Luận văn Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011

Trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức sôi động và mạnh mẽ như ngày nay thì việc giải quyết việc làm cho người lao động đang là một vấn đề cấp thiết. Xuất khẩu lao động là một xu hướng khách quan cho các nước đang phát triển mà có cơ cấu dân số trẻ như Việt Nam. Cùng với sự tăng tốc của các cường quốc mạnh và những phát minh khoa học công nghệ tiên tiến tối ưu thì ngoài việc học hỏi tiếp thu các thành tựu của nước bạn, chúng ta cần đem chính những nhân công Việt Nam sang tận các nước đó để tiếp thu những kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nước sở tại. Bởi nếu được trực tiếp quan sát, làm việc thì chúng ta sẽ nhanh chóng lĩnh hội tốt hơn. Đồng thời xuất cảnh làm cho người lao động Việt Nam có cơ hội mở rộng tầm nhìn toàn cảnh nền kinh tế thế giới, để rồi cải thiện cuộc sống người lao động, gây dựng viễn cảnh tương lai tươi sáng hơn cho chính mình và tương lai phồn thịnh của đất nước mình.

doc32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2411 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài. Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác. Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao động Việt Nam. Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu thuẫn trong lao động đều xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao động Việt Nam. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ luật và thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng chứng là rất nhiều lao động nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai nạn lao động kể từ năm 2004 trở lại đây. 2.1.3. Nguyên nhân của các hạn chế Nguyên nhân chính của những vấn đề nêu ở trên là do: người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy về tay nghề. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Lao động Việt Nam tại nước ngoài không có “người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị trục xuất về nước cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn cao ( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam. Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi xuất khẩu lao động vẫn còn. Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của Chính phủ đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất lượng, thì siết chặt quản lý, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng được đặt ra cấp thiết. Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu vào việc xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát triển những thị trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày càng bị thu hẹp. Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn có thái độ trông chờ, ỷ lại vào đối tác. Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về quản lý lao động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn, đào tạo, định hướng nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau thực tế. Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của của người lao động. Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả. 2.1.4. Chính sách hỗ trợ người tham gia xuất khẩu lao động Theo các doanh nghiệp, người lao động thuộc các huyện nghèo, người dân tộc thiểu số đi xuất khẩu lao động được Nhà nước hỗ trợ gần như 100% các chi phí liên quan theo tinh thần của quyết định 71 của Thủ tướng Chính phủ về việc “hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020”. Theo đó, người lao động được hỗ trợ 100% chi phí học nghề, học ngoại ngữ; tiền ăn và được cấp 40.000 đồng sinh hoạt phí/ngày; tiền lưu trú 200.000 đồng/người/tháng; các trang thiết bị như đồng phục, tiền tàu xe đi lại, chi phí làm hồ sơ, khám sức khỏe, làm hộ chiếu... cũng được hỗ trợ hoàn toàn. Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, bên cạnh các chi phí trên thì phí dịch vụ sẽ được vay 100% với mức lãi suất ưu đãi tại các ngân hàng chính sách xã hội ở huyện mà người lao động cư trú. Mức lãi suất ưu đãi bằng 50% mức quy định của ngân hàng (mức vay ưu đãi khoảng 0,33% - PV). Thời gian vay theo hợp đồng làm việc và trả dần đến lúc người lao động về nước khi hết hợp đồng. Lao động không phải hộ nghèo nhưng thuộc huyện nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề, học ngoại ngữ và giáo dục định hướng bằng 50% mức hỗ trợ so với các đối tượng hộ nghèo. Ngoài quyết định 71 nói trên, mới đây Thứ trưởng Bộ Lao động - thương binh và xã hội Nguyễn Thanh Hòa vừa ký ban hành văn bản về việc “hướng dẫn thực hiện dự án hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” năm 2011. Theo đó, lao động là thân nhân chủ yếu của người có công, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số... thuộc chín tỉnh nằm trong dự án (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Định và Hậu Giang) có nguyện vọng đi lao động ở nước ngoài sẽ được hỗ trợ các chi phí ban đầu. Dự án này không bao gồm người lao động thuộc 62 huyện nghèo đã được hỗ trợ theo quyết định 71, bao gồm: chi phí học nghề ngắn hạn, chi phí học ngoại ngữ, chi phí bồi dưỡng cần thiết, tiền ăn hằng ngày trong thời gian theo học và tiền đi lại. Ngoài ra, các chi phí làm hộ chiếu, visa, khám sức khỏe, làm lý lịch tư pháp cũng được hỗ trợ. Người lao động chỉ được hỗ trợ một lần cho từng nội dung hỗ trợ. Trường hợp chi phí thực tế cao hơn mức hỗ trợ, học viên sẽ đóng góp hoặc ngân sách địa phương xem xét bổ sung. 2.1.5. Các doanh nghiệp, công ty thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động như thế nào? Một thực tế đáng buồn hiện nay là nguồn lao động của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn. Có rất nhiều người lao động đang phải chờ được đi xuất khẩu lao động ở các Trung tâm hay Công ty xuất khẩu lao động không có đủ chức năng và cả ở những Trung tâm, Công ty  xuất khẩu lao động “ma”. Nguồn lao động này chủ yếu là những người nông dân đang chờ mong một cơ hội để  thay đổi cuộc sống. Tuy nhiên, niềm hy vọng đó của nhiều người đang ngày càng bị mai một bởi những chiêu thức lừa đảo quá tinh vi và bởi cả những khoản nợ chồng chất do đi vay để nộp tiền đặt cọc. Và thêm vào đó là hàng loạt các rủi ro khác như: không xuất khẩu lao động được sau một thời gian dài chờ đợi và cũng không thể lấy lại được số tiền đã đặt cọc, hoặc nếu có thì chỉ là một phần nhỏ. Thực tế cho thấy, số vụ lừa đảo không những đã tăng lên hàng năm mà diễn biến của nó cũng hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Bên cạnh việc tuyển dụng lao động bất hợp pháp của một số cán bộ chi nhánh, trung tâm thuộc một số doanh nghiệp đầu mối là sự xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng này cũng làm công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Có trường hợp đối tượng lừa đảo còn chọn vị trí ngay gần các doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu trong lĩnh vực này để hoạt động. Ngoài ra, chúng còn thông qua các trung tâm đào tạo nghề, thành lập các doanh nghiệp ở vị trí lẩn khuất, giả danh cán bộ đi tuyển sinh, đưa người lao động đi học để gây được niềm tin… Vì thế mà nhiều người sau một thời gian dài đi học, đã đóng một khoản tiền lớn cho cò mồi mới hay mình bị lừa. Hiện nay, việc đưa người lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài là một trong những hoạt động hấp dẫn khá nhiều các đối tượng tham gia. Những lợi ích trước mắt trong việc đưa người đi lao động khiến cho nhiều tổ chức tham gia vào hoạt động này. Nhưng đáng tiếc là họ không đủ khả năng. Thị trường lao động nước ngoài mặc dù đem lại cho nguồn lao động trong nước cơ hội làm việc với mức thù lao lớn hơn trong nước nhưng nó cũng có rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan. Nếu không nắm bắt rõ được các quy định của cả trong nước và nước ngoài thì quyền lợi của người lao động Việt Nam sẽ rất khó được đảm bảo. Theo quy định tại mục c khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật NLĐVNĐLVONN) năm 2006 thì doanh nghiệp dịch vụ có nghĩa vụ “Phối hợp với chính quyền địa phương thông báo công khai, cung cấp cho người lao động đầy đủ các thông tin về số lượng, tiêu chuẩn tuyển chọn và các điều kiện của Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Tuy nhiên, qua tìm hiểu từ những người lao động đã từng đi đăng ký ở một số Công ty, Trung tâm xuất khẩu lao động nước ngoài (hiện nay đã về quê vì không được đi xuất khẩu lao động) chúng tôi được biết, đa số họ chỉ thông qua một người giới thiệu nào đó để đi đến các Công ty, các Trung tâm xuất khẩu lao động đăng ký xuất khẩu lao động. Đến các Công ty hay Trung tâm này, họ cũng được yêu cầu nộp hồ sơ, đóng tiền phí và được học tiếng của nước mình sẽ đi xuất khẩu lao động. Song có một điều quan trọng mà họ không hề được biết là công ty nước ngoài nào thuê mình, vì trong hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài do các Công ty, các Trung tâm cấp cho họ, không hề ghi tên và số của hợp đồng cung ứng lao động. Mà bản hợp đồng này chỉ có giá trị làm thủ tục vay tiền ngân hàng. Họ được học trong một thời gian dài nhưng không được ký hợp đồng. Có người đã học xong tiếng để đi Hàn Quốc, nhưng lại phải chuyển qua lớp học tiếng Đài Loan, vì Trung tâm thông báo nhu cầu của bên Hàn Quốc hiện thời không có. Lúc đầu, các Công ty, Trung tâm cũng thông báo thời gian xuất cảnh đi lao động, nhưng đến hạn lại thông báo chuyển sang thời điểm khác vì nhiều lý do khác nhau. Hơn thế nữa, ngay cả đối với những trường hợp đã được xuất khẩu lao động thì quyền và lợi ích của những người lao động này cũng không được bảo đảm đầy đủ. Nhiều doanh nghiệp dịch vụ đã không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết sau khi họ đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài. Tại mục e khoản 2 Điều 27 Luật NLĐVNĐLVONN cũng đã quy định cho các doanh nghiệp dịch vụ phải có nghĩa vụ: “Phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh khi người lao động chết, bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, bị bệnh nghề nghiệp, bị xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và giải quyết tranh chấp liên quan tới người lao động”. Nhưng thực tế thì hiện tượng người lao động của Việt Nam không được bảo vệ thích đáng trong quá trình lao động còn xảy ra khá phổ biến, vì khi sang nước ngoài họ không hề liên lạc được với doanh nghiệp dịch vụ đã đưa mình đi cũng như không có tổ chức nào ở nước ngoài đứng ra bảo vệ họ. Sau một thời gian áp dụng Luật NLĐVNĐLVONN năm 2006 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007), đến nay, Luật vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi. Nhiều điều khoản trong Luật này chưa được áp dụng, thực thi nghiêm chỉnh.Và bên cạnh đó, Luật cũng còn có những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, nghĩa vụ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động. Ví dụ như Điều 27 quy định về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp dịch vụ, cần bổ sung thêm quy định về thời hạn đưa người lao động đi xuất khẩu lao động tính từ ngày doanh nghiệp nhận hồ sơ của người lao động, nhằm yêu cầu doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm đưa người lao động xuất khẩu lao động đi đúng thời gian, đảm bảo lợi ích cho người lao động. 2.2. Thị trường xuất khẩu lao động 2.2.1. Thị trường truyền thống Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện nay có khoảng 1,5 triệu lao động của nước ta đang làm việc tại các thị trường lao động ở nước ngoài như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, … Những người đi xuất khẩu lao động đã phần nào cải thiện được cuộc sống của gia đình họ và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo của đất nước Thị trường lao động Đài Loan - một thị trường được xem là hấp dẫn với lao động Việt Nam, nhưng chủ yếu họ chỉ tiếp nhận những lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và kèm theo đó là những quy định ngặt nghèo về sức khỏe. Theo đánh giá của Ủy ban lao động Đài Loan thì hiện nay lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở những ngành nghề như: điện tử, may mặc, dệt, chế tạo máy, giúp việc gia đình, thuyền viên đánh cá…(thống kê sơ bộ thì có khoảng 28 ngành nghề khác nhau). Mức lương hiện tại của lao động nước ta làm việc tại thị trường này khoảng từ 400 USD/người/tháng đến 1300 USD/người/tháng. Thị trường lao động Nhật Bản từ trước đến nay được xem là một điểm dừng chân lý tưởng cho lao động Việt Nam. Với mức thu nhập từ 700 USD/người/tháng đến 1500 USD/người/tháng đã thu hút nhiều lao động Việt Nam tham gia vào thị trường này. Tuy nhiên tại thị trường này có yêu cầu khắt khe với các lao động nhập cư: Người lao động phải biết tiếng Nhật, có tay nghề và đảm bảo sức khỏe để làm việc với cường độ cao. Bên lề một hội nghị về xuất khẩu lao động, nhiều chuyên gia đã đưa ra cảnh báo, nếu để tình trạng nói trên kéo dài, thị trường Malaysia sẽ bị “xóa sổ”. Nhiều doanh nghiệp đưa ra dẫn chứng, họ đã phải rút mục tiêu xuất khẩu lao động sang Malaysia xuống 1/3 so với năm 2007. Mặc dù vậy, họ vẫn không giám chắc sẽ đạt được con số ít ỏi đó. (Theo VnEconomy ngày 11/03/2008). Trao đổi với VnEconomy về việc làm gì để khôi phục lại thị trường Malaysia truyền thống, ông Nguyễn Xuân Vui, Giám đốc Airserco cho rằng, rất khó để làm việc đấy nếu Chính phủ Malaysia không có kế hoạch tăng lương cho lao động nhập cư. Trước mắt, cách duy nhất để níu giữ thị trường Malaysia, các doanh nghiệp cần giảm chi phí đi xuống mức tối thiểu cho người lao động. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thỏa thuận được với ngân hàng để người lao động có thể vay tiền nhưng không phải chịu lãi hàng tháng và cố gắng tìm kiếm những hợp đồng có thu nhập tối thiểu khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, đặc biệt là tìm được những công việc có thể giúp người lao động làm thêm giờ. Về lâu dài, nhiều doanh nghiệp cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý Lao động ngoài nước cần có những biện pháp khẩn cấp, đàm phán về lương để giữ lại thị trường mới và tiềm năng này. Tuy nhiên, đại diện của Cục Quản lý lao động ngoài nước lại cho rằng, doanh nghiệp cần quan tâm đến khâu thẩm định hợp đồng, tránh tình trạng đưa người lao động sang đến Malaysia rồi mà vẫn không có việc làm hoặc làm không đúng việc, thu nhập không đảm bảo gây tâm lý hoang mang và mất lòng tin của người lao động. Canada được coi là thị trường tiềm năng, ngoài điều kiện ăn ở và làm việc tốt, người lao động Việt Nam còn được học hỏi thêm về kinh nghiệm làm việc và kinh doanh để khi về nước có thể tự phát triển sản xuất hoặc kinh doanh. Thị trường này đang có nhu cầu tuyển lao động làm việc trong các khách sạn, trang trại, nhà máy và ng ành xây dựng với mức lương khoảng 1000 USD/tháng. Hàn Quốc cũng là một điểm dừng chân tốt cho lao động Việt Nam, Đến nay đã có hơn 52.000 tu nghiệp sinh Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc. Đặc biệt, có khoảng 3.000 lao động đang làm việc theo Luật lao động mới của Hàn Quốc. Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã lập 10 trường đào tạo tiếng Hàn và giáo dục định hướng cho lao động trước khi sang làm việc tại Hàn Quốc. Thời gian tới, phía Hàn Quốc sẽ giúp đỡ Việt Nam trong việc cung cấp giáo trình và giáo viên đào tạo tiếng Hàn cũng như phong tục tập quán của Hàn Quốc. Tuy nhiên tại những thị trường truyền thống này chúng ta gặp không ít khó khăn do những nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ người lao động như là tay nghề còn yếu kém, ý thức kỉ luật không cao. Theo ước tính của Cục quản lý lao động ngoài nước hàng năm có hàng nghìn lao động Việt Nam tự ý bỏ hợp đồng lao động đi làm việc ngoài do vậy nhiều thị trường lao động đã hạn chế tiếp nhận lao động Việt Nam. Bên cạnh đó những yêu cầu về trình độ tay nghề của lao động xuất khẩu ngày càng khắt khe hơn nên đây là một trở ngại lớn cho việc xuất khẩu lao động của Việt Nam tại những thị trường lao động truyền thống này. 2.2.2. Thị trường mới Ngoài việc phải duy trì và phát triển thị trường lao động truyền thống đang ngày càng trở nên eo hẹp thì nước ta phải đẩy mạnh phát triển những thị trường lao động mới để đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động nước ta. Hiện nay tại thị trường lao động Libi có khoảng hơn 1000 lao động làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng và đánh bắt hải sản với mức thu nhập bình quân khoảng từ 300 - 400 USD/người/tháng. Theo thống kê của Bộ lao động - thương binh và xã hội, 8 tháng đầu năm 2007, đã có 1.461 lao động được đưa sang Macao, làm việc ở các lĩnh vực dịch vụ nhà hàng khách sạn, thợ xây dựng, trang trí nội thất, nhưng chủ yếu là giúp việc gia đình... Nhiều công ty khai thác tại thị trường này cho biết, Macao là một vùng lãnh thổ nhỏ, chỉ với 180.000 hộ dân, nhưng nhu cầu nhập khẩu lao động rất lớn. Đa số hộ dân cần sử dụng giúp việc gia đình. Bên cạnh đó, chính sách tiếp nhận lao động của Macao khá thông thoáng. Đây là điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động sang thị trường này. Mặc dù ở Macao không quy định mức lương tối thiểu cho lao động giúp việc gia đình nhưng thu nhập của lao động tại thị trường này khá cao so với chi phí bỏ ra ban đầu. Đối với lao động phổ thông, mức thu nhập khoảng 5 triệu đồng/người/tháng. Còn lao động giúp việc gia đình lương không dưới 3 triệu đồng. Tuy nhiên, cũng chính vì chính sách "quá mở", người nước ngoài có thể vào Macao thường xuyên và rất dễ dàng nên bất cứ ai đặt chân lên đất Macao chỉ được cấp visa du lịch, kể cả trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đây chính là lỗ hổng phát sinh nhiều bất cập. Pháp luật Việt Nam (luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài) quy định không được phép đưa lao động ra nước ngoài bằng hình thức visa du lịch. Thế nhưng, với thị trường Macao hình như là một ngoại lệ. Cả 10 công ty khai thác thị trường này đều phải chấp nhận đưa lao động đi theo hình thức visa du lịch. Sau khi sang đến đất Macao, người lao động được chủ sử dụng lao động tiếp nhận, họ sẽ có trách nhiệm lo thủ tục làm thẻ xanh, tức là thẻ cư trú khoảng 1năm. Theo đó, người lao động sau khi nhập cảnh vào Macao mới được biết chủ sử dụng lao động là ai. Điều này hoàn toàn trái ngược với quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài của Việt Nam hiện nay. Đấy là chưa kể đến chuyện ngay cả khi đặt chân lên đất Macao rồi, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như chính người lao động không biết chắc mình có được chủ chọn hay không? Thời gian ký kết hợp đồng và mức lương như thế nào? Thậm chí, không loại trừ trường hợp sẽ có nhiều lao động đã sang Macao nhưng không được chủ chọn. Doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm với những lao động sau khi hết thời hạn visa du lịch mà vẫn chưa tìm được việc. Cụ thể, doanh nghiệp sẽ đưa lao động về nước và hoàn trả lại toàn bộ chi phí mà người lao động bỏ ra. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại việc đi ngược lại với quy định của pháp luật trong hoạt động xuất khẩu lao động sang Macao sẽ tạo nên kẽ hở cho những đối tượng lừa đảo có cơ hội lộng hành. Hoạt động đưa lao động ra nước ngoài bằng hình thức visa du lịch.có lẽ cần được sự xem xét kỹ lưỡng hơn từ phía các cơ quan quản lý. Tại Anh và Hy Lạp, bước đầu đã có lao động Việt Nam làm việc, tuy số lượng không nhiều, nhưng thu nhập của lao động Việt Nam tại các nước này tương đối cao. Tại các thị trường đã có, phần lớn lao động Việt Nam được đánh giá khá tốt về khả năng làm việc, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Nhìn chung, thu nhập của người lao động ổn định. Đặc biệt, lao động làm việc trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, công trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài có điều kiện làm việc, ăn ở và thu nhập khá tốt. Gần đây xuất hiện thêm hai thị trường xuất khẩu lao động "mới toanh", đó là Australia và Ireland. Mức lương tại đây có thể lên tới 2.000 euro/tháng .Thời gian qua, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đã đàm phán với một số doanh nghiệp Australia để có thể đưa số lao động "thí điểm" đầu tiên sang làm việc tại các lĩnh vực: xây dựng, trang trại, dịch vụ và khách sạn... Ngoài ra, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đang lên kế hoạch khai thác thị trường Ireland - một điểm đến rất mới. Theo kế hoạch sắp tới những kỹ sư xây dựng đầu tiên sẽ đến Ireland làm việc với mức lương khoảng 2.000 Euro. Thời gian gần đây, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đang “gõ cữa” hai thị trường n ày, chi phí trước khi đi khoảng 3.000-5.000 USD. Theo hãng tin AC Nielsen, Australia đang thiếu nhân công trầm trọng trong lĩnh vực xây dựng, trang trại... Do thiếu lao động nên đã vài tháng qua, đa số doanh nghiệp xây dựng nước này không hoàn thành tiến độ, chỉ tiêu nhiều dự án quan trọng; bên cạnh đó, hầu hết các trang trại lớn cũng đang rơi vào tình cảnh trái chín rụng do không kịp thu hoạch. Tình trạng thiếu nhân lực đã buộc Chính phủ nước này phải chuẩn bị lên kế hoạch nhập khẩu lao động từ các nước thuộc khu vực châu Á- Thái Bình Dương; trước mắt số lao động dự định sẽ tuyển sang khoảng 20.000 người, lương khoảng 1.500 - 2.000 USD/người/tháng... (Vnmedia ngày tin 12/04/2005). Nắm bắt nhu cầu, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đang có kế hoạch thăm dò, khai thác thị trường này. Từ trước đến nay, Australia chưa nhập khẩu lao động từ các nước khu vực châu Á, nhưng lần này có thể sẽ khác. Chính phủ nước này đang xem xét kế hoạch cấp một loại thị thực (ngắn hạn) đặc biệt cho lao động đến từ các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Chính phủ Australia cũng đang nghiên cứu để có thể tăng số người nhập cư lên 140.000 người/năm nhằm giải quyết tình trạng thiếu nhân công. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, mới đây, Công ty Xây dựng Dịch vụ và Hợp tác lao động (OLECO) đã thống nhất được với các đối tác Ixraen tiếp nhận lao động nông nghiệp từ Việt Nam dưới dạng tu nghiệp sinh, ngoài mức trợ cấp được phía Ixraen trả khá cao, những tu nghiệp sinh nông dân này sẽ học tập được phương pháp sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao của IIxraen - một trong những quốc gia hàng đầu về khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Công ty Cung ứng lao động Quốc tế và Dịch vụ Inmasco hiện cũng đang tuyển dụng một số lượng lớn kỹ sư xây dựng đi làm việc tại Angiêri thông qua một nhà thầu Nhật Bản. Tại một thị trường mới khác là Singapore, nhiều doanh nghiệp điện tử và các công ty kinh doanh dịch vụ nước này cũng đã có xu hướng tuyển dụng lao động Việt Nam nhiều hơn. Đơn vị "mở hàng" thị trường này năm nay là Công ty Dịch vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia (Suleco) với một hợp đồng tuyển 70 lao động với mức lương rất cao, từ 1.400-1.800 SGD/người/tháng (xấp xỉ 14 -18 triệu VND). Đây là khoản thu nhập chính thức cao nhất mà lao động Việt Nam có được trong số các thị trường xuất khẩu ở Châu Á. Theo Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hai tháng đầu năm nay đã có trên 15.760 lao động đi làm việc tại nước ngoài. Trong số này, các thị trường truyền thống là Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn chiếm phần lớn nhưng đang gặp khó khăn do quota bị hạn chế và những điều kiện khách quan khác. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam khẳng định, các chủ sử dụng của nước này tỏ ra rất khắt khe khi nhận lao động nước ngoài. Họ thường nhấn mạnh đến chất lượng lao động. Vì thế doanh nghiệp khai mở thị trường mà chất lượng lao động đảm bảo sẽ được ưu tiên hàng đầu. Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam dự đoán, hiện nay một bộ phận không nhỏ người dân Australia chưa cảm thấy thoải mái với chính sách nhập khẩu lao động nhưng nếu lao động nước ngoài đến đất nước này mà góp phần giải quyết tốt tình trạng thiếu nhân công thì chắc chắn sẽ chiếm được cảm tình lâu dài của chủ sử dụng lao động. Qua những phân tích ở trên, chúng ta đã thấy được rằng : Trong bối cảnh toàn cầu hoá, di cư lao động quốc tế dưới hình thức xuất khẩu lao động gia tăng mạnh và đã góp phần tích cực vào chiến lược giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo sự ổn định và phát triển đất nước. Với một số lượng lao động khá lớn đang làm việc ở nước ngoài, hằng năm đã mang lại một nguồn thu nhập rất lớn bằng ngoại tệ mạnh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời cải thiện đời sống của nhiều gia đình. Đối với người lao động, mức lương trung bình 300-500USD/tháng, bình quân hàng năm mỗi lao động làm việc ở nước ngoài tiết kiệm được khoảng 4000 USD, góp phần giúp đỡ cho gia đình, cộng đồng và quê hương. Ngoài ra, bản thân người lao động còn tiếp thu học hỏi được nhiều kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, lối sống văn minh, tiếp nhận các giá trị xã hội mới. Đây là những cái được cần phát huy. Tuy nhiên, lao động Việt Nam cũng có những nhược điểm căn bản như trình độ ngoại ngữ, tay nghề, ý thức kỷ luật, trách nhiệm trong công việc còn kém so với lao động từ nhiều nước khác. Về mặt tổ chức, công tác tuyển chọn và đào tạo trước khi đi làm việc ở nước ngoài chưa được thực hiện tốt dẫn đến nhiều tiêu cực. Tình trạng lao động Việt Nam bị bỏ rơi sau khi đặt chân đến nước bạn, hoặc bị trả về trước thời hạn do không đáp ứng được nhu cầu của bên sử dụng lao động hoặc do phá hợp đồng diễn ra thường xuyên trên thực tế. Đây là những bất lợi và thách thức lớn đòi hỏi phải có những bước đột phá trong cơ chế chính sách quản lý xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay. Điều đáng đề cập là cơ hội đi xuất khẩu lao động không hoàn toàn dễ dàng đối với lao động nông nghiệp, đặc biệt là đối tượng nghèo, nghèo cả về thông tin, quan hệ xã hội lẫn tiềm lực kinh tế. Người có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài còn phải trải qua nhiều thủ tục rườm rà, khó khăn trong giấy tờ, thế chấp, đặt cọc ngân hàng với những thủ tục đến nản lòng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng lừa đảo bóc lột người lao động. Thật khó có thể giúp người nông dân nghèo vay mượn 4-5 nghìn USD để đóng cho công ty tuyển dụng cung ứng lao động. Tại nhiều doanh nghiệp, mạng lưới môi giới đã xuất hiện với cách “làm giá” đi xuất khẩu với cách “làm ăn chụp giật”, gây mất uy tín, thậm chí vi phạm pháp luật. Hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta gặp nhiều khó khăn hơn do sự khốc liệt của thị trường quốc tế. Lao động Việt Nam giờ đây phải cạnh tranh với ngay chính các lao động đến từ các nước trong khu vực như Inđônêxia, Băng-la-đét, Philípin. Các thị trường tiếp nhận lao động trên thế giới trở nên “khó tính” hơn, thận trọng hơn, trong khi tiền lương tối thiểu cho người lao động ngày càng giảm sút trong bối cảnh cạnh tranh, toàn cầu hoá. Trong khi các kênh di cư lao động chính thống dưới hình thức xuất khẩu lao động chưa đủ sức đáp ứng được nhu cầu việc làm thì các luồng di cư qua các kênh phi chính thức diễn ra khá phổ biến, đó là đưa người ra nước ngoài trái phép gia tăng trong những năm qua. Số nạn nhân bị lừa gạt, buôn bán qua biên giới Trung quốc và Cămpuchia ngày càng nhiều, với những thủ đoạn tinh vi, che đậy dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau. Vấn nạn buôn người đã đánh trúng tâm lý mong muốn có được việc làm dễ dàng, có thu nhập, không đòi hỏi thủ tục và đặc biệt là sự kém hiểu biết do thiếu thông tin của nạn nhân. Giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em từ nông thôn ra thành phố cũng như qua biên giới đến các khu vực khác sẽ tiếp tục gia tăng ở Việt Nam. Xuất khẩu lao động vẫn đang là một kênh rất hữu hiệu để giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam hiện nay và cho những năm tiếp theo. Vì vậy, phải làm thế nào để đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động ở nước ta hiện nay đang là vấn đề cấp bách. Bên cạnh đó còn nhiều thị trường tiềm năng như: thị trường lao động vận tải biển, Ixaren, Băng-la-đét…có mức thu nhập cao và điều kiện làm việc tốt đang được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nước ta khai thác. Chương 3 Định hướng nâng cao công tác xuất khẩu lao động 3.1. Định hướng phát triển xuất khẩu lao động 3.1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước Xuất khẩu lao động ra nước ngoài thực ra đã được nhà nước ta quan tâm từ lâu. Ngay vào đầu thập niên 80, Việt Nam bắt đầu thực hiện các hoạt động xuất khẩu lao động. Từ cuối năm 1991 đến nay, cùng với chính sách đổi mới và mở rộng quan hệ quốc tế với bên ngoài, hoạt động xuất khẩu lao động đã chuyển sang cơ chế thị trường với quy mô lớn hơn. Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chương trình, dự thảo nhằm tăng cường công tác XKLĐ. Mới đây, dự thảo Luật gồm 8 Chương, 62 Điều và so với những quy định hiện hành đã thể hiện được chủ trương của Đảng và Nhà nước; quy định rõ quyền và nghĩa vụ của của doanh nghiệp, tổ chức đưa người đi làm việc ở nước ngoài, của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động làm việc ở nước ngoài; trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp; quy định chế tài xử lý các vi phạm. Theo Ban soạn thảo, dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là loại dịch vụ có tác động trực tiếp đến người lao động và có những yếu tố đặc thù khác nhau: địa điểm làm việc ở nước ngoài, các quan hệ lao động đều có yếu tố nước ngoài. Để bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thì không nên cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hoạt động dịch vụ này. Khi soạn thảo Luật, Ban soạn thảo cũng đã có tham khảo một số nước, tiêu biểu là Trung Quốc, cũng có quy định không cho phép doanh nghiệp có vốn nước ngoài tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Dự thảo Luật cũng quy định giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được cấp cho doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Luật này tương tự như giấy phép hoạt động của một số loại dịch vụ có điều kiện khác (giấy phép hành nghề khám chữa bệnh, khai thác khoáng sản…). Doanh nghiệp cũng có thể bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, tước quyền sử dụng trong những trường hợp nhất định như: doanh nghiệp ngừng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hoạt động không hiệu quả hoặc vi phạm pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các giải pháp để phát triển hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách bền vững, trong đó tập trung vào năm giải pháp trọng tâm sau: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã lần lượt ban hành 4 Nghị định, đặc biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Với luật này, hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài có một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ để phát triển trong thời gian tới. Đàm phán với các nước nhận lao động Việt Nam để ký kết các thoả thuận và hợp tác trong lĩnh vực tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc. Cho đến nay, Việt Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc, Malayxia, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Ô-man, Qatar; đang đàm phán và chuẩn bị ký kết các hiệp định với Các tiểu Vương quốc Arập Thống Nhất, Ba-ranh, Libi, Liên bang Nga… Đối với các nước nhận lao động Việt Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng ta đã tiếp xúc, đàm phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ các nước trên thực tế nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam. Coi trọng công tác quản lý, giám sát hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Bộ LĐ-TB&XH cùng các bộ, ngành liên quan và Chính quyền địa phương thường xuyên theo dõi, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi đến quyền lợi người lao động. Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài. Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có nhiều lao động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện ở các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng xử trong công việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc. Xây dựng lộ trình sắp xếp, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hướng, tiêu chí của Luật Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở đào tạo của doanh nghiệp để chủ động tạo nguồn lao động có chất lượng theo yêu cầu của thị trường, xây dựng thương hiệu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có cơ chế biện pháp cụ thể để hỗ trợ người lao động, người nghèo vay vốn, học nghề, làm thủ tục xuất khẩu lao động. 3.1.2. Mục tiêu cho các năm tới Mỗi năm, lực lượng lao động của Việt Nam được bổ sung thêm 1 triệu lao động trẻ. Những năm gần đây, bình quân mỗi năm giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 1,1 triệu - 1,2 triệu người. Tạo việc làm mới ở đây phải hiểu là ngoài việc làm mới ở trong nước, còn tạo việc làm mới ở nước ngoài mà cụ thể là cố gắng đẩy nhanh việc xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động cũng đã và đang có những hướng phát triển mới. Đối với thị trường ngoài nước: Sự cạnh tranh giữa công ty các nước cung ứng lao động ngày càng trở nên gay gắt hơn, trong đó về cơ bản và lâu dài vẫn là sự cạnh tranh về chất lượng, thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, đòi hỏi kỹ năng nghề, ngoại ngữ và tính kỹ luật của người lao động ngày càng cao. Doanh nghiệp nào, quốc gia nào có được nguồn lao động chất lượng cao hơn sẽ có nhiều hợp đồng hơn, chi phí môi giới thấp hơn và thu nhập của người lao động cao hơn. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, tâm huyết, trách nhiệm cao của họ trong công việc đem lại chất lượng dịch vụ tốt của doanh nghiệp đối với đối tác nước ngoài. Cả hai yếu tố đó đều không thể thiếu, chúng bổ sung cho nhau và trên thực tế đang là thách thức từ thị trường ngoài nước, đòi hỏi doanh nghiệp phải vượt qua. Đối với thị trường trong nước: Nguồn lao động kỹ năng nghề cao, ngoại ngữ khá chưa có đủ để tuyển chọn cho cả thị trường trong nước và ngoài nước. Đặc biệt, với thị trường ngoài nước, người lao động không những cần đạt được yêu cầu về kỹ năng nghề, ngoại ngữ mà còn phải hội đủ nhiều yếu tố khác như: sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, tiền vốn…mới có thể tham gia vào thị trường ngoài nước, nên việc tìm kiếm, tuyển chọn ngày càng khó hơn. Từ góc nhìn này, sẽ không sai khi nói rằng, nhiều doanh nghiệp không thiếu “thị trường và hợp đồng cao” – cao về thu nhập, điều kiện làm việc và đãi ngộ mà lại thiếu chính cái mà mình phải có - đó là nguồn lao động có chất lượng. Cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động được mở rộng, kéo theo đó là tâm lý kén chọn thị trường cao hơn khả năng thực sự của họ. Điều đáng mừng là nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển với tốc độ khá cao, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhanh tạo thêm nhiều chổ làm mới. Thêm vào đó là một số thị trường có thu nhập cao hơn vừa hé mở, một số lượng nhất định lao động Việt Nam đã vào được thị trường này. Tuy nhiên, cũng chính trong hoàn cảnh đó, một bộ phận đáng kể người lao động do nhiều nguyên nhân, trong đó một phần chưa nắm bắt đầy đủ thông tin, đã nãy sinh tâm lý “kén chọn” thị trường thu nhập cao mà không tính đến điều kiện cụ thể của mình có đáp ứng được yêu cầu hay không? Đây chính là khó khăn lớn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lâu nay chủ yếu cung ứng cho th ị trường phù hợp với lao động có trình độ thấp, “thị trường giảm nghèo”. Xuất khẩu lao động hướng mạnh tới thị trường thu nhập cao. Cụ thể, gần đây các doanh nghiệp đã đưa được những thợ có tay nghề cao như thợ hàn, thợ sơn, đầu bếp sang Australia làm việc. Đây là bước chuyển đổi quan trọng của các doanh nghiệp từ chỗ chạy theo số lượng sang thời kỳ tìm kiếm thị trường có thu nhập cao nhưng trình độ cũng phải cao. Một vấn đề cũng đang đặt ra cho thị trường xuất khẩu lao động hiện nay là lao động Việt Nam khó tiếp cận những thị trường lao động thu nhập cao và đang cần nhiều lao động ngoài nước. Mặc dù các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã thâm nhập nhiều năm vào các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản nhưng số lao động có nhu cầu đi vẫn rất lớn và số lao động được tuyển chọn sang các nước này lại quá ít. Còn những thị trường mới như Mỹ, Canada, Australia, Síp, Cộng hòa Czech... thì lao động Việt Nam lại rất khó tiếp cận do trình độ hạn chế. Việc Chính phủ Hàn Quốc dừng thực hiện chương trình tiếp nhận lao động dưới hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp, vì vậy lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này chỉ được thực hiện theo chương trình tiếp nhận lao động nước ngoài do Bộ Lao động Hàn Quốc và Bộ LĐTB&XH Việt Nam phối hợp. Nhưng số lượng lao động được tiếp nhận có hạn (mỗi năm chừng 10 ngàn người), trong khi lại có quá nhiều nhu cầu. Trong những năm tới, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phát triển hình thức tu nghiệp sinh ở Nhật Bản với các định hướng cơ bản sau: Thứ nhất, tăng số lượng và mở rộng ngành nghề tiếp nhận tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản như y tá, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ... Thứ hai, tăng thời gian tu nghiệp tại Nhật Bản từ 3 lên 5 năm, trong đó có 1 năm tu nghiệp và 4 năm thực tập kỹ năng. Thứ ba, đề nghị cấp giấy chứng nhận về tay nghề, tiếng Nhật cho người lao động sau khi hoàn thành hợp đồng để họ có thể dễ dàng tìm kiếm việc sau khi trở về Việt Nam. Thứ tư, đề nghị phía Nhật Bản có những biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý những doanh nghiệp tiếp nhận lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp để hạn chế tình trạng này. Trong thời gian tới, Nước ta sẽ giảm dần việc xuất khẩu người giúp việc gia đình. (Theo trang báo điện tử VnExpress) Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và nhi đồng Nguyễn Viết Chức tha thiết đề nghị dự luật nên có một điều khoản hạn chế xuất khẩu ôsin. “Lương của họ chẳng được bao nhiêu, lại làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế”, ông Chức giải thích. Ông dẫn chứng ở Libăng vừa qua, lao động giúp việc gia đình mất luôn cả quyền con người “vì sang đến nơi người ta cầm hộ chiếu, không thanh toán lương, chiến tranh xảy ra phải về tay trắng”. 3.2. Giải pháp tăng cường công tác xuất khẩu lao động 3.2.1. Giải pháp đối với Nhà Nước 3.2.1.1. Sửa đổi bổ sung cơ chế quản lý Thiết lập quan hệ với các quốc gia có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài. Do Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển xuất khẩu lao động Nên ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng và chiến lược thì còn có vai trò hết sức to lớn trong việc mở rộng thị trường lao động ngoài nước. Cần hình thành hệ thống tùy viên lao động để tham mưu tư vấn cho Nhà nước các hiệp định khung hoặc các thỏa thuận nguyên tắc để tạo tiền đề cho các doanh nghiệp ký kết thực các hợp đồng cụ thể như ở các nước xuất khẩu lao động truyền thống, có thể thấy vai trò của tùy viên lao động rất quan trọng, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. 3.2.1.2. Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong xuất khẩu lao động Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan chính phủ, thống nhất quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động có trách nhiệm: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển. Nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về xuất khẩu lao động. Tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác xuất khẩu lao động theo đúng Luật lao động. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội thiết lập thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam. Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các thủ tục, đảm bảo, thuận lợi nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động và chuyên gia. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công thương….và chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong phạm vi thuộc Bộ, ngành địa phương mình theo quy định của Nhà nước, chỉ đạo các tổ chức kinh tế xuất khẩu lao động tổ chức tốt đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 3.2.1.3. Công tác thanh tra, kiểm tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành quy chế và hướng dẫn công tác thanh tra và kiểm tra về xuất khẩu lao động và chuyên gia, tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất. Các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi,vi phạm liên quan đến xuất khẩu lao động. 3.2.1.4. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực Xây dựng, đánh bắt thủy sản, thợ mộc, cơ khí, xây dựng… là những lĩnh vực được xem là truyền thống đối với lao động xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm gần đây thì các lĩnh vực truyền thống đã không ngừng tăng về số lượng xuất khẩu lao động mà còn tăng cả về chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. Với sự phát triển về nhu cầu cuộc sống như ngày nay thì ngoài việc phát triển các lĩnh vực truyền thống cần phải chú ý các lĩnh vực mới mà lao động Việt Nam có thể đáp ứng tốt như, nhân viên tạp vụ nhà hàng, công nhân làm trong các khu công nghệ cao, sản xuất hàng trang trí nội thất cao cấp… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể liên kết với các cơ sở dạy nghề, trường dạy nghề để đào tạo nguời lao động trên các lĩnh vực mới này để có thể đáp ứng tốt cho các đối tác nước ngoài tiếp nhận lao động Việt Nam. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia có kiến thức, trình độ tay nghề thông thạo ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp trong lao động với giới chủ nước ngoài. 3.2.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động Phải xây dựng cho được một đội ngũ doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh, là đội quân tiên phong trong khâu khai thác thị trường mới, cạnh tranh với các nước xuất khẩu lao động khác, tham gia đấu thầu quốc tế làm nền tảng và dọn đường cho đội ngũ doanh nghiệp phía sau thâm nhập thị trường. Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới hoa hồng linh hoạt để tạo thế chủ động cho doanh nghiệp trong việc tìm được hợp đồng xuất khẩu lao động. Nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Bên cạnh việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp, cần phải thu hồi giấy phép đối với các doanh nghiệp hoạt động thiếu năng lực và không có hiệu quả, sáp nhập giải thể các doanh nghiệp có nhiều đầu mối xuất khẩu lao động. 3.2.3. Các giải pháp đối với công tác đào tạo xuất khẩu lao động Ở nước ta hiện nay, nguồn lao động thì nhiều nhưng đáp ứng tốt các yêu cầu về chuyên môn, sức khỏe,…còn hạn chế. Do vậy cần phải tăng cường công tác đào tạo lao động xuất khẩu để đáp ứng cho thị trường. Và công tác đào tạo nguồn lao động được coi là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến vấn đề này. Do đó cần có sự quản lý, hướng dẫn chặt chẽ của Nhà nước cho doanh nghiệp thực hiện: Đối với Nhà nước: Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, cùng doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở, trung tâm dạy nghề… chú trọng phát triển những nghề mà có nhu cầu cao của người sử dụng lao động. Nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục phổ thông để khi ra trường, lực lượng này đủ khả năng, điều kiện về ngoại ngữ tham gia xuất khẩu lao động. Từng khu vực, ngành nghề có từng chương trình giảng dạy riêng. Đào tạo chuyên môn, kiến thức phải đi kèm đạo tạo về ý thức kỷ luật trách nhiệm cho người lao động Bổ sung cho người lao động về pháp luật Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phải thường xuyên hướng dẫn cho chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người lao động về định hướng, thông tin các thị trường một cách cụ thể. Và điều cuối cùng là cần phải làm cho người lao động thấy được ý nghĩa, vai trò to lớn, trách nhiệm của họ đối với quê hương, đất nước, doanh nghiệp và gia đình khi họ được chọn ra nước ngoài làm việc. 3.2.4. Giải pháp đối với người lao động Người lao động cần tỉnh táo nắm bắt được các thông tin chính xác. Khi có nhu cầu XKLĐ, hãy liên hệ trực tiếp với cục quản lý lao động nước ngoài và Bộ lao động thương binh và xã hội cũng như cơ quan ban ngành hữu quan ở địa phương, thông qua ban chỉ đạo xã hội địa phương, các công ty có chức năng xuất khẩu lao động, không đi qua môi giới, cò mồi. Riêng với người lao động có nguyện vọng đi làm việc tại Hàn Quốc cần lưu ý rằng hiện trung tâm lao động ngoài nước (OWC) là cơ quan duy nhất được Bộ lao động thương binh và xã hội và Bộ lao động Hàn Quốc uỷ quyền việc thực hiện tuyển chọn và đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này. Theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Kim Ngân, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các giải pháp để phát triển hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài một cách bền vững, trong đó tập trung các giải pháp trọng tâm: Đàm phán với các nước nhận lao động Việt Nam để ký kết các thoả thuận và hợp tác trong lĩnh vực tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc. Cho đến nay, Việt Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc, Malayxia, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Ô-man, Qatar; đang đàm phán và chuẩn bị ký kết các hiệp định với Các tiểu Vương quốc Arập Thống Nhất, Ba-ranh, Libi, Liên bang Nga… Đối với các nước nhận lao động Việt Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng ta đã tiếp xúc, đàm phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ các nước trên thực tế nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam. Coi trọng công tác quản lý, giám sát hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Bộ LĐ-TB&XH cùng các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương thường xuyên theo dõi, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi đến quyền lợi người lao động. Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài. Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có nhiều lao động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi người lao động. Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng xử trong công việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc. Bên cạnh những giải pháp thúc đẩy công tác xuất khẩu lao động thì các cơ quan, các cấp ngành và bộ phận hữu quan cũng cần tìm giải pháp giải quyết việc làm cho người hoàn thành hợp đồng lao động trở về nước. Bởi vì vấn đề việc làm cho người lao động khi về nước hiện nay vẫn còn thiếu một chiến lược lâu dài, người lao động khi trở về nước thì việc làm vẫn rất là bấp bênh. Vì vậy người lao động hầu như không yên tâm khi về nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người lao động khi hết hợp đồng không muốn trở về nước mà sống bất hợp pháp ở nước người. PHẦN KẾT LUẬN Trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức sôi động và mạnh mẽ như ngày nay thì việc giải quyết việc làm cho người lao động đang là một vấn đề cấp thiết. Xuất khẩu lao động là một xu hướng khách quan cho các nước đang phát triển mà có cơ cấu dân số trẻ như Việt Nam. Cùng với sự tăng tốc của các cường quốc mạnh và những phát minh khoa học công nghệ tiên tiến tối ưu thì ngoài việc học hỏi tiếp thu các thành tựu của nước bạn, chúng ta cần đem chính những nhân công Việt Nam sang tận các nước đó để tiếp thu những kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nước sở tại. Bởi nếu được trực tiếp quan sát, làm việc thì chúng ta sẽ nhanh chóng lĩnh hội tốt hơn. Đồng thời xuất cảnh làm cho người lao động Việt Nam có cơ hội mở rộng tầm nhìn toàn cảnh nền kinh tế thế giới, để rồi cải thiện cuộc sống người lao động, gây dựng viễn cảnh tương lai tươi sáng hơn cho chính mình và tương lai phồn thịnh của đất nước mình. Do yêu cầu về xuất khẩu lao động ngày càng khắt khe về trình độ lao động, kỹ năng tay nghề, nhất là đối với công việc trong công xưởng, nhà máy; về kỷ luật lao động và ngoại ngữ, nhất là tại các thị trường không thông dụng tiếng Anh. Hiện lao động của nước ta ra nước ngoài cơ bản đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp sở tại, nhưng tay nghề, trình độ còn hạn chế, nên khó đưa sang các nước có nền kinh tế phát triển. Tại các thị trường truyền thống, phần lớn lao động Việt Nam được đánh giá khá tốt về khả năng làm việc, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Nhìn chung, thu nhập của người lao động ổn định. Đặc biệt, lao động làm việc trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, công trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài có điều kiện làm việc, ăn ở và thu nhập khá tốt. Để đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động thì không chỉ đòi hỏi nỗ lực của các doanh nghiệp mà còn cần tới sự liên kết phối hợp giữa cơ quan nhà nước và bản thân người lao động. Thực hiện tốt những giải pháp trên chúng tôi tin rằng xuất khẩu lao động của Việt Nam sẽ ngày một mạnh hơn về cả chất lẫn lượng.Và thương hiệu lao động Việt Nam sẽ được khẳng định trên trường Quốc tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi_dung_7706.doc