuất khẩu bị sụt giảm. Sức tiêu thụ của thị trường tôm truyền thống của Việt Nam như Nhật, Mỹ, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, đã giảm sút. Mặc dù vậy, xuất khẩu tôm năm 2008 vẫn có sự tăng trưởng cả về khối lượng và giá trị, nhưng khối lượng tăng nhanh hơn giá trị. Xuất khẩu tôm 11 tháng năm 2008 đạt 176,29 ngàn tấn (tăng 20,37% so với cùng kỳ năm 2007) với giá trị gần 1,5 tỷ USD (tăng 8,98%). Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ tôm hàng đầu của Việt Nam, với khối lượng xuất khẩu là 53,92 ngàn tấn (chiếm 30,59% khối lượng tôm xuất khẩu, tăng 4,96%) tương ứng với giá trị 460,47 triệu USD (chiếm 30,70% giá trị xuất khẩu tôm, tăng 2,59%). Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ hai là Mỹ với 42,97 ngàn tấn (chiếm 24,37%, tăng 18,36%) nhưng giá trị lại giảm chỉ đạt 430,44 triệu USD (chiếm 28,70%, giảm 1,18%). Thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ ba là EU có sự tăng trưởng khả quan hơn với khối lượng 30,44 ngàn tấn (chiếm 17,27%, tăng 53,91%) và giá trị 218,42 triệu USD (chiếm 14,56%, tăng 49,75%). Mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính khiến tình hình tiêu thụ thủy sản cuối năm tại các nước EU bị chững lại, nhưng trong tương lai đây vẫn là thị trường tiềm năng của mặt hàng tôm Việt Nam. Thị trường Hàn quốc vẫn có sự tăng trưởng về khối lượng tôm xuất khẩu nhưng giá trị chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2007 với khối lượng 11 ngàn tấn và giá trị 76,83 triệu USD (tăng 17,37% khối lượng, tăng 3,21% giá trị), trong khi đó thị trường ASEAN giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2007 với khối lượng 2,9 ngàn tấn và giá trị 22,42 triệu USD (giảm 14,45% khối lượng và 32,01% giá trị). Mặt hàng mực, bạch tuộc thu về giá trị ngoại tệ lớn thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản đạt 294 triệu USD (chiếm 7,01% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản), có tăng nhẹ về khối lượng (tăng 7,09%) nhưng giá bán có phần khá hơn năm 2007 (tăng 13,95%). Thị trường tiêu thụ mặt hàng này lớn nhất là EU (chiếm 32,64% giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc đông lạnh), tăng trưởng khá cả về khối lượng (26,87 ngàn tấn, tăng 22,44%) và giá trị (96,17 triệu USD, tăng 32,97%) so với năm 2007. Nhật (chiếm 31,07%) là thị trường tiêu thụ mực, bạch tuộc lớn thứ hai lại có sự suy giảm so với năm 2007, với khối lượng 17,13 ngàn tấn (giảm 4,51%) và giá trị (giảm 1,76%). Ngoài cá tra, basa, các mặt hàng cá đông lạnh khác cũng tăng trưởng khả quan với tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh hơn khối lượng, các thị trường tiêu thụ cá chủ lực là các nước EU, Nhật và Mỹ. Các mặt hàng chế biến, mặt hàng giá trị gia tăng cũng ghi nhận những kết quả khá, nhóm hàng tôm chế biến (chiếm 5,19% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản) đạt 218,18 triệu USD (tăng 79,02% so với cùng kỳ năm 2007), nhóm hàng cá chế biến (chiếm 11,99%) đạt 159,8 triệu USD (tăng 122,29%). Về thị trường xuất khẩu, nhóm các nước EU tiếp tục là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao với khối lượng 326,17 ngàn tấn (chiếm 28,34% tổng khối lượng xuất khẩu thuỷ sản, tăng 27,51% so với cùng kỳ năm 2007) và giá trị 1,06 tỷ USD (chiếm 25,35% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản, tăng 27,98%). Thị trường lớn thứ hai là Nhật có tốc độ tang trưởng đều đặn về khối lượng và giá trị, còn thị trường Mỹ lớn thứ ba chỉ tăng nhẹ. Nhờ mặt hàng cá tra, basa mà thị trường các nước châu Âu (405,28 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 2007) và châu Phi (81,26 triệu USD, gấp 2,82 lần) cũng ghi nhận những kết quả đáng ngạc nhiên. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 12 năm 2009 đạt 330 triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản 12 tháng lên 4,21 tỷ USD, đạt 93,27% kế hoạch năm, giảm 6,73 % so với cùng kỳ năm 2008. Nét mới trong xuất khẩu thủy sản năm 2009 là Việt Nam đã tiến hành đàm phán hiệp định với Nhật Bản về xuất nhập khẩu thủy sản. Nhiều khả năng tới đây, phía Nhật Bản sẽ giảm mức thuế nhập khẩu bằng 0% đối với các sản phẩm tôm Việt Nam. Năm 2009 hàng thủy sản của nước ta xuất khẩu đạt kim ngạch 4,25 tỷ USD, giảm 5,7% so với năm 2008 (nhưng tăng 14,2% so với năm 2007). Trong đó, tôm đạt 211 nghìn tấn với trị giá: 1,69 tỷ USD; cá Tra & cá Basa đạt 614 nghìn tấn, trị giá: 1,36 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm 2010 đạt hơn 5 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2009. Xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong năm 2010 sang EU đạt 1,2 tỷ USD, tăng 7,6%; sang Hoa Kỳ đạt 956 triệu USD, tăng 34,4%; sang Nhật Bản đạt 894 triệu USD, tăng 17,5%; sang Hàn Quốc đạt 389 triệu USD, tăng 24,2% so với năm 2009. Tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 3,44 tỷ USD, chiếm 68,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12/2011 đạt 581 triệu USD, giảm nhẹ 0,2% so với tháng 11. Tính đến hết năm 2011, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 6,11 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2010 và tăng 65,6% so với mức bình quân giai đoạn 2005 - 2009. Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn là 3 đối tác chính nhập khẩu hàng thuỷ sản trong năm 2011, cụ thể: xuất mặt hàng này sang thị trường EU đạt 1,36 tỷ USD, tăng 12,9%; sang Hoa Kỳ đạt 1,16 tỷ USD, tăng 21,3%; sang Nhật Bản đạt 1,02 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2010. Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam còn mở rộng sang các thị trường như Hàn Quốc: 490 triệu USD, tăng 26,1%; Trung Quốc: 223 triệu USD, tăng 37,3%; Braxin: 86,3 triệu USD, tăng 153,5%... Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 6/2012 đạt 524 triệu USD, giảm 4,7% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 2 quý lên 2,86 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, xuất sang Hoa Kỳ đạt 559 triệu USD, tăng 16%; sang EU là 555 triệu USD, giảm 13,9%; và sang Nhật Bản đạt 502 triệu USD, tăng 33,4%;… Hoạt động sản xuất cà phê Xuất khẩu tháng 12/2008 đạt khoảng 120 ngàn tấn với trị giá 203 triệu USD, đưa tổng lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2008 sẽ đạt 994 ngàn tấn với giá trị kim ngạch vượt ngưỡng 2 tỷ USD, giảm gần 20 % về lượng nhưng tăng 4,8% về kim ngạch. Đây là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu của nước ta. Lượng xuất khẩu cà phê cả năm 2009 là 1,18 triệu tấn, tăng 11,7% so với năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 26,6% nên trị giá chỉ là 1,73 tỷ USD, giảm 18% so với năm trước. Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2009 là Đức: 136 nghìn tấn, tăng 0,2% so với năm 2008; Bỉ: 132 nghìn tấn, tăng 49,5%; Hoa Kỳ: 128 nghìn tấn, tăng 20,4%; Italia: 96,2 nghìn tấn, tăng 11,3%;… Trái ngược với xuất khẩu gạo, mưa kéo dài làm sản lượng cà phê thu hoạch sụt giảm kéo theo tình hình xuất khẩu cà phê cũng không mấy khả quan. Khối lượng xuất khẩu năm 2010 chỉ đạt 1,1 triệu tấn và giá trị là 1,67 tỷ USD, giảm xấp xỉ 5% về lượng và 3,7% về giá trị so với năm 2009. Giá xuất khẩu trung bình xấp xỉ bằng năm 2009. Năm 2010, có sự thay đổi lớn về vị trí của các thị trường tiêu thụ lớn, thị trường tiêu thụ đứng đầu của năm 2009 là Bỉ có sự sụt giảm mạnh chỉ bằng 1/3 và tụt xuống vị trí thứ 6. Hoa Kỳ và Đức là hai thị trường tiêu thụ hàng đầu có sự tăng trưởng khá, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước. Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 12/2011 là 155,6 nghìn tấn, trị giá đạt 325 triệu USD, tăng 119,9% về lượng và tăng 116,6% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 12 tháng/2011, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt gần 1,26 triệu tấn, trị giá đạt 2,75 tỷ USD, tăng 3,2% về lượng và tăng 48,7% về trị giá so với năm 2010. Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong năm 2011 bao gồm EU: 490 nghìn tấn, tăng1,8% và chiếm 39% tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của nước ta; tiếp theo là Hoa Kỳ: 138,5 nghìn tấn, giảm 9,5%; Nhật Bản: 50,7 nghìn tấn, giảm 4,4%... so với năm 2010. Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 6/2012 là hơn 141 nghìn tấn, trị giá đạt 303 triệu USD, giảm 30,8% về lượng và giảm 29% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 6 tháng/2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước là gần 1,05 triệu tấn, trị giá là 2,2 tỷ USD, tăng 20,4% về lượng và tăng 15,2% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động xuất khẩu cao su Năm 2008 xuất khẩu hơn 72 nghìn tấn, tăng 20% so với tháng 11, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu năm 2008 là 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007. Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,… Lượng xuất khẩu trong tháng 12 năm 2009 đạt 90,4 nghìn tấn, nâng tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này cả năm đạt 731 nghìn tấn, tăng 11,1% so với năm 2008. Mặc dù vậy, do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh đến 31,1% nên kim ngạch chỉ đạt 1,23 tỷ USD, giảm 23,5% so với năm trước. Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong năm qua với 510 nghìn tấn (chiếm 69,6% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước), tăng 18,4% so với năm 2008. Tiếp theo là sang Malaixia: 30,1 nghìn tấn, tăng 43,3%; sang Hàn Quốc: 28,3 nghìn tấn, giảm 2,4%; sang Đài Loan: 25 nghìn tấn, tăng 18,1%; sang Đức: 21,4 nghìn tấn, giảm 12,4%;… Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 101 nghìn tấn với trị giá gần 393 triệu USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết năm 2010, lượng cao su xuất khẩu đạt 782 nghìn tấn, tăng 6,9% và kim ngạch đạt 2,39 tỷ USD, tăng 94,7% so với năm 2009. Năm 2010 Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của nước ta với 464 nghìn tấn, nhưng giảm 9% so với năm 2009 và chiếm 59,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Malaixia: 58,9 nghìn tấn, tăng 95,5%; Hàn Quốc: 34,7 nghìn tấn, tăng 22,4%; Đài Loan: 31,9 nghìn tấn, tăng 27,5%; Đức: 27,8 nghìn tấn, tăng 29,9%; … Tháng 12/2011, lượng cao su xuất khẩu đạt 111 nghìn tấn, trị giá 335 triệu USD, giảm 11,8% về lượng và giảm 11,1% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 12/2011, tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 817 nghìn tấn, tăng 4,4%, trị giá đạt 3,23 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2010. Trung Quốc vẫn là đối tác chính tiêu thụ cao su nhập khẩu từ nước ta trong năm 2011 với 502 nghìn tấn, tăng 8% và chiếm tới 61,4% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là các thị trường: EU: 67,1 nghìn tấn, tăng 6,2%; Malaixia: 57,8 nghìn tấn, giảm 2%; Đài Loan: 34,3 nghìn tấn, tăng 7,6%;… Tháng 6/2012, xuất khẩu nhóm hàng này là 60 nghìn tấn, trị giá 170 triệu USD, giảm 19,2% về lượng và giảm 27,5% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 6/2012, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước đạt 403 nghìn tấn, tăng 39,6% so với cùng kỳ năm trước. Và tiếp tục Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt Nam với 210 nghìn tấn, tăng 21,3% và chiếm tới 52,2% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp sau là các thị trường: Malaixia: 65 nghìn tấn, tăng gấp 3 lần; Hàn Quốc: 19 nghìn tấn, tăng 33,3%; Đài Loan: 18 nghìn tấn, tăng 50,6%;… so với cùng kỳ năm trước. Những năm gần đây, rau quả, hạt tiêu và hạt điều đang khẳng định vai trò của mình trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu của chúng ta không ngừng tăng qua các năm. Hiện nay, thị trường rau quả xuất khẩu đã được mở rộng tới gần 50 nước và vùng lãnh thổ, chủ yếu tập trung ở thị trường châu á, Tây Băc Âu và Mỹ. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM. Việt Nam là một nước có khĩ hậu nhiệt đới, gió mùa, 80% dân số sống bằng nghề nông. vì vậy hàng nông sản là loại hàng chủ lực và cần thiết của Việt Nam. Không phải chỉ một vài năm gần đây Việt Nam mới xuất khẩu nông sản mà thực tế nó đã có mặt trên thị trường thế giới hàng trăm năm nay. 1- Thị trường Nhật Bản Từ năm 1986 đến nay, lượng hàng mà Việt Nam nhập của Nhật Bản đã tăng lên 3-4 lần, trong khi đó lượng hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản lại tăng từ 13-14 lần. Sau Indonesia Việt Nam là nước đang phát triển tại châu á luôn xuất siêu sang Nhật Bản, đay là thị trường mà mặt hàng nông lâm sản chiếm lĩnh lớn nhất của nước ta. Có thể nói Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam đồng thời cũng là nước xuất khẩu lớn thứ hai sang Việt Nam. Triển vọng tăng trưởng quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam, điều này cũng sẽ quyết định lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Vì vậy Việt Nam nên tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và công nghệ của Nhật Bản vào để sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của đất nước tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2- Thị trường các nước Asean. Việt Nam gia nhập Asean là một mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hoá mối quan hệ giữ Asean Việt Nam với các nước thành viên mang đậm tính chất hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế của các nước thành viên có thể bổ sung cho nhau, đem lại sự phồn vinh cho mỗi quốc gia và cả khu vực. Cho đến nay Asean đã chiếm khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, khoảng 30 % kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam và 15% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của Asean có điều kiện mở rộng thương mại không chỉ với các nước Asean mà còn với các nước khác. tuy nhiên là một thành viên Việt Nam phải thực hiện các hiệp định thoả thuận của Asean trong đó việc tham gia vào hiệp định khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA), thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan (CFPT). Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh thương mại trong khu vực nói chung và đối vơí nông lâm sản nói riêng. Khi đó chúng ta sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn, đòi hỏi những mặt hàng nông lâm sản phải có chất lượng cao, giá rẻ. 3- Thị trường EU Thị trường EU là một thị trường giàu tiềm năng đối với hàng nông sản của VIệt Nam. Nhận định này dựa trên hai căn cứ sau đây: - Thứ nhất, tuy nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của thị trường EU chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của thị trường này, nhưng đó vẫn là một thị trường rất lớn, các số liệu thống kê đều cho thấy rằng, bên cạnh việc vẫn đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường thế giới, nhưng để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của chính mình, EU vẫn đẩy mạnh nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp. - Thứ hai, với các định hướng phát triển nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp…, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chúng ta sẽ nâng cao được chất lượng và VSATTP của sản phẩm nông nghiệp. 4- Thị trường Mỹ Trước năm 1975, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm... song kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. Ngày 3/2/1994 tổng thống Mỹ B.Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, tiếp đó bộ thương Mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z(gồm Bắc Triều Tiên, CuBa và Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế thương mại hơn (gồm các nước Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Môngcổ, Lào, Camphuchia và Việt Nam ). Bộ vận tải và bộ thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Mỹ nhưng còn hạn chế phải xin phép trước 7 ngày và thông báo tàu đến trước 3 ngày. Từ năm 1991 đến năm 1994 thì kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đã tăng đáng kể. Căn cứ vào nhu cầu thị trường Mỹ hàng sau đây có khả năng xuất khẩu sang Mỹ như cà phê, chè gia vị, hải sản chế biến, hàng may mặc... ngoài những mặt hàng nói trên Việt Nam có thế mạnh như cao su, dầu thô, thực vật, hoa quả nhiệt đới, hàng thủ công mỹ nghệ. .. đều có thể xuất sang Mỹ. 5- Thị trường liên bang Nga và các nước Đông Âu và Trung Quốc Đây là thị trường chủ yếu tiêu thụ hàng nông lâm sản của Việt nam như: Hoa quả tươi và chế biến, chè, cà phê, cao su, hàng thủ công mỹ nghệ. Nga là bạn hàng truyền thống tiêu thụ nhiều mặt hàng của Việt Nam. Nhưng vài năm gần đây thì kim ngạch buôn bán giữa nước ta và Nga đã giảm dần và hiện nay Nga là nước xuất siêu sang Việt Nam. Với sản lượng và chủng loại hàng hóa không ngừng tăng lên trong nhiều năm gần đây, hoạt động sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đã khẳng định được vị thế quan trọng đối với cả thị trường trong nước và thế giới. Với thị trường trong nước, các mặt hàng nông sản đã cung cấp đủ cho thị trường những mặt hàng thiết yếu đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi tiêu của người dân (chiếm gần 40% chi tiêu của người dân trong tổng chi tiêu), đó là nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Đối với thị trường thế giới, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch, tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trong nhiều năm trở lại đây đạt mức 22-23% năm, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm thủy sản chính ngạch năm 2010 và 2011 đã đạt 15-20 tỷ USD, chiếm 20-21% tổng kimn ngạch xuất khẩu cả nước. Một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có thị phần lớn và chiếm vị trí dẫn đầu trong các nước xuất khẩu nông sản như: gạo (đứng thứ 2 thế giới), hồ tiêu (đứng thứ nhất thế giới), hạt điều (đứng thứ 2 thế giới), cà phê (chiếm 40% thị phần). THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM. Thuận lợi. Về đất đai. Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của là 10 -11,157 triệu ha với 8 triệu hecta (ha) cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay, nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước.Việt Nam có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, hạt tiêu, cà phê. Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy nước ta vẫn có thể khai thác được vùng đồng bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp. Về khí hậu. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 mm/năm là điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển. Về vị trí địa lý và cảng khẩu. Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn. Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển Việt Nam có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt, lại gần đường hàng hải quốc tế. Về nguồn nhân lực. Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam. Sự tăng giá các mặt hàng nông sản. Cụ thể, giá gạo xuất khẩu bình quân 7 tháng đạt 485 USD/tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2009. Với diễn biến này, gạo xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm ước đạt 5 triệu tấn với kim ngạch đạt 2,4 tỷ USD, tăng 8,2% về lượng nhưng tăng tới 12,8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do diễn biến thời tiết bất thường ở nhiều nơi và giá lúa mỳ tăng cao khiến nhiều nước châu Phi chuyển sang mua gạo, làm nhu cầu gạo trên thị trường thế giới tăng. Tuy nhiên, chỉ tiêu xuất khẩu gạo đã gần đạt nên các doanh nghiệp xuất khẩu cũng không ký kết thêm nhiều hợp đồng. Khó khăn. Thị trường xuất khẩu còn nhiều thách thức. Tuy vẫn duy trì được đà tăng trưởng nhưng nhiều mặt hàng nông sản giảm mạnh về giá trị khiến thị trường nông sản Việt Nam đang có nhiều bấp bênh chưa được tháo gỡ còn người nông dân bị thiệt hại. Theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân một phần là do chúng ta đang xuất khẩu chính sang các thị trường lớn như EU, Mỹ, Trung Quốc… cùng với đó khó khăn của châu Âu vẫn tiếp diễn, nền kinh tế Mỹ lại phục hồi chậm. Vì vậy sức mua tại các thị trường trên giảm đáng kể. Trong bối cảnh hiện nay, việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản Việt Nam, còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Đầu tiên là sản xuất hàng nông sản của nước ta chủ yếu do hộ gia đình, quy mô nhỏ lẻ là phổ biến nên sẽ gặp khó khăn khi thị trường yêu cầu với số lượng lớn, chất lượng cao, bảo đảm tính đồng bộ về quy cách... Bên cạnh đó, nông sản nước ta phải đối mặt và cạnh tranh quyết liệt đối với hàng nông sản của nước ngoài trên thị trường cả trong và ngoài nước, nhất là nông sản nhập khẩu có chất lượng cao như các sản phẩm sữa, thịt bò, hoa quả... từ các nước như Úc, Nhật, Mỹ... Đồng thời, các thị trường lớn ngày càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, nên nhiều nước đã đưa ra các quy định ngày càng khắt khe đối với hàng nông, thủy sản nhập khẩu. Đặc biệt, giá trị xuất khẩu nhiều mặt hàng của Việt Nam còn thấp do chất lượng sản phẩm chưa cao, chủng loại còn đơn điệu và chủ yếu là nông sản thô hoặc mới qua sơ chế, nên giá trị gia tăng đem lại còn thấp. Lợi thế cạnh tranh về giá đang giảm dần. Bên cạnh đó, sự bất ổn ở khu vực Trung Đông, khủng hoảng nợ ở châu Âu - cũng khiến tình hình xấu đi. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, giá trị xuất khẩu nông, lâm và thủy sản tháng 1/2012 ước đạt 1,8 tỷ USD, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo của Bộ Công thương, so với cùng kỳ năm 2011, xuất khẩu đầu năm 2012 giảm mạnh về lượng, trong khi giá xuất khẩu lại giữ nguyên so với cùng kỳ, dẫn tới kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều giảm. Giảm mạnh nhất là cà phê giảm tới gần 40%, gạo giảm 53,4%, sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 42,2%. Chỉ riêng mặt hàng hạt tiêu có kim ngạch tăng trưởng tương đương tháng 1/2011 nguyên nhân là giá hạt tiêu đầu năng tăng hơn 50,6%. Giá kém, thị trường khó khăn. Cụ thể, lúa gạo đang đối mặt với việc thiếu đơn hàng trầm trọng cũng như sự cạnh tranh gay gắt về giá cả từ các nước xuất khẩu gạo khác. Trong tháng 1, giá gạo xuất khẩu giảm nhẹ so với tháng trước. Nguyên nhân chủ yếu khiến Việt Nam không ký được hợp đồng xuất khẩu gạo là do giá gạo hiện cao hơn khoảng 100 USD/tấn so với các nước xuất khẩu khác, như: Ấn Độ, Pakistan, Myanmar. Đối với mặt hàng cà phê, tháng qua đã có những biến động bất thường về giá, hồi đầu tháng sau khi tăng nhẹ, giá lại bất ngờ giảm mạnh. Mặt hàng này cũng đang phải chịu chung tình cảnh ảm đạm của tình hình kinh tế châu Âu, nên giá cà phê xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm trong thời gian tới. Ước xuất khẩu cà phê tháng 1 đạt 170.000 tấn với trị giá 350 triệu USD, giảm 20,9% về lượng và 15,3% về giá trị so với cùng kỳ. Bị EU cảnh cáo. Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, thời gian gần đây, nhiều lô hàng rau, quả của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường châu Âu bị thông báo vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật, do nhiễm vi sinh vật và một số dịch hại. Tổng vụ Sức khỏe và Người tiêu dùng của Ủy ban Châu Âu (EC) còn thông báo, kể từ ngày 15/1/2012, nếu phát hiện thêm 5 trường hợp vi phạm quy định an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật, EU sẽ cấm nhập khẩu rau, quả của Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã gửi công điện yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan tăng cường công tác kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật đối với hàng rau, quả xuất khẩu sang thị trường các nước châu Âu. Bởi nếu sự việc này tiếp diễn, không chỉ khiến rau, quả của Việt Nam không xuất khẩu được sang EU mà uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cũng đã yêu cầu chủ tịch UBND các tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau, quả để tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất rau, quả tại địa phương đáp ứng các quy định về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm của EU. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP. Giải pháp đối với hoạt động xuất khẩu a. Nâng cao nhận thức về hội nhập cho doanh nghiệp, doanh nhân Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có tới 50% doanh nghiệp chưa biết gì về các bước thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, 35% doanh nghiệp không có thông tin gì về việc Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO)... Chắc chắn tỷ lệ này đối với khu vực nông nghiệp – nông thôn lại càng “nghiêm trọng”. Điều này sẽ là một trong những trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam khi hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu. Vì vậy, cần tổ chức các lớp tập huấn, các đợt đi thực tế cũng như tuyên truyền rộng rãi hơn nữa các quan điểm, đường lối và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Phát triển thị trường, nâng cao khả năng về thông tin, tiếp thị và dự báo thị trường Đẩy mạnh quan hệ hợp tác thương mại với các nước, gắn quan hệ đối ngoại với xuất khẩu nông sản. Tiếp tục mở rộng cam kết song phương và đa phương cấp Chính phủ về xuất khẩu nông sản. Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm và tạo điều kiện để các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Việt Nam ở nước ngoài tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Đa dạng hoá thị trường, các hình thức ngoại thương và phương thức thanh toán phù hợp với điều kiện và lợi ích các bên tham gia, giảm bớt rủi ro về giá cho nguời sản xuất, kinh doanh. Tổ chức có hiệu quả việc thu thập, xử lý về thông tin thị trường trong nước và ngoài nước để cung cấp cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh; phát triển thương mại điện tử hàng hoá nông sản, dự báo chuẩn xác nhu cầu và biến động thị trường nông sản nhằm phục vụ tốt cho sản xuất và tiêu thụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến thương mại, hướng các hoạt động này gắn kết với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước như: tham gia hội chợ, triển lãm, thương mại ở nước ngoài; xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ các hoạt động xúc tiến thương mại; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu nông sản. Đối với những mặt hàng mà ta giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế ( như gạo, cà phê, hạt tiêu...), tăng cường áp dụng các biện pháp thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể... để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi cho ta. Ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội trợ triển lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường. Thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam Đây là một trong những giải pháp hết sức cần thiết khi hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Hơn nữa, thực tế xảy ra cho thấy không thể đi vào thị trường thế giới hiệu quả nếu không đầu tư xây dựng thương hiệu. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Hiệp hội ngành nghề, các địa phương có sản phẩm đặc sản và doanh nghiệp để có bước đi phù hợp cho từng loại sản phẩm. Mỗi sản phẩm chỉ nên xây dựng một hoặc hai thương hiệu, theo hướng xây dựng thương hiệu mang tầm quốc gia, tránh tình trạng chạy đua tràn lan, gây mất uy tín sản phẩm. Nhà nước nên có chính sách đầu tư, hỗ trợ cho một số doanh nghiệp triển vọng, đã và đang có chỗ đứng nhất định trên thị trường xây dựng, củng cố và mở rộng thương hiệu ra các thị trường tiềm năng. Tiếp tục cho thành lập các Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng Thị trường nông sản hàng hoá thường gặp rủi ro, ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân và doanh nghiệp. Ngoài các chính sách tài trợ hiện hành thì Nhà nước khuyến khích lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. Các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn: gạo, cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, rau quả được lập quỹ này. Quỹ ngành hàng nào thì sử dụng để bảo hiểm ngành hàng đó. Các nhà sản xuất, kinh doanh từng ngành hàng lập ra hiệp hội của mình để quản lý việc thu chi Quỹ này theo cơ chế tài chính. Nhà nước cần tài trợ cho quỹ bảo hiểm đối với một số ngành hàng đặc biệt. Đào tạo nguồn nhân lực, trang bị kiến thức về hội nhập và xuất khẩu cho hệ thống cán bộ, doanh nghiệp, thương nhân xuất khẩu nông sản Con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công mọi đường lối, chủ trương, chính sách. Nguồn lao động trẻ được giáo dục, đào tạo tốt, đức tính cần cù, trí thông minh..., đó là lợi thế so sánh rất quan trọng của nước ta. Do vậy, cần coi trọng, phát huy nhân tố con người để bảo đảm hội nhập thành công, góp phần thúc đẩy xuất khẩu nông sản. Cần trang bị một cách đầy đủ những kiên thức về hội nhập, về thương mại quốc tế cho lực lượng cán bộ quản lý xuất khẩu, doanh nghiệp, doanh nhân tham gia xuất khẩu nông sản. Đây là yếu tố quyết định thành công của xuất khẩu nông sản về lâu dài. Đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao kỹ thuật, tay nghề, kỷ luật lao động cho công nhân sản xuất hàng nông sản xuất khẩu. Đảm bảo đủ số lượng và chất lượng các loại công nhân khi cần thiết. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học về giống, kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến nông cũng như nông dân để áp dụng thành công các tiến bộ kỹ thuật và sản xuất. Một số giải pháp cụ thể cho xuất khẩu hàng nông sản chủ lực Bên cạnh những giải pháp tổng hợp trên, cần thực hiện đồng thời một số giải pháp cụ thể cho từng mặt hàng nông sản xuất khẩu như sau: Gạo: Về sản xuất: Khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước. Về chế biến vận chuyển: Đây là khâu rất yếu hiện nay, cần tập trung giải quyết theo các hướng: xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo sản xuất tại các vúng sản xuất lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch; đồng thời nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở có thể tăng năng lực chế biến và tăng chất lượng gạo xuất khẩu. Về tổ chức thu mua hàng hoá: Để hạn chế tiến tới khắc phục tình trạng tư thương thao túng thị trường, ép cấp, ép giá đối với nông dân, Nhà nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gắn với chính quyền địa phương trong từng vùng quy hoạch. Về thị trường: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Từ 1999, chính phủ bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo là biện pháp tích cực, nhưng biện pháp này chưa đủ. Để tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần có nhiều giải pháp đồng bộ, một mặt tăng năng xuất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mặt khác mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường... Thuỷ sản: Về sản xuất: Nguyên liệu cho ngành chế biến thuỷ sản đang là vấn đề hết sức bức xúc và phải được giải quyết từ gốc. Đó là hỗ trợ vốn cho ngư dân và xây dựng các đội tàu đánh cá xa bờ có hệ thống máy móc làm lạnh và bảo quản hiện đại; đẩy mạnh nuôn trồng thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Về chế biến: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản có thể tăng hơn nhiều nếu tăng hàm lượng chế biến của các sản phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần theo sát nhu cầu thị trường để hiện đại hoá công nghệ. Về cơ chế: Vấn đề lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản là thiếu vốn. Có đến 80% doanh nghiệp của ngành chế biến thuỷ sản là doanh nghiệp nhà nước nên giải pháp tối ưu và lâu dài là ưu tiên đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp. Cà phê: Về sản xuất: Thâm canh tăng năng xuất và duy trì môi trường sinh thái và vườn cây bền vững; đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi tiến bộ sinh học và kĩ thuật mới vào các khâu giống, chăm sóc để tăng cường chất lượng cà phê; tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối. Về chế biến: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến cà phê phải được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ngành cà phê. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm: công nghiệp chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát đánh bóng, sân phơi nhà kho... Về thị trường: Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế; tập trung khôi phục lại thị trường truyền thống cũ trước đây ở các nước SNG, Đông Âu, mở mang thị trường mới như Trung Quốc và các nước Trung Cận Đông; xây dựng cơ chế chính sách, đầu tư vốn, khoa học công nghệ và ổn định thị trường. Các giải pháp khác Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp hợp đồng phát triển Củng cố và hoàn thiện mô hình HTX, kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình; khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp. Lấy hợp tác xã làm hạt nhân cho việc ký kết hợp đồng giữa người sản xuất với chế biến nông sản. Hệ thống các loại hình doanh nghiệp và đơn vị kinh tế này là cơ sở để từng bước đưa phương thức làm ăn công nghiệp vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa. Củng cố các Hiệp hội ngành nghề, đưa hiệp hội ngành nghề phát triển, làm “bà đỡ” cho các ngành hàng trong quá trình hội nhập. Phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực nông nghiệp nông thôn Theo kinh nghiệm của các nước, việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) trong khu vực nông nghiệp – nông thôn là hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của khu vực này cũng như rút ngắn khoảng cách với khu vực thành thị. Các DNN&V chủ yếu hoạt động trong các khâu dịch vụ và công nghiệp chế biến. Ở Pháp, trong khi cả ngành nông nghiệp thuần tuý chỉ sử dụng 3% lực lượng lao động thì các ngành chế biến nông sản và thực phẩm sử dụng tới 20% GS Roland Hureaux –Nguyên cố vấn kỹ thuật tại DATAR: Sự phát triển theo vùng lãnh thổ: kinh nghiệm của nước Pháp . Tất nhiên mỗi nước có những đặc điểm riêng. Hội nghị tổng kết 1 năm chuyển đổi HTX đánh giá phong trào này là kém hiệu quả. Vậy Mô hình sản xuất nào cho nông nghiệp – nông thôn Việt Nam trong thời gian tới? Theo tác giả, về lâu dài cần có một chương trình hỗ trợ phát triển hệ thống DNN&V khu vực nông nghiệp - nông thôn thông qua sự phối hợp giữa Cục phát triển DNN&V (Bộ KH-ĐT), Bộ NN&PTNT và Hiệp hội DNN&V ngành nghề nông nghiệp nông thôn. Chỉ như vậy thì mới thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tăng cường quản lý Nhà nước về xuất khẩu nông sản Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hoá, nhằm đảm bảo sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm được thông suốt. Thực hiện hiệu quả nguyên tắc “kết hợp 4 Nhà” trong quy trình sản xuất. Cần xem xét lại việc phân công cụ thể trách nhiệm quản lý Nhà nước về tiêu thụ và xuất khẩu nông sản giữa Bộ Thương mại với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, để phát huy vai trò quản lý Nhà nước và nâng cao trách nhiệm của từng Bộ ngành và các địa phương về lĩnh vực này. Trong đó, Bộ Thương mại cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, hướng dẫn doanh nghiệp, doanh nhân tham gia thị trường quốc tế hiệu quả. Đặc biệt cần xác định được sản phẩm nào tập trung vào thị trường nào; cần phát triển thêm thị trường nào (ví dụ như thị trường Châu Phi). Bộ NN&PTNT cũng như Bộ Thuỷ sản cần xây dựng chiến lược phát triển các ngành nghề, nâng cao chất lượng hàng hoá để tạo hàng cho xuất khẩu. PHẦN III: KẾT LUẬN Qua tình hình sản xuất của nước ta và việc xác định rõ vai trò, lợi ích mà xuất khẩu nông sản đem lại là cơ sở để nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu nông sản của nước ta từ năm 2008 đến hết quý II năm nay. Có thể thấy được xuất khẩu nông sản nước ta đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản trong những năm gần đây đang đặt ra nhiều thử thách, đòi hỏi nước ta phải có chính sách, chiến lược mạnh mẽ và hiệu quả để đảm bảo không bị thua thiệt và đem lại nguồn ngoại tệ lớn. Các định nghĩa, lý thuyết về môi trường xung quanh việc xuất khẩu hàng nông sản được nêu rõ, chỉ ra được các điểm ưu, điểm yếu. Vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của xuất khẩu. Ngoài ra còn nhắc tới các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu hàng hóa. Nêu được tình hình chung của xuất khẩu nông sản, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, thủy sản, cao su,… Qua đó thể hiện được tốc độ tăng trưởng, kim ngạch xuất nhập khẩu. Ngoài ra các nước nhập khẩu nhiều hàng nông sản của nước ta cũng được nói tới như Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, EU,… Thuận lợi, khó khăn là điều không thể tránh khỏi để rồi từ đó có thể đưa ra các giải pháp tối ưu nhất cho từng mặt hàng, từng quốc gia nhập khẩu nông sản của nước ta. Tóm lại toàn bài thì qua nhưng con số, những khái niệm trên đây cho thấy tình hình xuất khẩu hàng nông sản của nước ta trong thời gian qua. Nhìn chung thì có sự tăng trưởng về tất cả các mặt hàng nhưng có một số mặt hàng bị phụ thuộc vào thời tiết nên không tránh khỏi sự sụt giảm. Qua đó cũng có thể cho thấy mặt hàng nào còn ít được quan tâm để mà có sự phát triển hợp lý.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan